Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), nhân dân Ninh Hòa thoát khỏi chế độ thực dân kiểu mới, làm chủ cuộc đời, làm chủ quê hương. Những giá trị truyền thống anh hùng trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Đảng bộ, quân và dân Ninh Hòa chuyển hoá thành thành sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, chiến thắng đói nghèo, xây dựng cuộc sống mới ấm no hạnh phúc. Trong chặng đường lịch sử hơn 35 năm, trong đó có hơn 3 năm hợp nhất 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh thành huyện Khánh Ninh (11/1975 - 2/1979), cùng với cả nước, cả tỉnh tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đầy khó khăn, gian khổ, Ninh Hòa đã giành được những thành tựu to lớn. Những thành tựu đó được kế thừa qua từng giai đoạn cách mạng, là kết quả của quá trình phát triển liên tục, dù có những khúc gấp song mạch chủ đạo vẫn là xu thế đi lên. Trong những thành tựu đó khắc ghi tinh thần cách mạng tiến công, chịu đựng gian khổ của toàn dân trong những năm đầu sau giải phóng, trước hết là tinh thần hy sinh, chịu đựng gian khổ, thậm chí thiệt thòi của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đã trải qua thời kỳ chiến tranh và gia đình có công với cách mạng. Vượt qua biết bao gian nan thử thách, phức tạp do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại và sự đánh phá quyết liệt từ kế hoạch hậu chiến của Mỹ và âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, toàn huyện đã nhanh chóng ổn định tình hình, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, giữ vững quốc phòng - an ninh, không ngừng củng cố tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng vững mạnh. Trên cơ sở đó sáng tạo và góp phần khẳng định những giá trị của chế độ xã hội mới nhằm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Giá trị nối tiếp giá trị và được nhân lên khi Ninh Hòa tiếp thu và vận dụng nhạy bén đường lối đổi mới của Đảng, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, từng bước chuyển hóa mọi tiềm năng, tài nguyên về con người lao động, đất đai, rừng biển... trở thành nội lực của địa phương để kết nối với nguồn ngoại lực trong quá trình phát triển. Đó là cơ sở tạo ra những thành quả, biến Ninh Hòa từ một vùng nông thôn nghèo khó, quanh năm hai mùa mưa lũ ngập úng và nắng hạn cháy đồng để trở thành một đô thị trẻ. Những thành quả ấy đã và đang thẩm thấu vào cuộc sống mà mỗi người dân đang được thụ hưởng, ngày càng yên vui, no ấm. Dù trước mắt còn nhiều nỗi lo, còn nhiều khó khăn so với nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng thì với người dân Ninh Hòa, những chuyển biến trên quê hương mà người dân đang chứng kiến, những điều kiện vật chất, văn hóa tinh thần mà mỗi người, mỗi gia đình đang thụ hưởng là điều nằm ngoài sự tưởng tượng cách đây 35 năm. Có thể khái quát những thành tựu, những dấu ấn lớn, như sau:
Thành tựu về phát triển kinh tế
Hơn 35 năm qua, từ một huyện nghèo, kinh tế thuần nông, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có gì đáng kể, lại bị ảnh hưởng hậu quả nặng nề do hơn 30 năm chiến tranh khốc liệt, Ninh Hòa trở thành một địa phương có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp với một hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển, đang trên đà cán đích mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Là một huyện nông nghiệp, nhưng hơn 10 năm đầu sau ngày giải phóng (1975 - 1986), Đảng bộ phải thường trực với nỗi lo chống đói cho dân. Đó là những năm khôi phục và phát triển kinh tế theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Sản xuất gặp khó khăn do thiếu hụt vật tư, nguyên, nhiên liệu; năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp; sản phẩm làm ra thiếu hụt xa so với nhu cầu tiêu dùng. Đời sống nhân dân thấp kém, thiếu thốn các nhu yếu phẩm thiết yếu. Từ sau khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới khi đổi mới, với những nỗ lực không ngơi nghỉ, Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã từng bước làm biến đổi toàn bộ nền kinh tế. Nông nghiệp, từ sản xuất độc canh cây lúa,năng suất thấp và thiếu hụt lớn đã chuyển sang sản xuất hàng hóa. Qua nhiều năm tìm tòi, thử nghiệm, huyện đã tìm được hướng đi phù hợp, định hình dần các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi trên 4 vùng kinh tế. Đó là vùng chuyên canh cây lúa, nuôi heo, vịt; vùng chuyên canh cây mía, nuôi bò; vùng làm muối, nuôi tôm, cua, cá, vẹm, hầu; vùng vườn rừng trồng cây nông - lâm kết hợp, nuôi bò. Các vùng chuyên canh phát triển khá ổn định, hàng năm tạo ra một khối lượng lớn nông sản hàng hóa phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều loại sản phẩm mới như tôm xuất khẩu, đường kết tinh, cá sấu, đà điểu... Đặc biệt, sản lượng lương thực tăng từ 22.000 tấn (năm 1975) lên 97.500 tấn (năm 2010) nên đã giải quyết một cách vững chắc vấn đề an ninh lương thực trên địa bàn. Là địa phương có nhiều tiềm năng, Đảng bộ sớm nhận ra phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là con đường tất yếu thúc đẩy kinh tế huyện phát triển nhanh và bền vững. Trải qua những bước thăng trầm, đến năm 2010, công nghiệp đã có bước phát triển vượt bậc. Các cụm công nghiệp với những nhà máy hiện đại lần lượt ra đời và không ngừng phát triển như cụm Ninh Xuân, cụm Ninh Thủy - Ninh Phước… Trong đó, nổi bật là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp tàu biển và công nghiệp thủy điện. Bên cạnh các ngành công nghiệp lớn, Ninh Hòa vẫn giữ và phát triển được những nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, tinh xảo mà ít nơi trong tỉnh còn giữ được như nghề thủ công mây, tre, lá xuất khẩu. Hàng năm ngành công nghiệp tạo ra một khối lượng lớn nhiều loại sản phẩm cho xã hội với giá trị chiếm tỷ trọng lớn nhất, trên 63,4% tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn. Công nghiệp thực sự đã tạo ra động lực mạnh mẽ, tác động sâu sắc và thúc đẩy toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội Ninh Hòa, làm lộ diện tiềm năng của ngành dịch vụ như dịch vụ giao thông vận tải, cảng biển, dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng…, lộ rõ nhất là trong giai đoạn Ninh Hòa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2000 - 2010). Những kết quả của ngành dịch vụ đến năm 2010 đã và đang tạo ra đà phát triển mạnh mẽ, gắn với sự hình thành khu kinh tế Vân Phong theo quy hoạch của tỉnh. Từ đó, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp trong tương lai gần.
Song song với phát triển sản xuất, để lại những dấu ấn mạnh mẽ trong lịch sử hơn 35 năm qua là quá trình xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật. Từ nhiều chương trình trọng điểm của tỉnh, của huyện, kết cấu hạ tầng được đầu tư khá đồng bộ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, phân bổ vừa cân đối theo địa bàn khu vực, vừa có trọng tâm, trọng điểm. Nhờ sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư của tỉnh và Trung ương, sự bền bỉ chịu đựng gian khổ, lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân, sự đoàn kết, năng động của Đảng bộ, chuẩn bị tốt môi trường thu hút đầu tư nên các công trình, dự án triển khai trên địa bàn huyện thuận lợi, bảo đảm cơ bản tiến độ thi công. Hầu hết các công trình đều sớm phát huy tác dụng. Dẫu cho trong quá trình hoàn thiện, có công trình có thời điểm tác động tiêu cực về môi trường như sản xuất đường, sản xuất gạch ngói, sửa chữa tàu thuyền... Nhưng mặt tiêu cực đó từng bước được khắc phục và hiệu quả mang lại cho xã hội của các dự án, công trình là điều cần khẳng định và đáng tự hào, nó góp phần quan trọng làm thay đổi mọi mặt cuộc sống của nhân dân trở nên no ấm, hạnh phúc. Đặc biệt là về hạ tầng thủy lợi đã để lại cho muôn đời sau những công trình lớn như hệ thống thủy lợi đập Sông Cái, hồ Suối Trầu, hồ Đá Bàn... Đến năm 2010, hệ thống thủy lợi trên địa bàn huyện đã cơ bản hoàn thiện với 33 công trình, trên 900 km kênh mương cấp I, II và III, tưới cho gần 20.000 ha cây trồng chủ lực gồm lúa, mía và một số cây trồng khác. Đó cũng chính là sức bật, tạo đà cho cuộc cách mạng về cơ giới hoá nông nghiệp, đưa khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi... để định hình dần các vùng chuyên canh nông nghiệp. Song song với hệ thống thủy lợi, kết cấu hạ tầng điện, đường, trường, trạm, nước sinh hoạt, thông tin, bưu chính - viễn thông… được quan tâm đầu tư. Trong đó, sôi nổi nhất là phong trào xây dựng các công trình điện, đường, trường, trạm diễn ra liên tục trong một thời gian dài với sự tham gia đóng góp công sức của nhân dân. Đó là những kết cấu hạ tầng tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống nhân dân. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu sau giải phóng, Đảng bộ luôn quan tâm lãnh đạo thực hiện và xác định là những nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt của mọi nhiệm kỳ đại hội. Trong thời gian đầu, với khả năng kinh tế còn yếu kém, công trình có quy mô không lớn, diện phục vụ không rộng, chất lượng không cao, xuống cấp nhanh chóng trước tác động của mưa lũ và các yếu tố khác, nhất là hệ thống giao thông năm nào cũng phải tu sửa mất nhiều công sức. Kiên trì bám đuổi mục tiêu đã được xác định, theo sự phát triển của kinh tế, qua mỗi giai đoạn, hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển dần lên. Đến năm 2010, quy mô phục vụ của các công trình đã phủ kín mọi địa bàn dân cư trong huyện, chất lượng phần lớn đạt tiêu chí quốc gia. Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng, làm phát lộ nhiều tiềm năng chưa được khai thác, không những thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn làm cho đời sống văn hóa - xã hội phát triển văn minh, tiên tiến, hòa nhập với thế giới. Thành quả đó tạo sức bật cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi căn bản bộ mặt của huyện và rút ngắn đáng kể khoảng cách về đời sống vật chất lẫn văn hóa, tinh thần giữa nông thôn với thành thị.
Những thành tựu kinh tế nêu trên là quá trình phát triển từ thấp đến cao, nó được gắn liền với sự chuyển biến liên tục trong sự vận động của cơ chế, chính sách. Từ lối sản xuất cá thể, nhỏ lẻ tiến lên xây dựng hợp tác xã; từ nếp nghĩ, cách làm xơ cứng, mệnh lệnh của thời kỳ quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang tư duy năng động, sáng tạo phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù phải trả một cái giá đắt khi buộc phải tiến hành những công trường khai phá đất rừng để giải quyết vấn đề lương thực cho xã hội; mặc dù có những bước đi nôn nóng, sai lầm trong tổ chức thực hiện hợp tác hóa và cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh theo chủ trương chung của Đảng, nhưng những thành quả đã đạt được trong những năm đầu sau giải phóng là to lớn. Những thành quả đó đã bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc vừa mới giành được và chế độ mới vừa mới được xác lập trước kế hoạch “hậu chiến” và âm mưu đánh phá thâm độc, quyết liệt của Mỹ và các thế lực thù địch trên địa bàn Ninh Hòa. Trên cơ sở giữ vững chế độ chính trị, Đảng bộ và nhân dân đã vượt qua những thử thách đầy khó khăn, gian khổ để tiếp nhận một cách nhạy bén đường lối đổi mới của Đảng. Cơ chế quản lý kinh tế mới được xác lập trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng bộ huyện, trước hết là của Ban Thường vụ Huyện ủy phù hợp với quá trình phát triển của thực tiễn ở địa phương. Đó là quá trình thích ứng nhanh chóng, phù hợp, đón trước được xu hướng để chuyển hướng lãnh đạo. Đảng bộ không thực thi một cách máy móc các chủ trương chung làm “cho sản xuất bung ra” của Đảng, mà là quá trình hiện thực hóa một cách sáng tạo những chủ trương chung đó trong điều kiện cụ thể của Ninh Hòa. Cơ chế quản lý kinh tế mới được Đảng bộ hiện thực hóa với sự hình thành nhanh chóng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nhờ đó, đã khơi dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của nhân dân vốn bị che khuất nhiều năm trong cơ chế cũ. Kinh tế huyện từ 2 thành phần chủ yếu là quốc doanh và tập thể, đến năm 2010 đã trở thành nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện tồn tại dưới nhiều hình thức, nhiều mô hình như: Trên 31.200 hộ gia đình sản xuất nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản; trên 10.800 cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể, tiểu chủ; trên 1.000 trang trại, 274 doanh nghiệp, công ty cổ phần[1]… đã và đang phát huy mạnh mẽ vai trò giải phóng sức sản xuất, khai thác các tiềm năng, thế mạnh của huyện. Kết quả là đã tạo ra dấu ấn mạnh mẽ về sự cạnh tranh và tương hỗ của các thành phần kinh tế để toàn bộ kinh tế huyện cùng chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thành tựu về phát triển văn hóa - xã hội
Cùng với phát triển kinh tế, Đảng bộ đã lãnh đạo giải quyết thành công nhiều mục tiêu văn hóa - xã hội, bao trùm là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân. Ngay từ những năm đầu sau ngày giải phóng, trong bối cảnh một huyện còn mỏng về tiềm lực kinh tế nhưng Đảng bộ sớm quan tâm đúng mức giải quyết đồng thời các vấn đề về việc làm, giáo dục, y tế, về chính sách xã hội… Qua từng giai đoạn phát triển, nhất là sau khi đổi mới, từ huyện đến cơ sở đều chú ý chuyển hóa những thành tựu kinh tế vào đời sống văn hóa - xã hội. Đồng thời chú ý tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội phát triển cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Huyện ủy dẫn đến những thành tựu văn hóa - xã hội trong hơn 35 năm qua. Các vấn đề xã hội đã được lồng ghép, giải quyết trong mục tiêu kinh tế, nổi bật là kết quả thực hiện các chính sách về giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, hậu phương quân đội, an sinh và an toàn xã hội... Trong các giai đoạn lịch sử, các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, thể dục thể thao… phát triển gắn với hàng loạt chủ trương như xã hội hóa, mở rộng y tế cộng đồng, kiên cố hóa trường học… đều hướng tới mục tiêu xây dựng con người mới, mỗi người dân đều có sức khỏe, có tri thức và phẩm chất đạo đức. Đến năm 2010, các thiết chế văn hóa, hệ thống giáo dục, y tế... được phân bổ sâu rộng, phủ kín đến mọi địa bàn khu dân cư, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thụ hưởng đa dạng của nhân dân. Những thành tựu đạt được trên các văn hóa - xã hội, nhất là về giáo dục, y tế, đối với huyện là một khoảng cách tiến bộ rất xa, không thể so sánh với hiện trạng cách đây 35 năm. Trong đó, để lại dấu ấn đậm nét là kết quả của cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đó là những kết quả về bảo tồn, phát huy các giá trị, bản sắc truyền thống tốt đẹp và đặc trưng văn hóa của địa phương, của dân tộc, đồng thời tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa tiến bộ và hiện đại trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Không chỉ nhìn ở biểu hiện bề nổi về số lượng các làng, bản, gia đình, đơn vị được công nhận đạt “tiêu chuẩn văn hóa”, điều cần khẳng định là: Thông qua các cuộc vận động và phong trào văn hóa, những giá trị đặc trưng văn hóa của quê hương như truyền thống yêu nước, thương nòi, bản chất hiền hậu nhưng kiên cường, dũng cảm, cần cù, sáng tạo trong lao động... đã được Đảng bộ chuyển hóa thành ý thức tự giác của mỗi người dân Ninh Hòa. Để từ đó, những giá trị truyền thống quê hương nâng lên một trình độ mới, tạo nên động lực mới bứt phá thoát khỏi đói nghèo, làm giàu chính đáng, nâng cao dân trí và năng lực làm chủ, ý chí đấu tranh vượt qua mọi khó khăn trên con đường xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đời sống của nhân dân đã có những cải thiện rất căn bản từ nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, bảo vệ sức khỏe, thụ hưởng văn hóa… Chất lượng cuộc sống nhân dân không ngừng được tăng lên: Tất cả khu dân cư đều đã nối liền thông suốt qua hệ thống giao thông được nhựa hóa, bê tông hóa và các loại phương tiện giao thông vận tải thuận lợi; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giảm còn 0,9 %; trên 98% hộ gia đình có điện sinh hoạt ổn định, tiếp nhận được sóng phát thanh, truyền hình địa phương và Trung ương; hộ nào cũng có người sử dụng điện thoại di động hoặc thuê bao điện thoại; số lượng dân cư sử dụng mạng internet ngày một tăng lên; trên 85% hộ gia đình được dùng nước sạch, hợp vệ sinh; bình quân có 12,5 giường bệnh công lập/1vạn dân; cứ 4,8 người thì có một người đang học tại các trường phổ thông; trình độ văn hóa của nhân dân Ninh Hòa đạt phổ cập trung học cơ sở, đang tiến tới hoàn thành phổ cập bậc trung học phổ thông; trên 35% lao động được đào tạo. Những con số đó từng là niềm mơ ước của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đến năm 2010 đã và đang trở thành hiện thực trên địa bàn huyện. Có thể nói, những thành tựu trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội trong 35 năm qua chính là biểu hiện sinh động sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với đảm bảo hài hòa các vấn đề xã hội, tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, đời sống văn minh ngày nay ở Ninh Hòa.
Thành tựu về xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh
Thực tiễn 35 năm qua khẳng định, Đảng bộ thường xuyên lãnh đạo quân và dân toàn huyện nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Từ lực lượng mỏng vũ trang và công tác vũ trang những ngày đầu sau giải phóng, được sự chăm lo của Đảng và nhân dân, huyện đã xây dựng được một lực lượng vũ trang lớn mạnh bao gồm bộ đội địa phương, lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và lực lượng công an. Trong đó, lực lượng dân quân tự vệ luôn duy trì số lượng có tỷ lệ hợp lý, chiếm từ 1,2% - 1,3% dân số. Các lực lượng được trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật, được thường xuyên huấn luyện, diễn tập phòng thủ, có khả năng sẵn sàng chiến đấu, phối hợp chiến đấu và chiến đấu tốt; sẵn sàng bổ sung cho chiến trường khi cần thiết. Sau khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng bộ lãnh đạo chuyển từ chủ trương xây dựng “pháo đài cấp huyện” sang xây dựng khu vực phòng thủ huyện trong khu vực phòng thủ tỉnh. Trong quá trình xây dựng, Ninh Hòa thể hiện là một địa phương có quốc phòng vững mạnh, luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ quân sự địa phương. Gắn với quốc phòng, lực lượng công an nhân dân và thế trận an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố trở thành nhân tố nòng cốt và quyết định bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nét nổi bật xuyên suốt 35 năm qua là Đảng bộ lãnh đạo các lực lượng quân sự và công an luôn đoàn kết, phối hợp và hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, có hiệu quả cao, nhất là trong các nhiệm vụ khó khăn, gay go, phức tạp. Mối quan hệ bền chặt đó là sức mạnh của lực lượng vũ trang, bán vũ trang của huyện. Sức mạnh đó được nhân lên khi phối hợp với lực lượng bộ đội biên phòng và các lực lượng quân đội đóng trên địa bàn. Đặc biệt, sức mạnh đó càng phát huy cao độ khi được nuôi dưỡng, gắn bó với các phong trào quần chúng diễn ra liên tục từ ngày giải phóng 2/4/1975 đến 2010. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến những thành công trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội trên địa bàn huyện diễn ra thuận lợi và an toàn.
Thành tựu về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Trong suốt 35 năm qua, Đảng bộ luôn nhận thức sâu sắc công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, mang tính quyết định bảo đảm cho vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn huyện. Tất cả các đại hội nhiệm kỳ của Đảng bộ huyện, đại hội và sau đó là Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy đều nhấn mạnh đến yêu cầu, nhiệm vụ và đề ra các biện pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đặc biệt, bước vào các giai đoạn đổi mới và hội nhập, Đảng bộ huyện hết sức coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với các cuộc vận động thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu lần 2 (khóa VIII)…, đặc biệt là gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Với bước chuyển biến cách mạng từ thời kỳ lãnh đạo tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ giai đoạn bao cấp sang giai đoạn đổi mới, năng lực, trình độ lãnh đạo của Đảng bộ từng bước được nâng lên, sức chiến đấu được tăng cường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn trong từng thời kỳ. Về chính trị tư tưởng, trong mọi nhiệm kỳ, Đảng bộ đều thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tổ chức nghiêm túc việc quán triệt các nghị quyết của Đảng. Đồng thời coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; đấu tranh chống tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thành công trong công tác tư tưởng là đã góp phần quan trọng tạo được sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và sự đồng thuận xã hội về những chủ trương, nhiệm vụ do Huyện ủy đề ra theo tinh thần các nghị quyết của Đảng. Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, phức tạp nhất như trong những năm đầu sau giải phóng, những năm khủng hoảng kinh tế trong nước, lạm phát với tốc độ “phi mã”, những thời điểm phức tạp, mất đoàn kết trong Đảng bộ tỉnh hay tác động tiêu cực khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ…, Đảng bộ vẫn vững vàng, siết chặt đội ngũ, lãnh đạo nhân dân đoàn kết giành nhiều thắng lợi. Trong mọi giai đoạn, Đảng bộ đều đề cao vai trò của công tác tổ chức, cán bộ, góp phần quyết định trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng. Nét nổi bật trong công tác cán bộ của Đảng bộ, trước hết của Ban Thường vụ Huyện ủy là có tầm nhìn xa, chiến lược và được thực hiện một cách chủ động, đồng bộ ở tất cả các khâu công tác, nhất là công tác quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ. Tất cả các nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ, huyện luôn gửi cán bộ đi đào tạo với số lượng lớn; chú ý đào tạo nâng cao cả về trình độ lý luận chính trị và trình độ nghiệp vụ chuyên môn, trước hết là về trình độ lý luận chính trị phải được nâng lên tương đối đồng đều. Để nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, Đảng bộ quan tâm luân chuyển cán bộ huyện về cơ sở. Chủ trương này được thực hiện từ trước đổi mới, gọi là cán bộ tăng cường. Hầu hết cán bộ tăng cường đều trưởng thành, sau khi rút trở về huyện giữ các vị trí cán bộ chủ chốt, trưởng, phó cơ quan ban ngành của huyện. Tất cả các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của huyện qua các giai đoạn đều kinh qua các chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở xã, thị trấn. Cách thức đào tạo và rèn luyện cán bộ như trên đã tạo ra điều kiện thuận lợi để đi đến thống nhất về nhận thức cũng như thống nhất đề ra các chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giải quyết các vấn đề cụ thể của địa phương. Do đào tạo cán bộ theo quy hoạch, chủ động và có số lượng lớn nên Ninh Hòa không những không bị hẫng hụt trong bố trí cán bộ mà còn là địa phương cung cấp nhiều cán bộ cho tỉnh. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng, bất cứ giai đoạn lịch sử nào, Đảng bộ cũng đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tận tụy với công việc, tích cực thực hiện đường lối của Đảng. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Việc xử lý kỷ luật Đảng luôn nghiêm minh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Hầu hết các tổ chức cơ sở đảng giữ được vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở. Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ đối với hệ thống chính trị, phong cách công tác có nhiều đổi mới và tiến bộ; dân chủ trong Đảng được phát huy, quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố. Nổi bật là, đến nay, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy và các cấp ủy đảng cơ sở đã hình thành phương thức thực hiện chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của từng cá nhân, trước hết là của người đứng đầu; đồng thời coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan, đơn vị, trong mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thành tựu trong công tác xây dựng Đảng còn được thể hiện qua kết quả to lớn về xây dựng hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Trước đổi mới, hệ thống chính trị (lúc đó gọi là hệ thống chuyên chính vô sản), Đảng bộ tập trung xây dựng mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Đây là cơ chế vận hành xã hội trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện và cơ sở. Bên cạnh những kết quả tích cực, hệ thống chính trị bộc lộ rõ nhiều khuyết điểm, hạn chế. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng cấp, từng đơn vị chưa được xác định thật rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chưa làm tốt chức năng của mình. Trong phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng có tình trạng tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán, dài tay. Bộ máy chính quyền cồng kềnh và kém hiệu quả. Các cơ quan dân cử được lựa chọn, bầu cử và hoạt động nặng về hình thức chủ nghĩa. Một số cơ quan chính quyền cơ sở và cán bộ thiếu lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhân dân, nặng dùng các biện pháp mệnh lệnh hành chính; một số cấp ủy ít chú ý công tác vận động quần và chăm lo xây dựng tổ chức mặt trận, đoàn thể quần chúng vững mạnh. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự vận hành của hệ thống chính trị không những khắc phục dần khuyết điểm, hạn chế mà đã từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển trên địa bàn huyện. Đó là quá trình thực hiện cải cách, đổi mới phương thức hoạt động, tạo ra năng lực lãnh đạo cao hơn, điều hành quản lý năng động hơn, phát huy quyền dân chủ nhân dân rộng mở hơn. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả; mọi hoạt động của toàn hệ thống chính trị ngày càng hướng về cơ sở. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện và xã, thị trấn trong các khóa đều có nhiều đổi mới theo đúng định hướng cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan hành chính, sự nghiệp cấp huyện, xã, thị trấn được phân định rõ hơn, nhất là phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh. Các tổ chức trong hệ thống chính trị được thường xuyên củng cố, kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động. Các hoạt động của chính quyền ngày càng thể hiện rõ theo hướng công khai rộng rãi, phát huy dân chủ, tăng cường đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội từng bước đổi mới về tổ chức, bộ máy; về nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức để tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân; chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên. Mối quan hệ giữa các thành tố của hệ thống chính trị, giữa cấp huyện với cấp xã qua mỗi giai đoạn lịch sử đều được xử lý hài hòa theo hướng ngày càng làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, chức trách của từng thành tố, từng cấp, đồng thời có cơ chế phối kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống.
Nhìn lại chặng đường 35 năm (1975 - 2010) xây dựng và phát triển, Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa tự hào về những thành tựu to lớn đã đạt được trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, mặt trận và đoàn thể. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cũng còn nhiều khuyết điểm, hạn chế, yếu kém mà mỗi nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ huyện đã chỉ ra. Có những khuyết điểm do chủ quan, nôn nóng, duy ý chí, không vượt qua được giới hạn về nhận thức trong thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp; có khuyết điểm, hạn chế khi chỉ đạo cho “sản xuất bung ra” trong những năm đầu đổi mới nhưng thiếu kiến thức và tư duy kinh tế thị trường, thiếu tiếp cận thành tựu về khoa học và công nghệ tiên tiến; xây dựng một số công trình kinh tế, xã hội kém hiệu quả. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng chất lượng chưa cao. Quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ bé, chủ yếu là hộ gia đình, trang trại nhỏ lẻ; tổ chức sản xuất thiếu sự liên kết; hiệu quả kinh tế chưa cao. Các khu công nghiệp nhỏ và vừa chậm được hình thành. Ô nhiễm môi trường do các chất thải từ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và rác thải sinh hoạt ngày càng gia tăng cùng với khai thác tài nguyên trái pháp luật làm hủy hoại môi trường chưa được ngăn chặn có hiệu quả là những khuyết điểm kéo dài khó khắc phục. Khuyết điểm đó đang trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển theo hướng bền vững của huyện. Về sự nghiệp phát triển văn hóa, có thời gian, thời điểm còn xem nhẹ vai trò của văn hóa văn nghệ, giáo dục và y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình. Công tác xóa đói giảm nghèo chưa đạt mức bền vững, khả năng tái nghèo cao và đang phát sinh hiện tượng tiêu cực, tạo ra sức ì, không cố gắng thoát nghèo đối với người nghèo. Nhiều vấn đề bức xúc xã hội kéo dài chưa được giải quyết tốt. Tội phạm hình sự, hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Trong công tác xây dựng Đảng, có nhiều hạn chế, khuyết điểm qua các nhiệm kỳ chậm được khắc phục, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí. Tình trạng đề ra mục tiêu phát triển không có tính khả thi, thiếu cơ sở khoa học trong các kỳ đại hội hội đảng bộ các cấp, trong chương trình, kế hoạch hành động… từ huyện đến cơ sở là phổ biến nhưng ít được quan tâm khắc phục. Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao, tính chiến đấu còn hạn chế; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được khắc phục tốt. Vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, chưa thể hiện rõ nhất là ở loại hình hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp. Chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của nhiều cấp ủy cơ sở chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực trong một bộ phận các bộ, đảng viên. Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính. Tình trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức nhà nước chưa được khắc phục.
Từ những thành tựu đã đạt được và cả những yếu kém, thiếu sót còn tồn tại trong suốt 35 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở Ninh Hòa, Đảng bộ rút ra những bài học kinh nghiệm lớn sau đây:
Một là: Phải nghiên cứu, quán triệt nắm vững và chủ động vận dụng sáng tạo các chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng để lựa chọn được những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và những khâu đột phá phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Mỗi giai đoạn lịch sử, trong phạm vi cả nước đối với Trung ương Đảng, phạm vi trong tỉnh đối với Tỉnh ủy đều có những nghị quyết[2] lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chung. Đảng bộ coi trọng việc quán triệt là yêu cầu trước hết và là cơ sở để vận dụng sáng tạo nghị quyết của Đảng. Đó không phải là sự quán triệt thụ động, máy móc, mà là sự nghiên cứu nghiêm túc những quan điểm, những định hướng, giải pháp lớn của Trung ương, nhất là của Tỉnh ủy rồi đối chiếu so sánh với thực tiễn địa phương để nhận thức sâu sắc và thấm nhuần nghị quyết. Trên cơ sở đó, bám sát yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết và xuất phát từ lợi thế so sánh của mảnh đất Ninh Hòa để tìm tòi, trăn trở suy nghĩ, vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của cấp trên, dám nghĩ, dám làm, chọn nhiệm vụ trọng điểm, đột phá để tạo ra đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển tổng thể, toàn diện hơn.
Từ thực tiễn cách mạng hơn 35 năm qua của Ninh Hòa đã khẳng định, nếu thiếu sự vận dụng sáng tạo, không phù hợp, thiếu trọng tâm, trọng điểm thì việc chỉ đạo thực hiện sẽ xơ cứng, dàn trải, không phát huy được tiềm năng đa dạng và lợi thế của địa phương. Ngược lại, khi nghị quyết của Đảng đưa xuống cơ sở thông qua việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo, biết chọn đúng việc thì nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo được chuyển biến mạnh mẽ. Nổi bật như các quyết sách phát huy tinh thần tự lực tự cường, ưu tiên xây dựng những nền móng đầu tiên về cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội gồm nhiều công trình trọng điểm, tiểu biểu là, hệ thống kênh mương thủy lợi hồ Suối Trầu, hồ Đá bàn, Nhà máy Đường 100 tấn mía/ngày, Bệnh viện huyện 200 giường, chợ mới Ninh Hòa…; như các phong trào xây dựng điện, đường, trường trạm; xóa nhà tranh tre, dột nát; chủ trương quy hoạch phát triển 4 vùng kinh tế và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; như đón bắt thời cơ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa để sớm đưa huyện trở thành thị xã… Đó là những minh chứng sinh động cho tinh thần chủ động, sáng tạo của Đảng bộ trong quán triệt, vận dụng sáng tạo nghị quyết của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương.
Hai là: Coi trọng nghiên cứu, mạnh dạn tìm tòi các phương pháp, cách thức phù hợp để biến mọi tiềm năng thành thế mạnh của địa phương.
Thực tiễn 35 năm xây dựng và phát triển ở huyện đã chỉ ra rằng, đối với một địa phương giàu tiềm năng cả về tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn, nếu định hướng không đúng, hoặc định hướng đúng nhưng thiếu phương pháp, cách làm phù hợp, thiếu quyết tâm thì tiềm năng đó mãi mãi không thể chuyển hóa thành thế mạnh của địa phương. Đối với Ninh Hòa, điều này phụ thuộc vào trí tuệ, bản lĩnh của toàn Đảng bộ mà trước hết là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy, của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong từng giai đoạn lịch sử. Trong quá trình khai thác, phát huy tiềm năng, Đảng bộ huyện luôn đặt trong tổng thể, không thể vượt khỏi quỹ đạo chung đường lối của Đảng và sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy. Nhưng trong quỹ đạo chung đó, Đảng bộ biết lựa chọn những bước đi, cách làm táo bạo, phù hợp gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất, cấu trúc lại cơ cấu kinh tế huyện, tổ chức lại đời sống xã hội.
Nắm rõ từng dạng tiềm năng tài nguyên về đất đai, rừng, biển..., Đảng bộ đã biết lựa chọn những hướng đi, bước đi và cách làm thích hợp để phát huy khai thác nó. Đó là cách thức tổ chức những bước đi lên của nông nghiệp. Là huyện có đất rộng, người đông nhưng dân lại thiếu, đói. Để giải quyết vấn đề cấp bách về lương thực, Đảng bộ đã dồn sức làm bằng được các công trình thủy lợi, vừa phục hóa, khai hoang mở rộng diện tích, vừa thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, Khi cơ bản giải quyết được lương thực thì tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, biến những vùng đất độc canh cây lương thực thành những vùng chuyên canh lúa, mía, thuốc lá, vườn rừng nông lâm kết hợp...; biến vùng ven biển với bãi triều hoang vu thành vùng chuyên nuôi tôm, làm muối. Đó là cách thức tổ chức, đón bắt các bước phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ từ thấp đến cao để biến một huyện thuần nông thành một địa phương có các khu công nghiệp, dịch vụ thu hút vốn đầu tư cả trong tỉnh, trong nước và nước ngoài; có cơ cấu kinh tế mà công nghiệp chiếm ưu thế tuyệt đối về giá trị sản phẩm. Đó còn là cách lựa chọn giải pháp phát huy giá trị văn hóa truyền thống của vùng đất và con người Ninh Hòa vốn được tích lũy, đúc kết trong quá trình hình thành và phát triển, nhất là trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính nhờ phát huy nhân tố văn hóa, con người nên đã tạo ra động lực nội sinh để đưa Ninh Hòa vượt qua những khó khăn của những năm đầu sau giải phóng, của thiên tai hạn hán, lũ lụt, những lao đao của thời kỳ bao cấp với khủng hoảng kinh tế - xã hội trên bình diện cả nước; vượt qua tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường để đột phá mạnh mẽ của thời kỳ đổi mới và hội nhập. Vốn văn hóa, con người của Ninh Hòa, đặc biệt là truyền thống cách mạng vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ không chỉ là niềm tự hào, được phát huy tại địa phương mà còn có sức lan tỏa trở thành động lực và niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa.
Ba là: Thực sự bám sát cơ sở, coi cơ sở là nơi kiểm chứng, là nơi xuất phát mọi quyết sách lãnh đạo của Đảng bộ.
Tất cả nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước cấp trên đều được huyện cụ thể hóa và triển khai thực hiện ở cơ sở. Trong hơn 35 năm qua cho thấy, nơi nào, lúc nào và công việc nào có sự chỉ đạo sát sao của cấp uỷ đảng, có sự lăn lộn với phong trào của đội ngũ cán bộ lãnh đạo thì nơi đó, công việc đó sẽ đạt được kết quả ở mức cao nhất. Nhiều phong trào, công trình trọng điểm các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư, Thường vụ Huyện uỷ, Huyện ủy viên... xuống với cơ sở, “xắn tay áo” trực tiếp chỉ đạo giải quyết từng vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Hầu hết các phong trào cách mạng của quần chúng, huyện đều thành lập các đoàn, tổ công tác bao gồm nhiều thành phần, cơ quan cấp huyện để chỉ đạo phong trào và sẻ chia khó khăn cùng với cơ sở vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị. Nhờ đó góp phần bảo đảm thành công trong lãnh đạo. Nếu thiếu sự sâu sát, gắn bó với cơ sở không thể có thành công trên các đại công trường thủy lợi hồ Suối Trầu, Đá Bàn; của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp; của các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm; của việc bảo đảm an ninh nông thôn; của phong trào xóa mù chữ và các chương trình phổ cập giáo dục... Hướng về cơ sở để kiểm chứng sự đúng đắn của các chủ trương, giải pháp lựa chọn của Đảng bộ. Đồng thời nắm được những tình huống nảy sinh gắn với từng công việc, hiểu rõ nguyện vọng của đảng viên và quần chúng ở cơ sở... để bổ sung điều chỉnh và đưa ra quyết sách lãnh đạo tiếp theo. Trong các giai đoạn, trước khi đưa ra chủ trương chung cho mỗi phong trào, Đảng bộ thường lựa chọn phương pháp làm thí điểm, xây dựng mô hình điểm để kiểm chứng trong thực tiễn. Từ đó tổng kết, kết luận, bổ sung hoàn chỉnh rồi mới đưa ra quyết định triển khai ở diện rộng, phát triển dần từ thấp đến cao, từ phạm vi làm điểm lan rộng ra toàn huyện như phong trào làm đường giao thông nông thôn, xây dựng thuỷ lợi nội đồng, cải tạo đồng ruộng, mô hình khuyến nông chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xây dựng làng văn hóa, chuyển hệ thống đài truyền thanh từ mạng hữu tuyến sang phát sóng FM... Có thể nói, đi sâu, đi sát cơ sở theo phương châm huyện sát thôn, xã sát hộ dân từng bước trở thành phong cách lãnh đạo của toàn Đảng bộ và trong hệ thống chính trị ở Ninh Hòa.
Bốn là: Chủ động xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Nối tiếp lịch sử trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, lịch sử Đảng bộ Ninh Hòa 35 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho thấy rất rõ rằng: Phong trào cách mạng của huyện phát triển mạnh mẽ, có tính đột phá hoặc thoái trào hay có tính trì trệ đều bắt đầu từ công tác cán bộ. Kết quả của mọi phong trào cách mạng là kết quả lãnh đạo của toàn Đảng bộ, của tập thể cấp ủy, nhưng để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng cán bộ, đảng viên và nhân dân là những cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt có đức, có tài. Nhờ làm tốt chiến lược cán bộ nên trong các giai đoạn, huyện đều có một đội ngũ cán bộ luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, có tinh thần hy sinh, chịu đựng gian khổ, gần gũi với quần chúng, dám nghĩ dám làm, sống trong sạch. Đó là những cán bộ đã từng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng chịu đựng gian khổ” với nhân dân, những cán bộ tiên phong trong xây các mô hình tiên tiến, trong các phong trào quần chúng trên mọi lĩnh vực... Dù cho còn những khiếm khuyết nhưng những cán bộ đó đã góp phần xây dựng nên hình tượng người cán bộ, đảng viên Ninh Hòa gần gũi với dân, với công việc, được nhân dân ghi nhận và noi theo. Để có được đội ngũ cán bộ như vậy phải trải qua một quá trình lâu dài, từ tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng hợp lý... Đó phải là một chiến lược cán bộ đúng đắn của Ban Chấp hành Đảng bộ qua các nhiệm kỳ, trong đó vai trò của Ban Thường vụ Huyện uỷ, của các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư Huyện ủy là rất quan trọng, có tính quyết định. Trong đó, Đảng bộ rất coi trọng đồng thời 2 khâu: Một là, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ cả về chuyên môn và lý luận chính trị với số lượng cao nhất có thể; hai là, tạo môi trường công tác để cán bộ tu dưỡng, rèn luyện nâng cao năng lực thực tiễn, nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân và phẩm chất đạo đức cách mạng. Hầu hết cán bộ chủ chốt của huyện đều được rèn luyện qua thực tiễn lãnh đạo phong trào ở cơ sở. Chính vì vậy, không những huyện luôn có đội ngũ cán bộ bảo đảm đưa phong trào cách mạng địa phương phát triển liên tục, mà còn đóng góp cho tỉnh nhiều cán bộ có năng lực tốt.
Năm là: Xây dựng, củng cố và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân ở địa phương.
Để hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ luôn xác định không ngừng tự đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của mỗi giai đoạn lịch sử. Kinh nghiệm 35 năm qua đã chỉ ra rằng, muốn đạt được điều đó, vấn đề cốt lõi nhất đối với Đảng bộ là phải đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động. Sự đoàn kết, thống nhất đó được xây dựng, củng cố trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trước hết phải củng cố sự đoàn kết thống nhất Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Huyện ủy. Mỗi nhiệm kỳ, các đồng chí Huyện ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ đều biết chia sẻ, mạnh dạn phê bình và tiếp thu sự phê bình, có những tranh luận, kể cả có lúc đấu tranh thẳng thắn nhưng đều là xây dựng, tạo điều kiện hỗ trợ cho nhau làm việc. Ở bất cứ vị trí nào, nhiệm vụ nào, hoàn cảnh nào, cán bộ chủ chốt cũng cần nêu cao tinh thần đoàn kết vì lợi ích chung, không vì lợi ích, động cơ cá nhân dẫn đến xung đột lẫn nhau làm tổn hại đến danh dự của Đảng bộ. Thông qua quá trình cùng thực hiện các nhiệm vụ, qua công việc để gần gũi, đoàn kết, quy tụ đội ngũ. Chính sự đoàn kết, thống nhất trong đội ngũ cán bộ chủ chốt đã tạo hạt nhân đoàn kết bền vững trong toàn Đảng bộ, trong hệ thống chính trị và toàn dân. Nhờ đó, mặc dù đã có những ý kiến trái chiều vào những thời điểm nhạy cảm, khó khăn như lúc một số đồng chí trong Tỉnh ủy xảy ra mất đoàn kết nghiêm trọng, lúc hợp nhất, chia tách huyện, tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, “thắt lưng, buộc bụng” để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, lúc giao thời bước chuyển đổi cơ chế sang kinh tế thị trường hay tác động xấu do khủng hoảng kinh tế - xã hội, do biến động chính trị - kinh tế trên thế giới..., Đảng bộ vẫn vững vàng lãnh đạo toàn dân chung sức, chung lòng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ chính trị. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời kỳ, nhờ sự đoàn kết, thống nhất, Đảng bộ luôn thể hiện bản lĩnh và năng lực, khẳng định được vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định dẫn đến thắng lợi của các phong trào cách mạng quần chúng ở địa phương.
Trải qua 35 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa tự hào về những thành tựu đã đạt được trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, trước mắt còn nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với phương hướng đúng đắn mà Đại hội đại biểu Đảng bộ Ninh Hòa lần thứ 18 đề ra, tin tưởng nhân dân thị xã Ninh Hòa sẽ tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc và anh hùng trong lao động, trên con đường đi tới, Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa đoàn kết, thống nhất chắc chắn sẽ mở ra trang lịch sử mới vẻ vang - lịch sử của thời kỳ cùng với cả tỉnh, cả nước đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
[1] 274 doanh nghiệp, gồm 21 doanh nghiệp nông nghiệp, 67 công nghiệp, 23 xây dựng, 16 giao thông vận tải, 147 dịch vụ.
[2] Nghị quyết của Đảng được hiểu bao gồm tất cả các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy.