Đại hội Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 10, nhiệm kỳ 1982 - 1986
Đầu thập niên 80, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế - xã hội nước ta lâm dần vào khủng hoảng trầm trọng. Nguyên nhân quan trọng là do những sai lầm, khuyết điểm trong việc duy trì mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp quá lâu. Cộng vào đó là do việc khắc phục hậu quả hơn 30 năm chiến tranh để lại đòi hỏi phải có thời gian, nguồn lực nhưng lại liên tục chịu thêm hậu quả do hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây ra. Trong khi đó, Mỹ siết chặt cấm vận và lôi kéo các nước khác cắt quan hệ, viện trợ kinh tế cho Việt Nam. Ngoài ra, nước ta còn chịu sức ép từ biên giới phía Bắc và các lực lượng chống Việt Nam tiếp tục lôi kéo một số nước giúp đỡ bọn tàn quân Pôn Pốt (Campuchia) hoạt động chống phá cách mạng nước ta. Những tác động trên làm cho tình hình đất nước càng trở nên khó khăn gay gắt hơn. Trong bối cảnh đó, từ ngày 27 - 31/3/1982, Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5. Đại hội chỉ rõ: Nước ta đang ở trong tình hình vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, đồng thời phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Đại hội xác định trong giai đoạn cách mạng mới, toàn Đảng, toàn dân ta đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong 5 năm (1981 - 1985), tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng trong cơ cấu nông - công nghiệp hợp lý. Để thích ứng với đường lối kinh tế ấy, Đại hội đề ra giải pháp quan trọng hành đầu là phải “xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ”[1], và thiết lập một cơ chế quản lý kinh tế năng động, phù hợp.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội V của Đảng, sau một năm tiến hành Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 10 (vòng 1) vào ngày 25 - 30/12/1981 để thảo luận, đóng góp ý kiến vào các văn kiện của Trung ương trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 3, Đảng bộ huyện tiếp tục họp Đại hội lần thứ 10 (vòng 2) từ ngày 28/12/1982 đến ngày 1/1/1983, tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện. Về dự Đại hội có 140 đại biểu chính thức đại diện cho 69 tổ chức cơ sở đảng và trên 800 đảng viên toàn Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 9; đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trình bày tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 3 (vòng 2); đề ra phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa X gồm 33 đồng chí ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; Ban Chấp hành mới bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí; bầu đồng chí Võ Danh làm Bí thư, bầu 2 đồng chí là Trần Việt Á và Mai Quý Phận làm Phó Bí thư Huyện ủy. Sau khi kiểm điểm tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị trong hơn 3 năm, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Đảng bộ trong nhiệm kỳ tới là: Từng bước xây dựng huyện theo mô hình cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, trong đó “Tập trung mọi lực lượng để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nhằm tăng nhanh sản lượng lương thực, thực phẩm; tăng nhanh nông sản xuất khẩu và cung ứng nguyên liệu cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp”[2]; khai thác lâm sản đi đôi với trồng và bảo vệ rừng; tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu sẵn có ở địa phương; tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất mới; đầu tư xây dựng một số công trình trọng điểm phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân; phát triển mọi mặt văn hóa - xã hội; từng bước xây dựng huyện thành pháo đài chiến đấu phù hợp với yêu cầu chiến tranh nhân dân. Đại hội xác định một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 1985: Sản lượng lương thực quy thóc đạt 46.000 tấn; đàn heo 22.500 con, đàn trâu 5.500 con, đàn bò 12.500 con. Sản xuất 35.000 tấn muối; đánh bắt 3.200 tấn cá. Trồng 100 ha rừng tập trung, khai thác 3.000m3 gỗ, 500 tấn lá buông. Giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 40 triệu đồng, trong đó giá trị xuất khẩu chiếm 45%.
Từ ngày 31/1 đến 3/2/1983, Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ 3 (vòng 2). Xác định phương hướng, nhiệm vụ của toàn Đảng bộ tỉnh trong thời gian tới, Đại hội nhấn mạnh, tỉnh phải sớm hình thành được cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp và xây dựng cấp huyện có cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, bảo đảm thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt Nghị quyết Đại hội V của Đảng và định phương hướng, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 3 đề ra, Đảng bộ huyện triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 10 với một tinh thần mới, quyết tâm mới nhằm tạo ra bước phát triển nhanh và toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khai thác tiềm năng 4 vùng kinh tế, tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa, xã hội
Năm 1978, huyện Khánh Ninh đã lập quy hoạch tổng thể huyện, sau khi tái lập huyện Ninh Hòa, huyện tiếp tục xây dựng phương án quy hoạch tổng thể huyện. Tuy trong thời gian 1980 - 1982, quy hoạch tổng thể được điều chỉnh nhiều lần nhưng vẫn chưa thật sự phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện. Từ thực tiễn tìm tòi, điều chỉnh đó, thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TU, ngày 5/1/1983 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Thường Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo, rà soát và bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể huyện giai đoạn 1984 - 1990. Theo đó, quy hoạch định hướng phát triển huyện trên 4 vùng kinh tế, phù hợp với tiềm năng đa dạng của địa phương: Vùng 1, là vùng trọng điểm sản xuất lúa, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Vùng có diện tích đất trồng lúa 2 vụ gần 4.000 ha, chủ yếu tập trung ở 12 xã (Ninh Phụng, Ninh Bình, Ninh Quang, Ninh Hưng, Ninh Lộc, Ninh Ích, Ninh Hà, Ninh Giang, Ninh Phú, Ninh Đa, Ninh Đông và thị trấn Ninh Hòa). Vùng 2, là vùng trọng điểm sản xuất cây công nghiệp và xuất khẩu, có diện tích đất nông nghiệp trên 13.000 ha, tập trung phát triển cây mía, thuốc lá, bông vải, dứa, nuôi bò… Ngoài ra còn sản xuất lúa, hoa màu lương thực. Vùng này chủ yếu ở 7 xã (Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Trung, Ninh Thân, Ninh Thượng, Ninh Xuân và Ninh Sim). Vùng 3, là vùng kinh tế biển và ven biển bao gồm các xã có biển, có nhiệm vụ tập trung khai thác và chế biến hải sản phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, nuôi tôm xuất khẩu, sản xuất và chế biến muối, trồng dừa và cây chắn cát ven biển. Vùng 4, là vùng kinh tế rừng và ven rừng gồm các xã có rừng, có nhiệm vụ trồng, tu bổ, bảo vệ rừng, khai thác và chế biến gỗ, khai thác các nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng thủ công xuất khẩu như lá buông, trắc dây… và chăn nuôi bò. Trên mỗi vùng kinh tế xây dựng các cụm kinh tế kỹ thuật của tiểu vùng. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp định hướng phát triển gắn với 4 vùng kinh tế. Ngày 28/11/1983, Ủy ban nhân dân huyện trình tỉnh và được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Quy hoạch Tổng thể huyện Ninh Hòa đến năm 1990. Căn cứ vào đó, huyện triển khai thực hiện các phương án, kế hoạch phát triển các ngành kinh tế - xã hội trên địa bàn với từng bước đi khá vững chắc.
Bước vào năm 1983 - năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 10, huyện gặp khó khăn gay gắt về thời tiết. Đây là năm nắng hạn chưa từng có trong mấy chục năm qua, sông Dinh cạn kiệt trơ đáy. Nhiều nơi không có nước sinh hoạt cho người và nước uống cho gia súc. Trên 4.000ha lúa thiếu nước tưới nghiêm trọng, gần 1.000ha lúa mất trắng. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy kịp thời chỉ đạo chuyển hướng sản xuất, tập trung ưu tiên nước để thâm canh cao độ 1.500ha lúa; những nơi thiếu nước chuyển sang trồng cây công nghiệp ngắn ngày; vùng kinh tế 2 tích cực trồng thêm cây màu lương thực; vùng ven biển tranh thủ khai hoang tăng thêm diện tích muối và đìa. Các cấp ủy đảng trực tiếp chỉ đạo hợp tác xã nông nghiệp bám đồng bơm tát, theo nước ngày đêm để chống hạn. Nhiều nơi sáng tạo, biến khó khăn do hạn gây ra thành cơ hội cải tạo đồng ruộng bớt manh mún, thuận lợi cho công tác tưới tiêu như Ninh Quang, Ninh Hưng, Ninh Đông, Ninh Thượng... Nhờ đó, năm 1983 huyện vẫn giành thắng lợi, sản lượng lương thực quy thóc đạt trên 28.600 tấn; diện tích cây công nghiệp tăng 33% so với năm trước, nhất là mía, thuốc lá, đào lộn hột... Khai hoang mở thêm trên 100ha đìa nuôi tôm ở các xã Ninh Lộc, Ninh Ích, Ninh Hà...; hàng chục ha làm muối ở Ninh Diêm, Ninh Ích.
Ngày 10/1/1984, Hội nghị ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ 6 (khóa X) ra Nghị quyết số 507- NQ/HU về phát triển kinh tế xã hội năm 1984 và hướng phấn đấu đến năm 1985. Tiếp theo, ngày 29/2/1984, Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 538-NQ/HU về các biện pháp phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp trong 2 năm 1984 - 1985. Nhận thức rõ nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, từ những kết quả bước đầu khai thác tiềm năng 4 vùng kinh tế theo quy hoạch trong năm 1983, Huyện ủy chủ trương phải chỉ đạo quyết liệt phát triển nông nghiệp theo 3 hướng chính: Một là, thâm canh cây lúa để tăng nhanh sản lượng lương thực. Hai là, hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, chủ yếu gồm mía, thuốc lá. Ba là, chuyển hướng nuôi cá vùng đìa sang hình thành vùng nuôi tôm; tập trung sản xuất muối xuất khẩu. Theo hướng đó, huyện xây dựng các cánh đồng lúa cao sản với tổng diện tích trên 2.000ha. Trên chân ruộng lúa 2 vụ có điều kiện thuận lợi thì tăng thêm một vụ bằng cây đậu xanh. Nhiều cánh đồng cao sản có năng suất lúa đạt 45 - 50 tạ/ha/vụ, cao nhất từ trước đến nay như thị trấn Ninh Hòa, Ninh Quang... Một số nơi chỉ đạo cơ cấu 3 vụ lúa/năm, năng suất đạt 130 - 150 tạ/ha/năm. Tuy nhiên, về sau xét thấy hiệu quả 3 vụ lúa không cao nên diện tích giảm dần, chỉ duy trì một số diện tích nhất định ở những hợp tác xã có trình độ thâm canh cao như thị trấn Ninh Hòa, Ninh Quang, Ninh Đa... Biện pháp thâm canh tập trung ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, nhất là khâu chọn giống mới, kháng rầy và có cơ cấu giống thích hợp theo thời vụ, khâu chăm sóc, bảo vệ thực vật... Nhờ đó năng suất lúa đạt cao, trên nhiều cánh đồng cao sản đạt từ 90 - 100 tạ/ha/năm. Đối với gần 3.000ha lúa một vụ ăn nước trời, năng suất bấp bênh từ 5 - 10 tạ/ha, có năm nhiều diện tích mất trắng, các xã tích cực làm thủy lợi nhỏ, xây dựng thêm một số trạm bơm điện, kết hợp khai thác triệt để nguồn nước cuối mương để tưới bổ sung, năm 1985 năng suất nâng lên trên 17 tạ/ha. Đồng thời cải tạo và chuẩn bị đồng ruộng trên 1.500ha sẵn sàng đón nước hồ Đá Bàn về.
Ngày 10/2/1985, lễ chặn dòng lòng hồ Đá Bàn diễn ra trong niềm vui và tự hào của Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa, đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp xây dựng huyện. Khi vừa có nước Đá Bàn, trên 500ha lúa 1 vụ đã được chuyển thành 2 vụ lúa ở vùng Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Trung... Sau ngày chặn dòng, trên cơ sở Trạm Quản lý Thủy nông, huyện thành lập Công ty Thủy nông Ninh Hòa. Cùng với thâm canh cây lúa, huyện bố trí lại cây trồng trên vùng kinh tế 2. Vùng này trước đây chủ yếu là trồng mỳ, bắp, khoai lang nhưng hiệu quả rất thấp nên được chuyển hướng sang tập trung trồng cây công nghiệp như mía tập trung ở Ninh Tây, Ninh Sim, Ninh Xuân, Ninh Thượng. Cây thuốc lá lúc đầu tập trung ở Ninh An, Ninh Thọ về sau chuyển về phát triển ở vùng Ninh Sim, Ninh Xuân... Cây thầu dầu, cây điều được trồng rải rác ở các xã có rừng và đất rừng như Ninh Vân, Ninh Phước, Ninh Hưng, Ninh Quang, Ninh Thượng... Ngoài ra, Nông trường Bông và một số hợp tác xã triển khai trồng bông. Tuy nhiên, cây bông, thầu dầu không có hiệu quả nên mất dần, kể cả Nông trường Bông về sau cũng không tồn tại được, phải giải thể.
Huyện có 11 xã ven biển thì 9 xã có điều kiện phát triển nghề nuôi trồng thủy sản. Từ năm 1983, khai hoang làm đìa nuôi tôm, cá trở thành phong trào. Diện tích đìa tăng nhanh và hình thành rõ nét vùng đìa tập trung nuôi tôm, cá ở Ninh Lộc, Ninh Hà, Ninh Ích, Ninh Giang, Ninh Phú... Phong trào lan đến các xã không có biển nhưng cũng đến xã vùng biển nhận đất khai hoang làm đìa như Ninh Quang, Ninh Hưng. Tuy nhiên, thời gian này nuôi tôm, cá chủ yếu vẫn là nuôi quảng canh tự nhiên. Phần lớn diện tích đìa do hợp tác xã nông nghiệp quản lý, nuôi trồng. Đối với sản xuất muối, sau khi quy hoạch vùng muối quy mô trên 1.200ha, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tiếp tục khai hoang mở rộng diện tích, đồng thời phải tích cực chuyển hướng từ sản xuất muối tiêu dùng sang sản xuất muối xuất khẩu. Vùng muối tập trung dần dần hình thành rõ nét với diện tích gần 700ha, chủ yếu ở Ninh Diêm, Ninh Hải, Ninh Thủy. Năm 1984, huyện bắt đầu sản xuất được muối loại một để xuất khẩu.
Cùng với sự chuyển hướng chỉ đạo sản xuất, thấy rõ thực hiện “khoán 100” là động lực để tăng nhanh sản lượng nông sản, huyện chỉ đạo tiếp tục khoán sản phẩm rộng rãi đến toàn bộ diện tích lúa và màu; hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị 67-CT/TW, ngày 22/6/1985 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Hầu hết các hợp tác xã nhanh chóng thực hiện cơ chế khoán theo 5 khâu công việc do đội sản xuất điều hành và 3 khâu do người nhận khoán đảm nhận[3]. Huyện ủy mạnh dạn chủ trương điều chỉnh chế độ “3 khoán” (khoán chi phí sản xuất, khoán công và khoán sản phẩm) phù hợp với 3 lợi ích theo hướng có lợi cho người lao động. Đồng thời cải tiến công tác quản lý như cho hợp tác xã ứng trước vật tư, phân bón và thanh quyết toán theo vụ, đưa hàng hóa về trao đổi tận tay người nông dân... Nhờ đó, “khoán 100” đã làm sống động các hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn, tạo ra một khối lượng nông sản lớn hơn so với thời kỳ trước, nhất là lương thực. Có nhiều hợp tác xã như Ninh Thượng, Ninh Đa, thị trấn Ninh Hòa, Ninh Quang 1, Ninh Quang 2, Ninh Lộc, Ninh Hà... đạt mức ăn chia bình quân lương thực/người/tháng khá cao, từ 15 - 20kg. Tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, 7 tập đoàn sản xuất ở Ninh Trang sát nhập lại và đưa lên hợp tác xã; 5 tập đoàn sản xuất nông nghiệp ở Ninh Diêm sát nhập vào Hợp tác xã Muối 1/5. Có vốn tích lũy, các hợp tác xã thanh toán dứt điểm tiền hóa giá tư liệu sản xuất cho xã viên vào năm 1984. Ninh Hòa là huyện đầu tiên trong tỉnh hoàn thành công việc này. Đến cuối năm 1985 toàn huyện có 28 hợp tác xã nông nghiệp và 12 tập đoàn sản xuất nông nghiệp ở các xã Ninh Tây, Ninh Sim, Ninh Phước, Ninh Vân và điểm kinh tế mới Hòa Sơn.
Những năm đầu “khoán 100” tạo được động lực phát triển. Nhưng tính chất mệnh lệnh, hành chính trong hợp tác xã chưa được xóa bỏ triệt để, tình trạng “khoán trắng” trở nên phổ biến. Để chống “khoán trắng”, các hợp tác xã buộc phải sử dụng biện pháp mệnh lệnh. Việc chống “khoán trắng” được thực hiện mạnh càng níu kéo và thể hiện sự quan liêu, bao cấp làm cho sản xuất khó khăn hơn. Trong khi đó, mức khoán không ổn định, năm sau điều chỉnh cao hơn năm trước. Một số hợp tác xã còn giữ lại một phần sản lượng vượt khoán chính đáng của xã viên khiến họ hưởng lợi rất ít, không bù đắp được vốn và sức lao động bỏ ra. Vì vậy, động lực vừa mới được tạo ra đã dần bị triệt tiêu, bộc lộ rõ nét là từ năm 1986. Hộ nông dân không đủ khả năng tái sản xuất và nhu cầu đời sống nên nhiều người trả bớt ruộng đất, xã viên không hào hứng với công việc do hợp tác xã. Phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp lại lâm vào tình trạng trì trệ, có nguy cơ tan rã.
Trong ngành thủy sản, thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về cải tạo và tổ chức lại sản xuất nghề cá, Huyện ủy thành lập đoàn công tác bám sát cơ sở vận động, năm 1985 xây dựng 2 hợp tác xã đánh bắt cá và một hợp tác xã cơ khí tàu thuyền. Tuy nhiên, do không phù hợp với tình hình, năm 1986, Huyện ủy chỉ đạo giải thể 2 hợp tác xã đánh bắt cá, chuyển hướng chỉ đạo tập trung xây dựng các tập đoàn sản xuất. Kết quả, vận động thành lập được 45 tập đoàn đánh bắt, chủ yếu làm nghề mành chong. Tuy nhiên, do nhiên liệu, ngư lưới cụ, vật tư phụ tùng thiếu thốn, khan hiếm... không thể đáp ứng yêu cầu sản xuất nên các tập đoàn sản xuất cũng đứng trước nguy cơ tan rã, phần lớn tồn tại trên thực tế chỉ là hình thức.
Đối với ngành lâm nghiệp, thực hiện Quyết định số 184/QĐ-HĐBT, ngày 6/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng và Quy định tạm thời ngày 1/1/1983 của Ủy ban nhân dân tỉnh về giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây gây rừng, Ủy ban nhân dân huyện ra Quyết định số 167/QĐ-GĐ-GR, ngày 3/5/1983 thành lập Ban Giao đất, giao rừng huyện do đồng chí Nguyễn Giáo, Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Trưởng ban. Đến năm 1985, toàn huyện đã giao trên 70.000ha rừng và đất rừng cho Lâm trường Ninh Hòa và các xã quản lý, bảo vệ, kinh doanh. Đây là điều kiện thuận lợi để tập trung chỉ đạo làm chuyển biến một bước quan trọng về công tác bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Các trạm kiểm lâm và ban lâm nghiệp xã được củng cố, kiện toàn. Lâm trường và nhiều hợp tác xã xây dựng 14 vườn ươm cây con để cung cấp giống trồng hàng triệu cây phân tán và trồng rừng tập trung. Tại xã Ninh Xuân, Lâm trường còn trồng 40 ha cọ dầu. Cây phát triển tốt nhưng không có hiệu quả. Ở Ninh Tây, trên 500ha rừng căm xe tái sinh được khoanh nuôi, bảo vệ. Mặc dù rất tích cực trong công tác bảo vệ rừng, bắt và xử lý nghiêm minh hàng trăm vụ vi phạm pháp luật, trong đó có “vụ An Giang” (năm 1983) khai thác gỗ lậu lên tới trên 120m3 gỗ nhưng nạn khai thác gỗ, củi, đốt than phá rừng bừa bãi vẫn diễn ra nghiêm trọng. Rừng lá buông cũng không quản lý được, bị khai thác cạn kiệt nên mất khả năng tái sinh.
Mặc dù trong sản xuất nông nghiệp (gồm cả lâm, ngư nghiệp, diêm nghiệp) còn nhiều hạn chế, trì trệ nhưng nhờ chuyển hướng sản xuất theo quy hoạch kịp thời, sáng tạo nên toàn huyện đạt được nhiều thắng lợi. Năm 1985, hầu hết các nông sản đều tăng nhiều lần so với năm 1982: Tổng sản lượng lương thực đạt 46.800 tấn, tăng 30%; nghĩa vụ nhà nước trên 9.860 tấn, tăng gấp 1,7 lần; diện tích cây công nghiệp ngắn ngày 2.200ha tăng 2 lần; diện tích đìa nuôi tôm 780ha, tăng 4,6 lần; sản lượng tôm xuất khẩu 128 tấn, tăng 17 lần; đánh bắt 3.500 tấn hải sản, tăng 35,6%... Trong chăn nuôi, tổng đàn gia súc, gia cầm đều tăng nhanh theo định hướng của từng vùng kinh tế và ở cả 3 khu vực quốc doanh, tập thể, gia đình. Đàn bò trên 18.500 con, đàn trâu gần 6.500 con, đàn heo trên 22.600 con. Chất lượng đàn gia súc được nâng lên nhờ thực hiện tốt một số biện pháp phòng bệnh và lai tạo giống tốt.
Tháng 3/1984, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện họp ra Nghị quyết về phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong 2 năm 1984 - 1985. Nghị quyết xác định phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phải gắn với sản xuất nông, lâm, thủy sản khai thác tiềm năng 4 vùng kinh tế; phải dựa vào nguồn nguyên liệu ở địa phương là chính để đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Huyện xây dựng được 34 cơ sở sản xuất, thu hút trên 4.000 lao động. Trong đó, có 5 đơn vị quốc doanh thuộc huyện quản lý[4], 4 xí nghiệp hợp tác xã, 14 hợp tác xã và 11 tổ hợp tác tiểu thủ công nghiệp. Đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất, năm 1984, một số cơ sở như Hợp tác xã Cơ khí Ninh Hòa, Hợp tác xã Mộc mỹ nghệ Tân Lập... được chuyển đến địa điểm mới với quy mô lớn hơn và thiết bị máy móc hiện đại hơn. Ngày 27/10/1983, Ban Thường vụ Huyện ủy họp chủ trương xây dựng một nhà máy chế biến đường kết tinh gắn với vùng chuyên canh mía. Tuy nhiên, lúc đầu trong Đảng bộ, chủ trương này có một số ý kiến thiếu thống nhất. Lý do chủ yếu là thiếu tin vào thành công của công trình này vì thiếu vốn và kỹ thuật. Nhưng với quyết tâm rất cao của Huyện ủy và sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Ban Thường vụ Huyện ủy, giữa năm 1984, nhà máy đường bắt đầu được triển khai xây dựng. Tháng 3/1985, huyện vay tỉnh 100.000 USD để đặt mua thiết bị nhà máy. Số tiền này huyện tự khai thác nguồn hàng và xuất khẩu ủy thác, trả chậm cho tỉnh bằng ngoại tệ hoặc bằng hàng xuất khẩu. Song song với quá trình xây dựng nhà máy, tháng 4/1985, huyện đưa đi đào tạo đợt 1 gồm 40 công nhân kỹ thuật vận hành máy do Nhà máy Đường Bình Dương giúp đỡ. Ngày 25/7/1985, Ủy ban nhân dân huyện ra Quyết định số 524/QĐUB-TC thành lập Nhà máy Đường Ninh Hòa, quy mô 100 tấn mía/ngày. Đây là sự kiện đáng chú ý nhất, thể hiện rõ tinh thần tự lực, tự cường và sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa. Với nguyên liệu sẵn có như mây, lá buông, trúc, sặt, trắc dây, đót, đất làm gạch ngói, đá san hô... và các nông sản làm ra như lúa gạo, thuốc lá, mía, cá, muối... huyện tổ chức lại các nghề truyền thống với quy mô lớn hơn. Thời gian này, có điều kiện thuận lợi hơn để các đơn vị đưa khoa học kỹ thuật, điện, máy móc vào sản xuất, làm ra nhiều loại sản phẩm phục vụ sản xuất, đời sống và xuất khẩu với khối lượng lớn. Năm 1985, nhiều sản phẩm tăng nhanh như gạch ngói, xi măng, đường, thuốc lá sấy, nước mắm...[5]; một số sản phẩm mới ra đời như mành trúc xuất khẩu, thạch cao, hóa chất sau muối... Các sản phẩm xuất khẩu phong phú hơn, ngoài nông lâm sản, hải sản còn có sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu có giá trị chiếm 31,7% tổng giá trị xuất khẩu của huyện. Đây là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của huyện trong thời gian này.
Quá trình phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làm cho mối tương hỗ trong cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, mạng lưới điện cao thế được mở rộng thêm cùng với các cơ sở kinh tế của tỉnh đã góp phần thúc đẩy sự hình thành các cụm công nghiệp như cụm Ninh Diêm - Hòn Khói, cụm Ninh Xuân, cụm thị trấn Ninh Hòa... Việc hình thành các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các cụm công nghiệp gắn với 4 vùng kinh tế có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của huyện trong quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế huyện nông - công nghiệp. Tuy đạt được một số chuyển biến mới, nhưng đến năm 1986, giá cả thị trường biến động tăng mạnh, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Nguyên liệu tại địa phương không đáp ứng đủ nhu cầu mở rộng sản xuất, phần lớn các cơ sở chỉ sử dụng được 50 - 60% công suất máy móc, nhất là cơ sở chế biến gỗ, mộc mỹ nghệ xuất khẩu... Một số hợp tác xã bế tắc về nguyên liệu. Khó khăn hơn cả là về cơ chế giá cả, chính sách đầu tư, thị trường chưa thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp. Các đơn vị, nhất là kinh tế tập thể phải tự lo về mọi mặt để duy trì sản xuất trong điều kiện thị trường, giá cả biến động phức tạp khó lường. Vì vậy, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xuất hiện dấu hiệu trì trệ, đời sống người lao động trở nên khó khăn. Một số cơ sở sản xuất tập thể chỉ là hình thức, thực chất đã trở thành cơ sở kinh tế tư nhân.
Trên lĩnh vực phân phối lưu thông, thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 17/5/1983 của Tỉnh ủy, Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 207-NQ/HU, ngày 27/5/1983 về cải tạo công thương nghiệp, tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và quản lý thị trường. Nghị quyết nêu rõ: Đi đôi với cải tạo thương nghiệp tư doanh, phải chú trọng việc xây dựng, củng cố hệ thống phân phối lưu thông quốc doanh và tập thể từ huyện đến cơ sở đủ sức và chủ động nắm hàng, nắm tiền phục vụ sản xuất và đời sống. Ngày 3/6/1983, Ban Thường vụ Huyện ủy ra quyết định số 204-QĐ/HU thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện chủ trương trên do đồng chí Bùi Thanh Lâm, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Trưởng ban. Đầu năm 1985, huyện thành lập Công ty Ngoại thương trên cơ sở Trạm Xuất khẩu Ninh Hòa; thành lập Công ty Hải sản trên cơ sở Trạm Hải sản Ninh Hòa. Ngày 10/10/1985, Ban Thường vụ Huyện ủy họp cho chủ trương củng cố kiện toàn các công ty, sát nhập Phòng Lương thực vào Công ty Lương thực Ninh Hòa; Công ty Dịch vụ (ăn uống) sát nhập trở lại Công ty Thương nghiệp như trước đây[6]; sáp nhập Phòng Hải sản vào Công ty Hải sản Ninh Hòa. Đến cuối năm 1985, hệ thống phân phối lưu thông xã hội chủ nghĩa phủ kín địa bàn dân cư toàn huyện[7]. Các khu trung tâm đông dân đều có các cửa hàng; bình quân cứ 1.000 dân thì có một quầy hàng phục vụ. Các hợp tác xã mua bán lúc đó có các quầy hàng đến tận thôn, liên thôn phục vụ ăn uống, giải khát, làm đại lý cho thương nghiệp quốc doanh mua hàng nông sản phẩm và bán hàng công nghệ phẩm tiêu dùng. Bên cạnh các hợp tác xã mua bán, còn có hợp tác xã tín dụng. Sau khi rút kinh nghiệm xây dựng thí điểm ở hai xã Ninh Quang và Ninh Diêm theo Chỉ thị số 02-CT/HU ngày 4/3/1983 của Ban Thường vụ Huyện ủy, toàn huyện triển khai thành lập hợp tác xã tín dụng ở các xã như là một phong trào. Năm 1984 - 1986, phần lớn các xã đều có hợp tác xã tín dụng. Thời gian này, các hợp tác xã hoạt động chủ yếu dựa vào Ngân hàng Nhà nước. Chức năng chính là làm đại lý, uỷ nhiệm, hưởng hoa hồng và được bù chi phí. Với hệ thống đó, quốc doanh và tập thể nắm và lưu thông được khối lượng lớn của một số mặt hàng thiết yếu như 83,3% tổng sản lượng lương thực, 86% sản lượng thuốc lá, 33,3% sản lượng đường thủ công... Để chiếm lĩnh thị trường, ngành thương nghiệp đưa vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống phân phối theo kế hoạch xuống tận cơ sở, đến người dân. Riêng lương thực, tổ chức 11 quày hàng bán gạo cho khu vực phi nông nghiệp, bình quân mỗi khẩu được mua 7kg/tháng.
Phục vụ yêu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh và đời sống, Huyện ủy chủ trương sau khi hoàn thành nghĩa vụ nhà nước, các đơn vị quốc doanh và tập thể phải tích cực thu mua nắm hàng để phục vụ xuất khẩu và liên kết kinh tế tạo thêm nguồn vật tư, nhiên liệu, phân bón thiết bị kỹ thuật, hàng tiêu dùng thiết yếu. Trong tình hình đang ngày càng khó khăn gay gắt, nguồn hàng do liên kết và xuất nhập khẩu tạo ra lúc này có ý nghĩa rất quan trọng, bù đắp lại phần thiếu hụt do Nhà nước cung cấp, góp phần giữ vững sản xuất và ổn định đời sống nhân dân. Năm 1985, tổng giá trị hàng hóa đi liên kết lấy về cho huyện trị giá trên 6,5 triệu đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt gần 830.000 rúp, đô la; nhập khẩu hàng hóa trên 560.000 rúp, đô la[8]. Các sản phẩm chủ lực xuất khẩu gồm tôm, mực, thầu dầu, mỳ lát, hàng mộc mỹ nghệ, mây tre lá, trầm kỳ... Tuy nhiên, trong quá trình cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là về chính sách, pháp luật. Sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa V), tháng 6/1985 về giá - lương - tiền nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa không thành công, nhất là sau đổi tiền ngày 14/9/1985[9], tình hình kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ… không ổn định, lưu thông hàng - tiền diễn biến phức tạp, căng thẳng, giá cả tăng vọt. Lượng hàng Nhà nước nắm được không thể đủ phân phối cho các đối tượng, đời sống của nhân dân lao động lao đao. Trong tình hình đó, theo sự chỉ đạo của tỉnh, huyện lại tăng cường công tác quản lý thị trường, vừa tổ chức sắp xếp lại các ngành hàng kinh doanh cho trên 3.000 hộ tư thương, vừa siết chặt công tác quản lý giá, bán theo giá niêm yết, chống đầu cơ tích trữ rất quyết liệt. Ngày 16/9/1985, Ủy ban nhân dân huyện ra Thông báo đặc biệt số 181/ĐB về công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ tích trữ và giá, nêu rõ: “Tất cả các cửa hàng, quầy hàng, những người hành nghề, kể cả người cắt tóc đều phải niêm yết giá. Ví dụ: Cắt tóc 10 đồng tiền cũ bằng 1 đồng tiền mới; bát phở 30 đồng tiền cũ bằng 3 đồng tiền mới; giữ xe đạp 1 đồng tiền cũ bằng 0,1 đồng tiền mới…”. Song, cũng như trong cả nước, những biện pháp đó không những không cải thiện được tình hình, giá cả vẫn không ngừng tăng lên mà khả năng kiểm soát giá, chiếm lĩnh thị trường của Nhà nước mất dần. Trong huyện, các hoạt động kinh doanh “bung ra” rất mạnh, kể cả hộ tư thương và các công ty quốc doanh. Các hộ tư thương xuống tận từng gia đình mua gom, mua vét các sản phẩm trong dân, giá cả lại linh hoạt nên nắm được một khối lượng hàng khá lớn và trở thành một lực lượng đáng kể trên thị trường. Trong khi đó, hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa bị ràng buộc bởi cơ chế quản lý quan liêu, chậm thay đổi phương thức thu mua cho phù hợp, giá cả không linh hoạt, thái độ phục vụ chưa tốt, chất lượng phục vụ chưa cao... nên khó nắm được hàng. Giữa các công ty quốc doanh cũng không phân định rõ các mặt hàng kinh doanh. Hệ quả tất yếu dẫn đến tình trạng tranh mua tranh bán giữa các đối tượng kinh doanh trên địa bàn huyện, làm cho lưu thông, phân phối trở nên rối ren, khó kiểm soát. Nhiều tiêu cực phát sinh, nhất là tình trạng tuồn hàng nhà nước bán ra thị trường ăn chênh lệch giá… Vận dụng tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa V), Huyện ủy chỉ đạo các cơ sở sản xuất kinh doanh phát huy quyền chủ động, sáng tạo, từng bước đi vào hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Các công ty của huyện liên kết, liên doanh với các đơn vị ngoài huyện, ngoài tỉnh đẩy mạnh thu mua trao đổi hàng hóa, bước đầu kinh doanh có lãi. Điển hình là Công ty Ngoại thương liên kết kinh tế với 13 đơn vị trong và ngoài tỉnh. Liên kết với Công ty Dịch vụ phục vụ dầu khí (OSC), đầu tháng 8/1985, Công ty tiến hành xây dựng khu du lịch Dốc Lết. Đây là một loại hình kinh doanh dịch vụ mới và cũng là điểm kinh doanh du lịch đầu tiên trên địa bàn huyện. Sau một tháng khẩn trương xây dựng, ngày 2/9/1985, Khu du lịch Dốc Lết khai trương đưa vào hoạt động. Ngày nay, khu du lịch Dốc Lết trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.
Từ kết quả sản xuất, kinh doanh, nội bộ nền kinh tế huyện có tích lũy bước đầu. Năm 1985, năm đầu tiên ngân sách huyện đạt bội thu; Ngân hàng huyện thu tiền mặt và huy động gửi tiền tiết kiệm đạt cao nhất từ trước đến nay[10]. Trên cơ sở đó, Huyện ủy chủ trương tập trung vốn, ưu tiên xây dựng một số công trình quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù cơ sở làm việc còn thiếu thốn và xuống cấp, nhưng từ 1983 - 1985, Huyện ủy chủ trương không xây dựng một công trình mới nào cho các cơ quan Đảng, chính quyền đoàn thể huyện và trụ sở xã. Tất cả nguồn vốn đều ưu tiên cho sản xuất và phúc lợi cho nhân dân. Với phương châm “Nhà nước, tập thể và nhân dân cùng làm”, huyện xây dựng 16 công trình, trong đó 10 công trình phục vụ sản xuất như Nhà máy Đường Ninh Hòa, Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc, Xí nghiệp Chế biến nước mắm, đập nước buôn Tương...; 6 công trình phục vụ phúc lợi công cộng như: Bệnh viên Đa khoa Ninh Hòa, Trường Trung học phổ thông Nguyễn Chí Thanh, Trường cấp II + III Trần Quý Cáp, sân vận động huyện, nhà hát ngoài trời... Hầu hết các công trình văn hóa xã hội đều có sự đóng góp to lớn của nhiều đơn vị, tổ chức, của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức và nhân dân trong huyện. Hình thức đóng góp là ủng hộ, cho mượn, cho vay[11]. Ngoài các công trình của huyện, thực hiện phương châm “Cơ sở làm, dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, các đơn vị huy động sức dân và hợp tác xã xây dựng hàng chục công trình như nâng cấp đường liên thôn, liên xã, làm mới cầu cống, xây dựng trạm bơm, đập bổi, phòng học... Để góp phần giáo dục truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc, nâng cao tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ngày 1/12/1984, Ban Thường vụ Huyện ủy đặt tên cho một công trình mới xây dựng của huyện như sau: Công trình Hợp tác xã Tân Lập là Công trình 2/4; công trình Hợp tác xã Cơ khí là Công trình 22/12; công trình Bệnh viện huyện là Công trình 2/9 Ninh Hòa; công trình Nhà hát là Công trình 30/4; công trình Sân vận động huyện là Công trình 16/7 (sau khi hoàn thành, Sân vận động Ninh Hòa mang tên Sân vận động 16/7 cho đến ngày nay).
Trong điều kiện khó khăn và phức tạp, những bước đi ban đầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên địa bàn huyện đạt nhiều kết quả, tạo ra được một khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội, góp phần tăng ngân sách, xây dựng được nhiều công trình, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội trên địa bàn huyện. Đời sống vật chất nhân dân bớt khó khăn hơn trước[12]; bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi, nhà ngói mọc lên ngày càng nhiều. Đây là là nét nổi bật trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của Đảng bộ huyện. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều khuyết điểm, nhất là trên lĩnh vực phân phối lưu thông. Nổi lên là tình trạng lộn xộn, mất trật tự trong kinh doanh như “xé rào”, tranh mua, tranh bán đẩy giá lên cao. Một số đơn vị chấp hành không nghiêm kế hoạch tập trung của huyện, chạy theo kế hoạch liên doanh liên kết. Một số phương thức kinh doanh của một số đơn vị linh hoạt theo kịp và phù hợp với thực tiễn nhưng tại thời điểm này là vi phạm chính sách, pháp luật quy định hiện hành của Nhà nước như Công ty Ngoại thương huyện, Công ty Thương nghiệp… Vi phạm chủ yếu là không chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật giá, tự nâng giá mua, giá bán, tự quyết định sử dụng nguồn vốn để liên kết kinh doanh một số mặt hàng có lãi cao như ti vi, video, xe máy... Những khuyết điểm đó đã được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo kiểm điểm nghiêm túc và xử lý nghiêm minh một số vụ việc như vụ Công ty Ngoại thương…
Song song với lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ không ngừng quan tâm phát triển văn hóa - xã hội, chăm lo đời sống nhân dân. Đặc điểm nổi bật trong thời gian 1983 - 1986 là tất cả mọi hoạt động văn hóa - xã hội đều tập trung hướng về cơ sở. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương thứ 3 (khóa V), Huyện ủy chủ trương đưa thông tin, văn hóa về cơ sở, xây dựng và củng cố các thiết chế văn hóa, từng bước nâng cao chất lượng phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao đến tận địa bàn dân cư. Để đưa tiếng nói của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ đến tận người dân, đầu năm 1983, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thực hiện truyền thanh hóa toàn huyện. Đài Truyền thanh huyện xây dựng đài phát sóng FM, mở rộng diện phủ sóng, thực hiện được tiếng nói 3 cấp. Hệ thống đài truyền thanh xã được xây dựng và nâng cấp, 26/26 xã đều có trạm truyền thanh, trong đó có 21 đài xã tiếp âm được Đài huyện. Truyền thanh 4 cấp phủ hầu hết địa bàn dân cư thông qua hàng trăm loa công cộng và trên 6.500 loa gia đình. Nâng cao đời sống văn hóa, toàn huyện đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng, thành lập đội văn nghệ xung kích[13], củng cố và xây dựng đội thông tin cổ động huyện và cơ sở. Phần lớn các xã đều có đội văn nghệ xung kích, đội thông tin cổ động. Các đội hoạt động tích cực, thường xuyên tổ chức các buổi thông tin cổ động, biểu diễn văn nghệ, giao lưu, tham gia hội diễn, hội thi văn nghệ toàn huyện. Nhiều đội đi từng ngõ xóm, đến tận nơi sản xuất giữa đồng ruộng, trên sân kho, ngoài công trường thủy lợi, công trường khai hoang… đưa những thông tin thời sự, chính sách và lời ca, tiếng hát động viên người dân đang trực tiếp lao động. Hoạt động sôi nổi, tiêu biểu là các đội thị trấn Ninh Hòa, Ninh Đông, Ninh Giang, Ninh Phụng, Ninh Thượng... Năm 1984, Nhà hát nhân dân ngoài trời quy mô 5.000 chỗ ngồi được khởi công xây dựng, cuối năm 1985 cơ bản hoàn thành. Sau khi đưa vào sử dụng, Nhà hát phát huy ngay tác dụng, mỗi năm đón tiếp trên dưới 20 lượt đoàn nghệ thuật của tỉnh, Trung ương và tỉnh bạn về biểu diễn. Năm 1985, Nhà Văn hóa huyện được thành lập đã tổ chức nhiều hoạt động như triển lãm tranh ảnh, mở lớp hát, múa, biểu diễn nghệ thuật, đào tạo bồi dưỡng năng khiếu… Bên cạnh đó, huyện tổ chức 2 đội chiếu phim lưu động, thường xuyên phục vụ nhân dân, đến mọi thôn, bản trong huyện không để sót nơi nào. Ở các xã, thị trấn, cơ quan, xí nghiệp thì có các câu lạc bộ văn hóa sinh hoạt khá sôi nổi, bổ ích. Thư viện huyện và các phòng đọc sách ở các xã, hợp tác xã, cơ quan được củng cố, nâng cao số lượng đầu sách phục vụ bạn đọc. Hàng ngày, tại các cơ quan từ huyện đến cơ sở đều thực hiện nền nếp đọc sách, báo 15 phút trước khi vào làm việc buổi sáng. Phong trào thể dục thể thao cũng được các cấp chú ý xây dựng. Năm 1984, khi xây dựng Nhà hát ngoài trời, sân vận động huyện được chuyển ra xây dựng tại xã Ninh Đa, lấy tên là Sân vận động 16/7. Để thúc đẩy phong trào rèn luyện thân thể, huyện thành lập một số câu lạc bộ thể thao như bóng bàn, bóng đá, bóng chuyền, cờ tướng... Trong nhà trường, hội khỏe Phù Đổng được duy trì đều đặn, đi dự hội thi cấp tỉnh đều đạt giải cao. Năm 1984, lần đầu tiên đội điền kinh thiếu niên học sinh của huyện dự giải toàn quốc đạt thành tích cao, được tham gia dự giải quốc tế[14]. Năm nào, huyện cũng tổ chức các giải thể dục, thể thao truyền thống như điền kinh, bóng bàn, bóng đá, bóng chuyền... Phong trào được đẩy mạnh thành cao trào trong dịp những ngày lễ lớn của dân tộc và sự kiện chính trị quan trọng.
Tất cả mọi hoạt động nêu trên thể hiện bước phát triển tiến bộ trong xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Điều đó cũng chứng minh rằng: Mặc dù đời sống vật chất còn nhiều thiếu thốn, chật vật, nhưng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Ninh Hòa trong những năm 1983 - 1986 diễn ra khá phong phú, đa dạng. Nhờ đó, đã góp phần tạo nên động lực mạnh mẽ cho các tầng lớp nhân dân vượt qua khó khăn, giành được nhiều kết quả tích cực trên các trên lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Về công tác giáo dục, vấn đề Đảng bộ đặc biệt quan tâm trong thời gian này là làm như thế nào để xây dựng đủ trường lớp, đáp ứng quy mô phát triển không ngừng của các ngành học, bậc học từ mầm non đến phổ thông và bổ túc văn hóa. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo phải ưu tiên dành một phần ngân sách, đồng thời, động viên sức dân cùng Nhà nước chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Năm 1983, huyện xây dựng mới Trường Phổ thông trung học Nguyễn Chí Thanh tại xã Ninh Phụng. Ngày 12/8/1983, trường được thành lập theo Quyết định số 1815/UB-TC của Ủy ban nhân dân tỉnh. Đến năm 1985, toàn huyện có 2 trường phổ thông trung học; 27 trường phổ thông cơ sở ở tất cả 26 xã, thị trấn và điểm kinh tế mới Hòa Sơn với tổng số học sinh phổ thông trên 45.000 em. Số lượng bàn ghế phục vụ học tập được bổ sung cơ bản đủ, tình trạng học sinh phải “học đứng, học quỳ” được khắc phục. Ngành học mầm non ở xã, thị trấn được hợp tác xã nông nghiệp phục vụ bao cấp, có 62 nhà nhóm trẻ, trên 200 lớp mẫu giáo. Ngành học bổ túc hình thành được một hệ thống trường lớp với đầy đủ các cấp học, các hình thức học. Cấp huyện có Trường Bổ túc văn hóa huyện, Trường bổ túc Dân chính. Xã, thị trấn có các lớp bổ túc tại chức, đảm bảo cho mọi đối tượng không có điều kiện học các trường phổ thông, có nhu cầu được tiếp tục học tập hết chương trình văn hóa.
Với sự đóng góp to lớn của nhân dân, hệ thống trường lớp trong toàn huyện đã có bước thay đổi khang trang về bộ mặt, nhiều ngôi trường mới mọc lên giữa lòng tin yêu, phấn khởi của nhân dân. Từ những ngôi trường bằng tranh tre, nứa lá tạm thời đã được thay đổi dần bằng tường xây, ngói đỏ kiên cố. Có thể nói, mạng lưới giáo dục của huyện cơ bản đáp ứng nhu cầu “ai cũng được học hành”. Có điều kiện thuận lợi hơn về cơ sở vật chất, được sự quan tâm của toàn xã hội, thông qua phong trào 2 tốt, dạy giỏi và học giỏi, chất lượng giáo dục dần được nâng lên. Đội ngũ giáo viên được bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị và nghiệp vụ chuyên môn, nhất là trong dịp hè. Việc chuẩn hóa giáo viên được coi trọng. Từ năm 1983, Phòng Giáo dục huyện mở các lớp hàm thụ cao đẳng sư phạm cho một số môn học như vật lý, lịch sử... Nhìn chung chất lượng giáo dục từng bước nâng lên. Số giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh và học sinh giỏi hàng năm nhiều hơn trước[15]; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học hàng năm đều đạt cao; tỷ lệ học sinh lưu ban giảm dần. Đối với các lớp cải cách, sau 4 năm thực hiện, số giáo viên dạy giỏi chiếm tỷ lệ cao hơn so với chưa cải cách; tỷ lệ học sinh lên lớp cũng cao hơn bình quân chung. Ngoài ra, ngành giáo dục chú ý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh theo Quyết định số 126/CP ngày 19/3/1981 của Hội đồng Chính phủ. Từ mô hình hướng nghiệp đầu tiên là Hợp tác xã Măng non Ninh Phụng, các em tham gia lao động làm phân xanh, trồng rau, làm kế hoạch nhỏ..., ngành giáo dục nhân rộng ra toàn huyện. Đến 1985, nhiều mô hình hướng nghiệp ra đời khá đa dạng, thích hợp với các loại hình sản xuất ở từng nơi như Xí nghiệp Măng non sản xuất gạch ngói Ninh Xuân, Hợp tác xã Măng non sản xuất muối Ninh Diêm, Hợp tác xã Măng non mành trúc sơn Ninh Hòa 2...
Về công tác y tế, huyện tiếp tục nâng cấp Bệnh viện huyện, tu sửa và xây mới nhiều trạm y tế xã, nâng tổng số giường bệnh lên trên 400 giường (năm 1985). Tuy nhiên, vẫn không thể đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân. Bệnh viện huyện luôn trong tình trạng quá tải, tỷ lệ sử dụng giường bệnh cao, từ 110% - 130% gây bức xúc dư luận xã hội. Đáp ứng nhu cầu của dân, tháng 9/1983, huyện khởi công xây dựng mới Bệnh viện Đa khoa Ninh Hòa 150 giường tại vị trí quy hoạch, phía Tây dưới chân núi Ổ Gà, thị trấn Ninh Hòa (nay là Tổ dân phố 16, phường Ninh Hiệp). Đây là công trình 100% vốn tự lực của huyện, từ ngân sách và do nhân dân đóng góp ủng hộ hoặc cho huyện vay để xây dựng[16]. Trong giai đoạn thi công các hạng mục cuối cùng, huyện gặp khó khăn về vốn nên tháng 10/1985, Huyện ủy chủ trương cho phát hành trái phiếu mệnh giá 5.000 đồng xây dựng Bệnh viện huyện. Đợt phát hành đầu tiên và duy nhất trái phiếu Ninh Hòa thu hút đông đảo cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên và nhân dân tham gia mua. Nhờ đó, đã góp phần giải quyết khó khăn, hoàn thành công trình và đưa vào sử dụng vào đầu năm 1986. Đồng thời với việc khắc phục tình trạng quá tải ở Bệnh viện huyện, Ban Thường Huyện ủy chỉ đạo khắc phục tình hình khan hiếm thuốc chữa bệnh. Hướng khắc phục chủ yếu là tích cực khai thác nguồn dược liệu tại địa phương, bào chế và phổ biến rộng rãi các bài thuốc nam chữa bệnh cho nhân dân. Huyện nhanh chóng hình thành mạng lưới tổ chức y học cổ truyền và phát động phong trào trồng và sử dụng thuốc nam. Hầu hết các trạm y tế đều có vườn thuốc; mỗi gia đình trồng một số cây thuốc dùng để chữa bệnh thông thường. Cuối năm 1984, Hội Y học cổ truyền dân tộc huyện được thành lập; năm 1985, Hội và nhiều chi hội xây dựng được phòng chẩn trị đông y. Tại Bệnh viện huyện có thêm Khoa Đông y. Phát huy tinh thần lao động sáng tạo, Hiệu thuốc huyện gia công được một số thuốc chữa bệnh cho tuyến huyện; nhiều trạm y tế bào chế thuốc nam tự túc được phần lớn thuốc chữa bệnh thông thường cho dân, điển hình là Ninh Quang, Ninh Giang… Với quan điểm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, huyện tăng cường giáo dục nâng cao ý thức vệ sinh, phòng dịch bệnh cho nhân dân; thực hiện nề nếp công tác vệ sinh, bảo vệ môi trường, “sạch làng tốt ruộng”. Nhiều xã hoàn thành dứt điểm 3 công trình vệ sinh. Đối với trẻ em thì được tiêm chủng mở rộng, phòng chống 6 bệnh truyền nhiễm (bại liệt, tả, lỵ, ho gà, uốn ván, sởi, lao)... Năm 1983, trong huyện xảy ra dịch 4 số 0 (0000) và dịch hạch nhưng kịp thời dập tắt được. Đáng chú ý là bệnh sốt rét, là bệnh có số lượng bệnh nhân nhập viện và bị tử vong đều chiếm tỷ lệ cao so với các loại bệnh khác. Kết hợp tốt giữa phòng bệnh và tích cực điều trị theo phương pháp đông, tây y kết hợp, tỷ lệ tử vong do sốt rét hàng năm giảm nhanh[17]; tỷ lệ chữa khỏi bệnh đối với các bệnh khác đều tăng lên. Đây là cố gắng và kết quả nổi bật trong công tác điều trị của các các cơ sở y tế. Về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, trước năm 1983, tỷ lệ tăng dân số của huyện rất cao, trên dưới 3%. Để giảm tốc độ tăng dân số, Ban Thường vụ chỉ đạo cả hệ thống chính trị phải vào cuộc. Các cấp, các ngành và mỗi cơ quân đồng thời thực hiện nhiều biện pháp: Vừa kiên trì giáo dục, tuyên truyền, vận động nhân dân thay đổi nhận thức về mô hình gia đình ít con; vừa mạnh tay xử lý hành chính đối với trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm chính sách sinh đẻ có kế hoạch; vừa quan tâm mở rộng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến tận cơ sở... Các xã dồn sức thực hiện dứt điểm về kế hoạch hóa gia đình, đến năm 1985, toàn huyện có 17 xã hoàn thành. Nhờ đó, tỷ lệ tăng dân số giảm dần, từ 2,6% (1983) xuống còn 1,6%.
Những kết quả phát triển trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội trong những năm 1983 - 1986 đã góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân thêm phong phú và tiến bộ[18]. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khuyết điểm, hạn chế. Nội dung hoạt động văn hóa, văn nghệ lặp đi, lặp lại trở nên nhàm chán, thiếu sức thu hút công chúng. Đối với giáo dục và y tế, bộc lộ rõ nhất là mất cân đối giữa khả năng chi trả bao cấp của ngân sách huyện với nhu cầu ngày càng tăng của 2 lĩnh vực này. Nhiều trạm y tế xã xuống cấp, thiếu thốn trang thiết bị y tế. Nhiều trường, lớp xây dựng không đảm bảo quy cách và môi trường sư phạm. Tuy đã khắc phục tình trạng học sinh phải “học đứng, học quỳ” nhưng bàn ghế phần lớn vẫn là tạm thời, “dã chiến”; tình trạng học ca ba xuất hiện khá phổ biến. Đồ dùng học tập, giảng dạy, giấy bút, văn phòng phẩm nhìn chung vẫn thiếu thốn.
Đi đôi với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh luôn được toàn Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Ngày 30/8/1983, Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HU về công tác quân sự địa phương 1983 - 1985. Với tinh thần xây dựng huyện trở thành một pháo đài quân sự, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục quốc phòng cho toàn dân, nhất là thanh niên; tập trung xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở; xây dựng các cụm chiến đấu, tuyến chiến đấu, làng chiến đấu phòng thủ liên hoàn của chiến tranh nhân dân, trước hết là các cụm chiến đấu Ninh Thủy, Ninh Diêm, Ninh Hải, Ninh Thọ. Đồng thời gắn xây dựng kinh tế với quốc phòng, an ninh. Các cấp ủy, chính quyền chăm lo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, thường xuyên huấn luyện nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Năm 1985, số lượng dân quân chiếm 8,4% dân số, được tổ chức thành 3 lực lượng: Chiến đấu cơ động, chiến đấu tại chỗ và phục vụ chiến đấu. Mỗi xã xây dựng 1 - 2 trung đội hoặc đại đội dân quân cơ động. Tất cả các thôn, buôn làng đều có tổ chức dân quân. Các cơ quan, đơn vị từ hành chính sự nghiệp đến sản xuất kinh doanh hình thành tiểu đội, trung đội hoặc đại đội tự vệ. Các lực lượng dân quân tự vệ thuộc các binh chủng thông tin, trinh sát, quân báo nhân dân, cối 82mm... lần lượt ra đời tại các cụm chiến đấu. Nổi bật là trung đội nữ dân quân thuộc binh chủng súng máy 12,7mm xã Ninh Quang đạt nhiều thành tích trong huấn luyện, diễn tập phòng thủ chiến đấu. Lực lượng dự bị động viên cũng biên chế thành các đơn vị theo ngạch chuyên môn, được thường xuyên huấn luyện và báo động, động viên quân sự. Với lực lượng bán vũ trang nêu trên chứng tỏ rằng, quân dân toàn huyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Lực lượng thanh niên cũng sẵn sàng lên đường nhập ngũ, làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Liên tục 3 năm (1983 - 1985), huyện đều vượt chỉ tiêu giao quân trên giao. Về chính sách hậu phương quân đội, năm 1983, huyện đã căn bản hoàn thành công tác xác nhận liệt sĩ, thương bệnh binh và gia đình có công với nước[19]. Các năm tiếp theo, các cấp tập trung rà soát lại những hồ sơ tồn đọng, những người tham gia kháng chiến đã mất, bị thương hoặc giúp đỡ cách mạng… mà chưa được hưởng chính sách để tiếp tục hướng dẫn và hoàn thành thủ tục đề nghị công nhận. Đối với các trường hợp gặp khó khăn, vướng mắc về chính trị và người xác nhận… thì cử cán bộ đi điều tra, xác minh để có cơ sở kết luận. Với tình cảm và trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, trực tiếp là ngành thương binh xã hội và đội ngũ cán bộ trực tiếp làm chính sách, hàng trăm trường hợp đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận. Hàng năm, huyện tổ chức nhiều đoàn đi tìm hài cốt liệt sĩ ở nhiều địa điểm. Riêng 2 năm 1983 - 1984 thì tập trung ở lòng hồ Đá Bàn trước khi chặn dòng tích nước vào đầu năm 1985. Tính đến năm 1985, đã quy tập 1.781 mộ về nghĩa trang liệt sĩ huyện. Thực hiện Thông tri số 07-TT/TU, ngày 27/10/1983 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đẩy mạnh phong trào “Uống nước nhớ nguồn” chăm sóc, giúp đỡ các đối tượng chính sách, gắn với cuộc vận động “Người công dân kiểu mẫu, gia đình cách mạng gương mẫu”. Các cấp, các cơ quan ban ngành, đơn vị và nhân dân hưởng ứng bằng các việc làm thiết thực như giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách và con em họ học tập, có việc làm, xây dựng nhà ở, bán lương thực điều hòa…
Quán triệt Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 25/10/1982 của Bộ Chính trị (khóa V), tháng 1/1983, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành kế hoạch đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch và thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện do đồng chí Võ Danh, Bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban. Theo đó, các cấp tập trung củng cố, xây dựng nâng cao chất lượng chính trị và bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ công an cho cán bộ, chiến sĩ từ huyện đến xã, thị trấn. Cuối năm 1983, Công an huyện phát động phong trào thi đua làm theo 6 điều Bác Hồ dạy công an nhân dân theo tinh thần Chỉ thị số 4/CT-BNV, ngày 23/5/1983 của Bộ Nội vụ. Phong trào tạo ra được nhiều chuyển biến tiến bộ trong lực lượng công an, nhất là về tinh thần phục vụ nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Hướng về cơ sở, trong thời gian 3 năm (1983 - 1986), Công an huyện tập trung củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ, tăng cường 49 cán bộ, chiến sĩ xuống giữ các vị trí chủ chốt công an xã. Đây là thời gian có số lượng cán bộ, chiến sĩ tăng cường cho cơ sở đông nhất. Được sự giúp sức của huyện, các xã, thị trấn củng cố lực lượng công an thôn; xây dựng được trên 2.000 tổ an ninh nhân dân; phát triển phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc... Lực lượng công an phối hợp chặt chẽ với lực lượng quân sự địa phương, lực lượng biên phòng tỉnh tổ chức nhiều tổ, nhiều đợt tuần tra bảo vệ an ninh các địa bàn miền núi và ven biển. Kết quả đã điều tra, khám phá một số vụ nhen nhóm tổ chức phản động, nhiều vụ án hình sự và ngăn chặn phần lớn các vụ vượt biên trốn ra nước ngoài[20]. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, các vụ phạm pháp hình sự, trọng án, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và vượt biên đều giảm nhiều so với các năm trước.
Xây dựng Đảng bộ, chính quyền và đoàn thể quần chúng
Quán triệt Chỉ thị số 24-CT/TW ngày 29/9/1983 của Ban Bí thư về công tác xây dựng đảng bộ huyện vững mạnh gắn với việc xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ 6 (khóa X) ngày 10/1/1984 xác định phải tập trung củng cố và xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành của bộ máy chính quyền cấp huyện và cấp xã: “Gấp rút chấn chỉnh tổ chức theo hướng gọn và tinh. Chú trọng kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý có chuyên môn nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo có năng lực và phẩm chất đạo đức. Mạnh dạn sử dụng bố trí cán bộ trẻ, có lập trường quan điểm tốt và nhiệt tình cách mạng”[21]. Bộ máy cấp huyện được củng cố, kiện toàn theo Nghị định số 86/HĐBT, ngày 4/8/1983 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo đó, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện có 25 ban phòng[22]. Do trình độ và năng lực quản lý kinh tế - xã hội của đội ngũ cán bộ không đồng đều và còn nhiều hạn chế so với yêu cầu xây dựng cấp huyện, việc điều động, bố trí cán bộ sao cho phù hợp với khả năng, sở trường của từng cán bộ lúc này trở thành vấn đề mấu chốt. Để chuẩn bị nhân sự cho bầu cử hội đồng nhân dân khóa IV, sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 11, Ban Thường vụ Huyện ủy điều động, bố trí sắp xếp lại công tác của 22 cán bộ, đề bạt 14 cán bộ trưởng, phó các ban ngành, công ty, xí nghiệp... Bộ máy Thường trực Ủy ban nhân dân huyện có sự thay đổi. Ngày 19/1/1983, Hội đồng nhân dân huyện khóa III, kỳ họp thứ 4 bầu đồng chí Trần Thị, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thay đồng chí Trần Việt Á. Các Phó Chủ tịch gồm có 3 đồng chí: Bùi Thanh Lâm, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy; Nguyễn Ngọc Túy, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy; Nguyễn Giáo, Huyện ủy viên.
Quán triệt Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 6/2/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Huyện ủy tập trung lãnh đạo thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân huyện khóa IV và hội đồng nhân dân xã, thị trấn vào ngày 20/5/1984. Hội đồng nhân dân huyện khóa IV gồm 57 đại biểu, họp phiên đầu tiên bầu đồng chí Trần Thị làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân; bầu các Phó Chủ tịch gồm các đồng chí: Bùi Thanh Lâm, Nguyễn Ngọc Túy, Nguyễn Giáo; bầu đồng chí Nguyễn Văn Thành làm Ủy viên thư ký[23]; bầu các Ủy viên Ủy ban nhân dân; bầu ra 5 ban của Hội đồng nhân dân huyện gồm: Ban Thư ký, Ban Kinh tế - kế hoạch, Ban Pháp chế, Ban Thanh thiếu niên và nhi đồng, Ban Đời sống.
Thời điểm này, Thường trực Huyện ủy cũng có sự thay đổi. Ngày 15/1/1984, Ban Chấp hành Đảng bộ bầu đồng chí Trần Việt Á, Tỉnh ủy viên, Phó bí thư Huyện ủy làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Võ Danh chuyển công tác về tỉnh. Ngày 25/10/1985, đồng chí Trần Thị, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện chuyển về làm Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Mai Quí Phận, Phó Bí thư Huyện ủy được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Các ban tham mưu của Huyện ủy được củng cố, thành lập thêm 2 ban mới là Ban Dân vận Huyện ủy (tháng 5/1983) và Ban Sưu tầm lịch sử Đảng Huyện ủy (tháng 4/1984).
Từ năm 1983, Huyện ủy phải tự lực ngân sách theo chủ trương xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện. Vì vậy, Văn phòng Huyện ủy, ngoài nhiệm vụ chuyên môn còn được giao trực tiếp theo dõi sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế Đảng. Ngày 1/1/1983, Ủy ban nhân dân huyện bàn giao Nhà máy Nước đá Ninh Hòa cho Huyện ủy quản lý. Cũng năm đó, Huyện ủy thành lập trại chăn nuôi bò tại Ninh Tây, ban đầu có 25 con. Đến năm 1985 trại bò dời về Ninh Trang, xã Ninh Thượng, quy mô đàn lúc cao nhất trên 200 con. Kinh tế Đảng thời gian đầu tổ chức sản xuất kinh doanh tạo được nguồn thu, bảo đảm tự lực cân đối thu, chi ngân sách của Huyện ủy, năm1986 - 1987 còn hỗ trợ cho ngân sách nhà nước, góp phần hoàn thành các công trình phúc lợi của huyện. Tuy nhiên các năm sau đó, các cơ sở kinh tế Đảng không thể đảm bảo được nhu cầu chi ngân sách của Huyện ủy, phần lớn kinh phí hoạt động của Huyện ủy đều do ngân sách tỉnh cấp.
Khắc phục tình trạng thiếu cán bộ cốt cán có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đang đặt ra, Huyện ủy chủ trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo phương châm “Giỏi một việc, biết nhiều việc”. Đội ngũ cán bộ lần lượt được cử đi học đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận và nghiệp vụ chuyên môn với số lượng lớn. Đây cũng là giai đoạn huyện có số lượng cán bộ đi học đông nhất so với các giai đoạn trước đó. Chỉ riêng trong 2 năm 1984 - 1985, huyện đã cử đi học các trường Đảng, đoàn thể, quản lý của Trung ương 18 đồng chí, các trường đại học 25 đồng chí, Trường Đảng tỉnh 128 đồng chí. Tại thời điểm tháng 6/1986, huyện có 60 cán bộ đang theo học tại các trường Trung ương và Trường Đảng tỉnh. Các trường huyện gồm Trường Đảng, Trường Bổ túc văn hóa và Trường Hợp tác hóa huyện cũng liên tục mở 81 lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ. Riêng Trường Đảng huyện mở 19 lớp, 1.264 học viên, trong đó có 10 lớp đào tạo trình độ lý luận cơ sở (tức sơ cấp). Cùng với bồi dưỡng đào tạo cán bộ, Đảng bộ quan tâm phát triển đảng viên mới, tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ kế cận. Trước năm 1984, số lượng đảng viên mới được kết nạp rất hạn chế nhưng sau khi tổng kết 5 năm (1979 - 1984) thực hiện Chỉ thị 72-CT/TW của Ban Bí thư thì công tác phát triển Đảng có sự chuyển biến rõ nét, khuyết điểm chậm kết nạp đảng viên của Đảng bộ được khắc phục triệt để. Các chi, đảng bộ tích cực phát triển đảng viên mới, trước hết là các nhân tố tích cực đã cống hiến, phấn đấu nhiều năm. Trường Đảng mở nhiều lớp đối tượng Đảng, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1985 đã mở 4 lớp với 317 học viên. Nhờ đó, trong nhiệm kỳ đã kết nạp 410 đảng viên tăng gấp hơn 3 lần so với nhiệm kỳ trước, nâng tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lên 1.195 đồng chí. Trên cơ sở kết quả bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công tác củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức các cấp thuận lợi và chủ động hơn. Đối với cấp xã, thị trấn, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo rà soát, kiện toàn 5 chức danh quan trọng gồm bí thư cấp ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, xã đội trưởng và trưởng công an xã. Đặc biệt, trong chỉ đạo tổ chức đại hội cơ sở đảng năm 1984 và bầu cử hội đồng nhân dân xã, thị trấn ngày 20/5/1984, ngoài tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, một số tiêu chuẩn nhân sự được cụ thể hóa và nâng lên so với quy định chung. Nhân sự phải vừa bảo đảm được tính kế thừa, vừa được trẻ hóa, thấp nhất có trình độ văn hóa hết cấp II, trình độ lý luận chính trị sơ cấp và đã được bồi dưỡng, đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn. Trên cơ sở chỉ đạo đó, đội ngũ cán bộ cơ sở sau khi kiện toàn phần lớn là những cán bộ trẻ, có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. Số cán bộ chủ chốt cơ cấu mới gồm 16 bí thư, 15 chủ tịch ủy ban nhân dân, 24 chủ nhiệm hợp tác xã. Qua củng cố, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cơ sở đảng cũng như năng lực quản lý, điều hành của chính quyền xã, thị trấn được nâng cao khá đồng đều.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa V), ngày 29/9/1983, Hội nghị Huyện ủy lần thứ 7 (khóa X) ra Nghị quyết về công tác tư tưởng và tổ chức bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế và xã hội trước mắt. Các cấp ủy tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong thời gian này, việc phổ biến, quán triệt các nghị quyết của Đảng thường gắn với thực hiện tự phê bình và phê bình từ Huyện ủy đến cấp ủy cơ sở, ở tất cả các cấp, các ngành, cả trong cán bộ, đảng viên và công nhân viên chức. Trong đó nội dung tập trung kiểm điểm là về lập trường, quan điểm, tư tưởng và phẩm chất đạo đức cách mạng. Các đợt học tập nghị quyết Đảng thời gian này thường kéo dài từ 3 - 5 ngày. Toàn Đảng bộ được chia làm nhiều cụm xã và cơ quan để tổ chức học tập cho đảng viên, thường là từ 6 - 8 cụm do các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ phụ trách và trực tiếp truyền đạt. Các cụm tổ chức học tập nghị quyết Đảng khá nghiêm túc. Sau khi kết thúc lớp học, mỗi cơ sở đảng về tiến hành sinh hoạt kiểm điểm, liên hệ bản thân. Đồng thời, tổ chức lấy ý kiến góp ý phê bình của quần chúng đối với đảng viên và tổ chức đảng. Trên cơ sở thấu suốt đường lối của Đảng, tạo ra sức mạnh đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ; góp phần giúp cho cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng. Về công tác kiểm tra, các cấp ủy từ Huyện ủy đến cơ sở có sự chuyển biến rõ rệt trong phong cách lãnh đạo có kiểm tra. Thông thường, sau khi quán triệt và nghiên cứu kỹ nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các cấp ủy đề ra chương trình, kế hoạch hành động và phân công, giao nhiệm vụ cho các tổ chức đảng và cán bộ thực hiện.Tuy nhiên, việc kiểm tra và sơ, tổng kết nghị quyết của Đảng thì chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu thể hiện chung qua sơ kết quý hoặc tổng kết năm, ít thực hiện kiểm tra, sơ, tổng kết chuyên đề, nhất là về kinh tế - xã hội. Quán triệt Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 17/1/1984 của Ban Bí thư, Ban Thường vụ Huyện ủy chọn Đảng bộ xã Ninh Hưng và Đảng bộ Xí nghiệp Gạch ngói Ninh Hòa làm thí điểm về kiểm tra việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Sau đó chỉ đạo các cấp ủy đều xây dựng chế độ lãnh đạo có kiểm tra; kiểm tra có chương trình, kế hoạch; sau kiểm tra thường có sơ tổng kết rút kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng. Đảng viên thì tự đề ra kế hoạch thực hiện nhiệm vụ cụ thể theo sự phân công của tổ chức Đảng. Việc thực hiện Chỉ thị 34-CT/TW của Ban Bí thư góp phần đề cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên, góp phần làm giảm tỷ lệ đảng viên có thư tố cáo và đảng viên bị xử lý kỷ luật. Đồng thời, phát huy chức năng quản lý, điều hành của chính quyền, góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đặc biệt, thúc đẩy việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn, đồng bộ và có hiệu quả cao hơn. Kết quả công tác xây dựng Đảng, cuối năm 1985, qua phân loại 74 tổ chức cơ sở đảng có 34 cơ sở được công nhận vững mạnh, chỉ còn 5 cơ sở yếu.
Về công tác quần chúng, Đảng bộ quan tâm xây dựng mối quan hệ gắn bó với quần chúng nhân dân thông qua việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống nhân dân của Đảng và Nhà nước. Để tổ chức các phong trào, phát huy sức mạnh to lớn của quần chúng, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo củng cố, xây dựng mặt trận và các đoàn thể cách mạng vững mạnh. Thông qua đại hội nhiệm kỳ, các đơn vị kiện toàn đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Sau khi Ban Dân vận Huyện ủy được thành lập, công tác quần chúng được các cấp ủy chỉ đạo sát sao, sự phối hợp hoạt động giữa các đoàn thể với nhau và với các cơ quan ban ngành có chất lượng hơn. Thực hiện nghị quyết ngày 29/5/1983 của Ban Thường vụ Huyện ủy về tăng cường công tác quần chúng, các cấp ủy chỉ đạo phát động liên tục các phong trào quần chúng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... Đặc biệt là các phong trào trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, nổi bật là phong trào thâm canh cây lúa, làm thủy lợi, xây dựng các công trình xây dựng cơ bản, kênh mương Đá Bàn. Đầu tháng 12/1983, hưởng ứng mua công trái xây dựng Tổ quốc, chỉ sau vài giờ phát động đã có hàng ngàn người và hầu hết cơ quan, đơn vị có 100% cá nhân đăng ký, tạo nên phong trào mua công trái rầm rộ. Toàn huyện mua với số tiền trên 8,5 triệu đồng, trên 200 tấn thóc và hàng chục con trâu, bò. Tiêu biểu cho phong trào là xã Ninh Hưng, làm nhanh gọn và vượt chỉ tiêu, dẫn đầu toàn huyện và toàn tỉnh. Ninh Hòa cũng là huyện duy nhất trong tỉnh hoàn thành vượt mức chỉ tiêu giao. Kết quả đó không những phản ánh lòng tin đối với Đảng và Nhà nước mà còn phản ánh kết quả các phong trào lao động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả của của nhân dân toàn huyện. Trong phong trào chung, mỗi tổ chức vẫn có phong trào mang sắc thái riêng của mình. Mặt trận Tổ quốc huyện và xã tập hợp đoàn kết các giới, các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách, kế hoạch kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước triển khai trên địa bàn huyện, nhất là tham gia xây dựng Nhà nước thông qua các đợt bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Đoàn thanh niên có các phong trào thanh niên xung kích, “Hành quân theo bước chân những người anh hùng” có hơn 8.000 thanh niên tham gia đóng góp hàng vạn ngày công, làm được hàng chục công trình mang tên “công trình thanh niên”. Ngày 26/4/1983, Huyện Đoàn thành lập Ban Chỉ huy Công trường thanh niên 26/3, đảm bảo số lượng 500 thanh niên thường xuyên có mặt trên công trường kênh mương Đá Bàn. Công đoàn huyện có phong trào thi đua hoàn thành vượt mức kế họach nhà nước, phong trào lao động sáng tạo, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động; xây dựng tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa… Nông dân có phong trào hoàn thành nghĩa vụ nhà nước, thâm canh vượt khoán, phong trào xây dựng nông thôn mới. Phụ nữ có phong trào “người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; phong trào “áo ấm chiến sĩ”; thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, cải cách giáo dục nuôi dạy con theo chương trình hướng dẫn của Trung ương hội... Thông qua các phong trào, mặt trận và các đoàn thể ngày càng được củng cố. “Mặt trận và các tổ chức công đoàn, nông dân tập thể, phụ nữ, đoàn thanh niên, hội chữ thập đỏ, hội y học được chú ý xây dựng rộng khắp và lớn mạnh. Có 152 tổ chức cơ sở đoàn thể thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân”[24]. Có thể nói, những kết quả hoạt động nêu trên đã góp phần xứng đáng vào thành tích chung của toàn huyện. Mặc dù còn có một số hạn chế, khuyết điểm về nội dung và phương thức hoạt động nhưng kết quả đó thể hiện rõ vai trò quan trọng của mặt trận và đoàn thể trong việc tập hợp, tổ chức quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương do Đảng bộ đề ra.
Hơn mười năm sau ngày thống nhất đất nước (4/1975 - 8/1986), cùng cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa, đối với Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa là khoảng thời gian diễn ra nhiều đổi thay to lớn. Vừa mới kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lâu dài, đầy hy sinh, ác liệt đã bắt tay ngay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với bao nhiêu điều mới mẻ chưa từng biết đến. Trong cuộc cách mạng mới này, Đảng bộ và nhân dân toàn huyện đối mặt với những khó khăn, thử thách không kém phần quyết liệt, gay go và phức tạp. Hàng vạn người không có việc làm, đời sống nhân dân thiếu thốn mọi bề, an ninh chính trị và trật tự xã hội diễn biến phức tạp, Mỹ và các thế lực thù địch bên ngoài thì bao vây cấm vận, bên trong chúng tìm mọi cách gây bạo loạn chính trị, lật đổ chính quyền cách mạng, nhân dân chưa thật sự tin tưởng vào chế độ mới. Đây cũng là thời kỳ Ninh Hòa thực hiện quá trình hợp nhất và chia tách huyện theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước. Trước tình hình đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã dũng cảm đi tiên phong, tiếp tục hy sinh, chịu đựng mọi gian khổ, gương mẫu thực hiện mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết giữ vững thành quả của cách mạng. Với bản lĩnh chính trị và truyền thống cách mạng vẻ vang, có đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên trung, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân nêu cao tinh thần tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành được nhiều thành tựu quan trọng, làm thay đổi bộ mặt huyện ngày càng giàu đẹp và tiến bộ.
Đảng bộ đã vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Đồng thời biết phát huy sức mạnh của các đoàn thể quần chúng và vai trò của chính quyền, với chỗ dựa vững chắc là nhân dân để dồn sức tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong từng thời gian. Về nông nghiệp, bằng sức lao động thủ công là chính, nhân dân toàn huyện đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi; khai hoang, phục hóa hàng vạn ha ruộng đất; xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giải quyết cơ bản việc làm cho hàng vạn người sau chiến tranh. Sau hơn 10 năm, từ một huyện thiếu đói đã tự cân đối được lương thực, thực phẩm trên địa bàn và làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Về công nghiệp, trước năm 1975 hầu như không có gì đáng kể, nay đã có hàng chục cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế - xã hội trước đây nghèo nàn, nhỏ bé, nay hoàn toàn thay đổi với quy mô lớn và diện phục vụ rộng hơn nhiều lần. Hàng loạt công trình mọc lên, nổi bật là các công trình về thủy lợi hóa, điện khí hóa, trường học, trạm xá, bệnh viện, công trình văn hóa... Những kết quả đó góp phần quan trọng đẩy lùi mọi khó khăn, làm thất bại âm mưu và kế hoạch “hậu chiến” của các thế lực thù địch trên địa bàn huyện. Đời sống nhân dân dẫu còn nhiều khó khăn nhưng từng bước được nâng lên, bộ mặt nông thôn Ninh Hòa thay đổi, tiến bộ rõ rệt. Đặt trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước bị bao vây cấm vận, lại phải đương đầu với các cuộc chiến tranh biên giới và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt do các thế lực thù địch gây ra mới thấy được ý nghĩa sâu sắc và tầm quan trọng của những kết quả đạt được trong giai đoạn này. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, tình hình kinh tế - xã hội của huyện đang gặp nhiều khó khăn gay gắt. Trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, quá trình xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đã bộc lộ rõ nhiều hạn chế. Hạn chế đó thể hiện rõ nét là sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, giữa cung và cầu. Kết quả sản xuất, kinh doanh của toàn huyện không thể nào cân đối được các nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống xã hội trong huyện theo kế hoạch được giao. Bước đầu tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đều gặp vướng mắc về chính sách, pháp luật. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, bức xúc… Mặc dù còn nhiều hạn chế và khó khăn, nhưng những kết quả đã đạt được trong 10 năm qua là cơ sở để Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa tin tưởng bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ở chặng đường tiếp theo.
[1] Văn kiện đại hội Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN 2005, tập 43, tr.86.
[2] Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 3, tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa (lần thứ 3 sau ngày giải phóng tức là lần thứ 10 kể từ ngày thành lập Đảng bộ huyện).
[3] 5 khâu công việc là: Làm đất, thủy nông, giống, phân bón, phòng chống sâu bệnh; 3 khâu là gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch.
[4] 5 đơn vị quốc doanh là: Xí nghiệp Gạch ngói Ninh Hòa (chuyển từ Xí nghiệp Gạch ngói công tư hợp doanh), Xí nghiệp Muối Diêm Hải, Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc, Xí nghiệp Chế biến nước mắm Ninh Thủy, Xí nghiệp Xây dựng.
[5] Năm 1985: Sản xuất 40.000 công cụ lao động, 13 triệu viên gạch, 7 triệu viên ngói, 700.000 lít nước mắm…
[6] Tháng 12/1984, Công ty Thương nghiệp tách bộ phận dịch vụ ăn uống ra để thành lập Công ty Dịch vụ.
[7] Hệ thống bao gồm 5 công ty quốc doanh, 26 hợp tác xã mua bán, 19 hợp tác xã tín dụng.
[8] Nguồn hàng tạo ra từ liên kết kinh tế và xuất nhập khẩu, gồm: 280 tấn phân hóa học; 10 tấn thuốc sâu; 466 tấn xi măng; 77 tấn xăng dầu; 43 tấn sắt thép; 54 bộ lốp ô tô; 50.000 m vải… Đơn vị giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu lúc đó tính chung gồm cả 2 loại tiền rúp (Liên Xô) và đô la Mỹ.
[9] Ngày 14/9/1985, Hội đồng Nhà nước công bố đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước cũ ăn 1 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước mới.
[10] Năm 1985, thu ngân sách trên địa bàn 33,5 triệu đồng (tiền mới), trong đó ngân sách huyện 11,3 triệu, chi ngân sách 10,8 triệu đồng. Thu tiền mặt 47,5 triệu đồng; huy động vốn tín dụng 7,9 triệu đồng; số dư tiết kiệm 1,8 triệu đồng.
[11] Chỉ riêng công trình Trường cấp III Nguyễn Chí Thanh, huyện đã huy động đóng góp của 20 hợp tác xã nông nghiệp. Tiền cho vay 3 năm, huyện trả lãi suất 3%/năm; cho vay 5 năm trả lãi suất 5%/năm.
[12] Năm 1982 so với 1985, bình quân đầu người/năm tăng: Lương thực từ 237kg lên 308kg; thịt heo hơi từ 8kg lên 11,8kg; nước mắm từ 3,2 lít lên 6,6 lít; cá tươi từ 16,6 lên 23kg; đường trầm từ 6,5kg lên 8,7kg.
[13] Năm 1983, toàn huyện có 40 đội văn nghệ xung kích; sau khi củng cố, năm 1985 còn lại 26 đội.
[14] Đoàn huyện đạt giải nhất toàn đoàn giải điền kinh toàn quốc; dự giải điền kinh quốc tế xếp thứ 6/13 đoàn các nước xã hội chủ nghĩa tham gia.
[15] Năm 1982 có 46 giáo viên dạy giỏi cấp huyện, 11 giỏi cấp tỉnh; đến 1985, có 62 giáo viên dạy giỏi cấp huyện, 20 giỏi cấp tỉnh; một giáo viên được chọn đi thao giảng giáo viên dạy giỏi toàn quốc. Ở bậc phổ thông cơ sở, 10 năm (1975 - 1985), huyện có 12 học sinh giỏi toàn quốc.
[16] Trong 2 năm (1984 - 1985), dân đóng góp được 2,2 triệu đồng và ủng hộ 3,8 lạng vàng.
[17] Năm 1982, số người sốt rét điều trị tại bệnh viện chiếm tới 47% tổng số bệnh nhân, tỷ lệ tử vong chiếm 17,6% so với tổng số tử vong tại bệnh viện; năm 1985, số liệu tương ứng là 24% và 6,4%.
[18] Bình quân, cứ 3,4 người dân có một người đi học, 1.800 người có một bác sĩ, 500 người có một giường bệnh, một năm người dân được khám bệnh 2,5 lần, xem nghệ thuật 13,6 lần.
[19] Đến 1983, toàn huyện có 120 người và gia đình có công; 225 thương binh; 2.755 liệt sĩ.
[20] 10 năm (1975 - 1985) đã ngăn chặn, điều tra, khám phá: 45 vụ nhen nhóm tổ chức phản động, xử lý 592 đối tượng; 363/505 vụ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, xử lý 451 đối tượng; 851/1.356 vụ phạm pháp hình sự, xử lý 457 đối tượng; 256/306 vụ vượt biên với gần 2.186 người, đi thoát 50 vụ với trên 770 người.
[21] Nghị quyết số 06-NQ/HU, ngày 10/1/1984 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1984 và hướng phấn đấu đến năm 1985, tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[22] 25 phòng ban gồm: 1. Ban kế hoạch, trong đó có bộ phận phân vùng quy hoạch; 2. Phòng thống kê; 3. Phòng lao động; 4. Phòng nông nghiệp - lâm nghiệp; 5. Phòng thủy sản; 6. Phòng Thủy lợi; 7. Phòng công nghiệp; 8. Phòng xây dựng; 9. Phòng giao thông vận tải; 10. Bưu điện huyện; 11. Phòng tài chính; 12. Ngân hàng Nhà nước huyện; 13. Phòng Thương nghiệp; 14. Phòng lương thực; 15. Phòng giáo dục; 16. Phòng văn hóa và thông tin; 17. Phòng y tế; 18. Phòng thể dục thể thao; 19. Ban Chỉ huy quân sự huyện; 20. Công an huyện; 21. Phòng tư pháp; 22. Phòng thương binh và xã hội; 23. Ban thanh tra; 24. Ban tổ chức chính quyền; 25. Văn phòng Ủy ban.
[23] Đến 23/7/1985, đồng chí Lê Thanh Bình, Huyện ủy viên về làm Ủy viên thư ký Ủy ban huyện thay đồng chí Nguyễn Văn Thành chuyển công tác khác. Tháng 11/1986, đồng chí Thành về lại làm Ủy viên Thư ký.
[24] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện trình Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 10, tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa. Cuối năm 1985, các đoàn thể huyện gồm: Công đoàn Ninh Hòa có 33 tổ chức cơ sở, 4 tổ chức công đoàn bộ phận với 2.050 đoàn viên; Hội Liên hiệp phụ nữ có 26 tổ chức cơ sở với 35.370 hội viên; Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có 76 tổ chức cơ sở với 4.630 đoàn viên; Hội Nông dân tập thể có 26 tổ chức cơ sở với 33.860 hội viên.