Thành lập Đảng bộ huyện Khánh Ninh
Thực hiện chủ trương hợp nhất các tỉnh nhỏ để lập thành những tỉnh mới với quy mô lớn hơn theo tinh thần Nghị quyết số 247-NQ/TW, ngày 29/9/1975 của Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), ngày 29/10/1975, Ủy ban nhân dân cách mạng Khu trung Trung bộ ra Quyết định số 155 hợp nhất hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên thành tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Phú Khánh. Tại Hội nghị lần thứ nhất từ ngày 20/10/1975 đến ngày 3/11/1975, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Khánh họp cho chủ trương về hợp nhất các huyện trong tỉnh. Ngày 11/11/1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết nghị số 645/QN, chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ huyện Khánh Ninh gồm 16 đồng chí. Ban Thường vụ 5 đồng chí, đồng chí Triết Giang (tức Võ Tòng), Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy lâm thời làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Đình Quế (tức An), Tỉnh ủy viên lâm thời và Nguyễn Tờ (tức Kiên) làm Phó Bí thư Huyện ủy. Ngày 15/11/1975, Ủy ban nhân cách mạng tỉnh Phú Khánh ra quyết định hợp nhất hai huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh thành huyện mới lấy tên là huyện Khánh Ninh; thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Khánh Ninh, đồng chí Nguyễn Đình Quế làm Chủ tịch, đồng chí Trần Tộc (tức Phước), Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm Phó Chủ tịch. Đến tháng 4/1976, tỉnh điều động đồng chí Võ Danh, Tỉnh ủy viên lâm thời về giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thay đồng chí Nguyễn Đình Quế đi học. Cũng thời gian đó, đồng chí Nguyễn Đình Tòng (tức Tư Ốm) về làm Phó Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Tờ chuyển công tác khác. Trụ sở Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Khánh Ninh đặt tại trụ sở cũ Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Ninh Hòa. Sáng ngày 4/12/1975, tại xã Ninh Hiệp, huyện tổ chức cuộc mít tinh công bố thành lập huyện Khánh Ninh. Trên 550 đại biểu của các cơ quan lãnh đạo Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể quần chúng huyện và có đủ các thành phần đại diện cho các xã đã về dự lễ mít tinh biểu thị tinh thần đoàn kết, quyết tâm xây dựng huyện mới phát triển vững mạnh. Sau khi công bố thành lập huyện mới, Huyện ủy chỉ đạo nhanh chóng hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cách mạng ở 2 huyện cũ. Ngày 18/12/1975, Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Khánh Ninh ra Thông báo kết quả hợp nhất 11 phòng, ban chuyên môn trực thuộc Ủy ban huyện. Ngày 22/3/1976, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh ban hành Quyết định số 92/TC, quy định bộ máy chính quyền huyện Khánh Ninh gồm 20 phòng và đơn vị tương đương[1].
Huyện Khánh Ninh khi thành lập có tổng diện tích tự nhiên trên 1.710km2, dân số trên 186.000 người, có 32 xã, 173 thôn. Đến ngày 23/10/1978, huyện có 2 thị trấn là thị trấn Ninh Hòa và Vạn Giã được thành lập theo Quyết định số 268/QĐ-CP của Chính phủ. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ và nhân dân Khánh Ninh gặp nhiều thuận lợi. Hai huyện cũ Ninh Hòa và Vạn Ninh vốn có nhiều đặc điểm tương đồng về điều kiện thiên nhiên và tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội. Vì vậy, khi hợp nhất sẽ tạo cho huyện mới tiềm năng kinh tế lớn để phát triển toàn diện tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... Huyện có trên 28.000ha đất canh tác nông nghiệp; có hơn 122.000 ha rừng và đất rừng với trữ lượng gỗ trên 1,5 triệu m3; trên 146 km bờ biển tạo ra nhiều vịnh, đầm, bãi triều có khả năng phát triển cảng biển, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch như khu vực Hòn Khói, Nha Phu, Vũng Rô, Vân Phong, Đại Lãnh. Đất ven biển có khả năng làm muối lớn nhất tỉnh, có thể lên đến trên 1.000ha. Huyện có nhiều nghề truyền thống rất đa dạng. Đảng bộ và nhân dân 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh vốn gắn bó mật thiết, sát cánh đoàn kết với nhau trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiếntrường kỳ anh dũng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Việc thành lập huyện Khánh Ninh lại diễn ra trong bối cảnh thuận lợi là cả nước thống nhất về mặt Nhà nước. Ngày 25/4/1976 - ngày hội thống nhất non sông, cùng với cử tri cả nước, trên 99,5% cử tri Khánh Ninh phấn khởi đi bầu cử, bầu ra Quốc hội của nước Việt Nam mới. Cuộc bầu cử thắng lợi thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyết tâm của nhân dân toàn huyện cùng với cả nước xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Quốc hội họp kỳ thứ nhất đã quyết định phương hướng xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi cho cả nước nói chung và từng địa phương phát triển. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, Đảng bộ và nhân dân trong huyện gặp nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải nỗ lực rất lớn mới vượt qua. Cả nước thu được nhiều thành tựu trong khắc phục hậu quả chiến tranh nhưng những mất cân đối của nền kinh tế đất nước còn trầm trọng. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội. Thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định. Đời sống của nhân dân lao động thiếu thốn mọi bề. Trong tình hình chung của cả nước, huyện càng gặp không ít khó khăn gay gắt. Nền kinh tế huyện nhỏ, yếu; cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất manh mún nên thu nhập dân cư rất thấp so với nhu cầu tiêu dùng. Tiềm năng của huyện lớn, nhưng kinh nghiệm, trình độ quản lý kinh tế - xã hội của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều mặt yếu kém. Quy mô cấp huyện quá rộng lớn trong khi điều kiện cơ sở vật chất phục vụ quá thiếu so với yêu cầu tối thiểu cần có để chỉ đạo, điều hành những công việc theo chức năng, nhiệm vụ của bộ máy Đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể các cấp. Trước những khó khăn đó, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, nhanh chóng bắt tayvào xây dựng chế độ mới nhưng cũng còn một bộ phận có tư tưởng hoang mang, chưa thật sự tin tưởng váo chính quyền cách mạng. Một số người đãtừng tham gia trong bộ máy quân sự và chính trị của chính quyền cũ không chịu cải tạo, kích động, lôikéo quần chúng, móc nối với nhau và các thế lực thù địch bên ngoài tăng cường chống phá ta quyết liệt. Do đời sống khó khăn và các thế lực trong nước, ngoài nước kích động, dụ dỗ nhân dân vượt biên trốn ra nước ngoài, làm cho tình hình an ninh, trật tự xã hội diễn biến rất phức tạp.
Với thuận lợi và khó khăn nêu trên, quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Trung ương và Tỉnh ủy, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân toàn huyện bước vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị với quyết tâm cao của một huyện mới vừa thành lập.
Ổn định tình hình sản xuất và an ninh chính trị, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Khánh Ninh lần thứ nhất
Ngay vừa được thành lập, huyện gặp rất nhiều khó khăn. Thời tiết hạn hán, lũ lụt thất thường và liên tiếp xảy ra làm mùa màng thất bát. Lúa vụ 12/1975 thiệt hại nặng, riêng ở vùng Tu Bông bị mất trắng; vụ 3/1976 bị ảnh hưởng xấu do rét kéo dài; vụ 8/1976 bị thiệt hại lớn do hạn hán, cuối năm lũ lụt lại tràn về. Do vậy, tình hình lương thực bị thiếu hụt, vùng biển càng khó hơn. Nhiều người dân ngay cả ở vùng lúa như Ninh Thân, Ninh Phụng… phải ra Tuy Hòa đi gặt lúa, róc mía, làm thuê để kiếm sống. Các loại vật tư, thiết bị cần thiết cho sản xuất như xăng dầu, phân bón, phụ tùng thay thế và hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống ngày càng thiếu thốn, đắt đỏ. Giá cả thị trường tăng vọt[2] làm cho sản xuất và đời sống cán bộ, nhân dân hết sức khó khăn, nhất là nhân dân bị dồn trong chiến tranh trở về làng cũ nhưng chưa ổn định nơi ăn, chốn ở nhiều xã như Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Phước… Tình hình kinh tế - xã hội đang khó khăn, căng thẳng thì bọn địch lại gia tăng nhiều hoạt động chống phá trên cả 3 địa bàn vùng rừng núi, vùng đồng bằng và vùng biển. Từ khu vực núi rừng Ninh Lộc, Ninh Hưng kéo dài đến dốc Tân Phong, Đá Bàn, Hốc Chim, Đèo Cả, tàn quân địch lẩn trốn trên núi, trà trộn trong dân móc nối với nhau, tàng trữ vũ khí, lương thực, thuốc men, tập hợp lực lượng để nhen nhóm các tổ chức chính trị phản động. Chúng tuyên truyền, rải truyền đơn, dán khẩu hiệu kêu gọi nhân dân chống lại chính quyền cách mạng, ám sát cán bộ, móc nối vào bên trong nội bộ ta để mua chuộc cán bộ... Bên cạnh đó, tình hình trật tự trị an nổi lên là nạn trộm cướp tài sản, như bắt heo, gà, cắt lúa trộm, nhổ trộm khoai mỳ, bẻ bắp, lấy tiền bạc, tư trang… Trắng trợn, táo bạo hơn là cướp có vũ trang, cướp của giết người, đeo mặt nạ, cải trang, giả dạng bộ đội, công an, cán bộ để lừa đảo[3] gây hoang mang trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống.
Trước tình hình trên, trong nhiều hội nghị Huyện ủy mở rộng đều tập trung bàn kế hoạch và đề ra nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, ổn định tình hình an ninh chính trị. Ngày 16/3/1976, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Chỉ thị số 10-CT/HU về phát động quần chúng truy quét bọn địch còn lẩn trốn và tổ chức phản cách mạng theo tinh thần Chỉ thị ngày 13/3/1976 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Chỉ thị số 10-CT/HU xác định: Tình hình mất an ninh, trật tự trị an xảy ra từ đầu năm 1976 là nghiêm trọng “nếu để kéo dài rất nguy hiểm, sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trước mắt”[4]. Các lực lượng quân sự, công an phối hợp thực hiện 3 đợt truy quét trấn áp phản cách mạng và tội phạm hình sự, phá 22 vụ, trong đó có 10 tổ chức phản động vừa mới nhen nhóm, bắt nhiều tên cầm đầu; phá trên 160 án tội phạm hình sự. Điển hình như các vụ như: Vụ một số sĩ quan, viên chức của chính quyền cũ ở các xã Ninh Phụng, Ninh Thân, Ninh Hiệp… hình thành chi nhánh của “Mặt trận cứu nguy dân tộc Cam Ranh”. Chúng chọn khu rừng Phong Thạnh (xã Ninh Lộc) làm căn cứ để hoạt động. Vụ tên sĩ quan biệt động quân cũ cầm đầu tập hợp một số binh lính cũ ở Ninh Xuân, Ninh Sim… xây dựng “mật khu” trong rừng núi, chôn giấu trên 100 quả lựu đạn, 5 khẩu súng các loại, nhiều kíp mìn, gạo, muối, thuốc tây… để chống phá ta lâu dài. Vụ âm mưu giết cán bộ, cướp vũ khí lên núi gây cơ sở chống phá cách mạng, bắn chết một công an viên tích cực của xã Ninh Đông. Vụ hình thành tổ chức “Thanh thiếu niên yêu tự do - chống cộng sản” ở các xã Vạn Khánh, Vạn Phú, Vạn Lương, gồm hàng chục tên, có trang bị vũ khí súng đạn, điện đàm liên lạc… Khi bị phát hiện, vây bắt, một số tên chạy thoát lên núi tiếp tục chống phá ta. Ngoài ra, một số vụ địch tập hợp thanh niên vào những tổ chức do chúng lập ra để chống phá ta như ở các xã Vạn Phú, Vạn Bình, Vạn Thạnh, Vạn Lương có tổ chức Hoa ba cành gồm 11 thanh niên; ở Ninh Ích có nhóm Thanh niên phục quốc yêu quê hương; ở Ninh Đa có nhóm Thanh niên tự lập… Qua đấu tranh, nhiều tên phản động, đội lốt tôn giáo hoạt động phản cách mạng bị bắt, bị vạch mặt trước nhân dân; các tổ chức do địch cài lại, nhen nhóm hoạt động phần lớn đều tan rã. Đi đôi với việc truy quét, trấn áp phản cách mạng và tội phạm, toàn huyện phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tất cả các xã đều xây dựng và ban hành quy định cụ thể thực hiện 10 điều quy ước nông thôn, được nhân dân tích cực tham gia. Tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội được củng cố, đi dần vào ổn định. Nhân dân phấn khởi, yên tâm lao động sản xuất, công tác và học tập.
Quán triệt Chỉ thịsố 229-CT/TW, ngày 20/1/1976 của Bộ Chính trị (khóa III) về một số chủ trương và công tác cấp bách ở miền Nam, Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ nhất về tình hình, nhiệm vụ mới và phương hướng, mục tiêu kế hoạch năm 1976 của Đảng bộ tỉnh Phú Khánh, Ban Thường vụ Huyện ủy, chỉ đạo mở nhiều hội nghị chuyên đề bàn biện pháp sản xuất lúa vụ 3, vụ 8, và tăng vụ, chuyển vụ. Các hội nghị đã đi sâu kiểm điểm, rút kinh nghiệm từng vụ; trao đổi kỹ thuật canh tác, phân bón… Trước đây nhân dân có tập quán gieo trồng lúa quanh năm, huyện chỉ đạo chuyển thời vụ theo thống nhất lịch gieo trồng trong toàn huyện. Các vùng có điều kiện thì chuyển một vụ lúa thành 2 vụ lúa, tăng nhanh diện tích gieo trồng và thâm canh tăng năng suất ở 2 vụ lúa chính là vụ 3 và vụ 8. Huyện đặc biệt quan tâm biện pháp then chốt nhất là công tác thủy lợi, hàng năm huy động hàng trăm ngàn ngày công làm thủy lợi nhỏ, nạo vét hàng trăm km kênh mương. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong huyện làm mới và tu sửa hàng chục đập nước, trong đó nhiều công trình có ý nghĩa lâu dài.[5] Nhờ đó, toàn huyện chuyển vụ được trên 2.000ha ruộng lúa 1 vụ thành ruộng lúa 2 vụ, tập trung nhất ở 9 xã phía Bắc huyện và vùng Ninh An, Ninh Thọ. Ở vùng lúa được tưới nước của hệ thống đập thủy lợi sông Cái và đập Hòa Huỳnh, nhân dân các xã còn tăng vụ 6 trên 2.700ha. Bên cạnh cây lúa, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tăng nhanh diện tích các cây lương thực khác, chủ yếu là cây mỳ và bắp. Huyện có chủ trương khuyến khích mọi cá nhân và tập thể khai phá ruộng đất hoang hóa để sản xuất theo hướng dẫn của chính quyền và nông hội địa phương. Người có công khai phá, không phân biệt thành phần được quyền sử dụng và thu hoa lợi trên diện tích mình khai phá; được miễn thuế nông nghiệp và nghĩa vụ cho Nhà nước từ 2 - 3 năm; khi nào chia cấp ruộng đất thì được ưu tiên nhận phần chia trên diện tích do mình khai phá. Chủ trương đó đã góp phần đẩy phong trào khai hoang lên trở thành cao trào thi đua sôi nổi. Năm 1976, toàn huyện đã phục hóa, khai hoang đưa vào sản xuất trên 2.300ha, trong đó khai hoang gần 1.770ha. Trên vùng đất mới, đã hình thành 2 vùng kinh tế mới Gia Mỹ (xã Ninh An) và Phú Nhơn (xã Ninh Tân) với trên 1.200 hộ, 6.600 nhân khẩu đến từ các địa phương trong huyện và ở thị xã Nha Trang[6]. Diện tích canh tác nông nghiệp toàn huyện tăng nhanh dẫn đến tình trạng thiếu sức kéo. Huyện chỉ đạo chính quyền các xã quản lý chặt chẽ đàn trâu, bò cày kéo không bị giảm do giết mổ. Đồng thời, tìm mọi cách tự lực khắc phục tình trạng khan hiếm phụ tùng thay thế, huy động và sửa chữa hàng trăm chiếc máy cày. Tuy nhiên, do nhiên liệu khan hiếm, số lượng trâu, bò ít nên sức kéo không vẫn thiếu trầm trọng. Các khâu làm đất, chăm bón, thu hoạch, vận chuyển… vẫn phải dùng sức người với những công cụ lao động thô sơ là chính.
Bằng sự lao động cần cù, chịu đựng vất vả, nhân dân toàn huyện đã vượt qua thử thách đầy gian khổ, mang lại kết quả bước đầu đáng phấn khởi. Trong điều kiện hạn nặng liên tục, nhưng diện tích lúa trong toàn huyện vẫn được cấy hết, đạt gần 18.200ha gieo trồng; năng suất bình quân lúa 2 vụ đạt 31 - 32 tạ/ha/vụ. Sản lượng bắp, mỳ thu hoạch đáng kể, góp phần đưa sản lượng lương thực quy thóc năm 1976 đạt gần 47.300 tấn. Đàn gia súc, gia cầm phát triển nhanh, nhất là đàn heo năm 1976 tăng 50% so với 1975.
Kết quả sản xuất nông nghiệp năm 1976 là thành công bước đầu của chủ trương gieo trồng đúng thời vụ, tăng vụ và chuyển vụ từ ruộng lúa 1 vụ thành ruộng lúa 2 vụ. Kết quả đó đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng làm thay đổi dần tập quán canh tác cũ không còn phù hợp với tình hình mới của nông nghiệp, nông dân trong huyện, góp phần tạo ra sản lượng lương thực, thực phẩm lớn gấp bội so với trước năm 1975. Không những huyện tự lực giải quyết được phần lớn nhu cầu lương thực, không để nạn đói xảy ra mà còn làm được nghĩa vụ đối với Nhà nước. Đặc biệt, đối với xã Ninh Tây - xã miền núi, nhân dân phần đông là 2 dân tộc thiểu số Rắc Lây và Ê Đê. Nghe theo lời Đảng, đồng bào từ chỗ sinh sống du canh, du cư, kinh tế tự cấp, tự túc bằng đốt nương làm rẫy đã định cư, định canh, thành lập các tổ vần đổi công tương trợ lẫn nhau, biết làm ruộng lúa nước. Nhân dân đoàn kết đắp 6 đập nước nhỏ trên các con suối để tưới cho 36ha ruộng lúa do đồng bào vừa mới khai hoang. Kết quả, vụ 8/1976 thu được trên 30 tấn lúa. Lần đầu tiên đồng bào biết làm lúa nước, đây thực sự là một cuộc cách mạng trong đời sống sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số Ninh Tây dưới chế độ mới.
Thực hiện chính sách về ruộng đất của Đảng và Nhà nước, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo sát sao việc chia ruộng đất cho dân sản xuất. Đây là vấn đề cấp thiết đối với nông dân sau ngày giải phóng, nhất là những người chưa có công việc làm ăn ở nông thôn mà chưa có hoặc thiếu đất, trong đó có nhiều người trước đây tham gia ngụy quân, ngụy quyền trong chế độ cũ. Ngày 24/5/1976, Huyện ủy tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt toàn huyện học tập, quán triệt Chỉ thị số 01-CT/TU, ngày 18/11/1975 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc chia công điền và chia ruộng đất của địa chủ cho nông dân. Sau đó, triển khai học tập đến cơ sở và nhân dân. Qua học tập, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy được chính sách đúng đắn, vì dân của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận nhân dân, trong đó có cả cán bộ, đảng viên và gia đình có công với cách mạng không thông suốt về tư tưởng, không đồng tình, có người phản ứng gay gắt với chủ trương chia ruộng đất cho các hộ gia đình có người làm việc cho địch trước đây được hưởng tiêu chuẩn diện tích như những hộ gia đình cách mạng. Đó cũng là sự phản ứng bình thường đối với những người đã có nhiều chịu đựng, hy sinh cho cách mạng. Vì vậy, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo phải kiên trì công tác tư tưởng, động viên, thuyết phục cán bộ, đảng viên và gia đình cách mạng hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó, tiếp tục hy sinh quyền lợi của mình vì sự ổn định và phát triển của quê hương, đất nước. Huyện tiến hành 3 đợt chia: Đợt 1 chia công điền; đợt 2 chia ruộng đất quốc hữu hóa của địa chủ, tư sản; đợt 3, chia ruộng đất quốc hữu hóa của phú nông và công chức cũ phát canh thu tô. Cuối năm 1976, huyện hoàn thành việc chia ruộng đất, chia trên gần 7.650ha[7], chủ yếu là ruộng lúa, chiếm gần 70% tổng diện tích đất canh tác toàn huyện cho trên 26.600 hộ gia đình với hơn 162.400 khẩu. Ngoài ra, còn chia thêm cho nông dân gần 3.000ha đất do các xã và nhân dân tự phục hóa, khai hoang theo chủ trương khuyến khích của huyện.
Kết quả chia ruộng đất cho nhân dân là thành tựu cách mạng xưa nay chưa từng có ở Khánh Ninh, thể hiện sinh động sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với nông dân nói riêng và nhân dân nói chung. Kết quả đó đã góp phần quan trọng củng cố liên minh giai cấp công - nông và khối đại đoàn kết toàn dân, động viên nhân dân phấn khởi tham gia phong trào thi đua lao động, sản xuất trên các lĩnh vực.
Về sản xuất lâm nghiệp, đầu năm 1976, huyện xây dựng 3 vườn ươm (Hòn Khói, Ninh Mã và Xuân Tự), ươm được hàng triệu cây con phục vụ phong trào trồng rừng. Các cấp các ngành phát động phong trào trồng cây gây rừng, được đông đảo các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công nhân viên chức, thanh thiếu niên, học sinh… tham gia trồng trên vùng đất trống, đồi trọc; trồng các hàng cây mang tên các ngày kỷ niệm, các sự kiện quan trọng của địa phương như hàng cây chào mừng đại hội Đảng, kỷ niệm ngày nhập ngũ… Năm 1976, Lâm trường Khánh Ninh được thành lập và bắt đầu khai thác gỗ phục vụ sản xuất và đời sống[8]. Ngoài ra, huyện còn cho phép gần 200 hộ gia đình tham gia kháng chiến có nhà cửa bị địch tàn phá tự khai thác gỗ để làm nhà, ổn định chỗ ở. Công tác bảo vệ rừng cũng được chú ý, có 29/32 xã thành lập ban lâm nghiệp, tổ bảo vệ rừng, góp phần phát hiện và xử lý hàng chục vụ vi phạm lâm luật.
Về sản xuất thủy sản, toàn huyện có trên 2.260 tàu thuyền, trong đó 1.380 chiếc có động cơ với tổng công suất trên 9.000 mã lực, tập trung ở các xã Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Vạn Long, Vạn Giã, Ninh Hải, Ninh Diêm, Ninh Phước. Tuy nhiên, phần lớn tàu thuyền đã cũ, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu nhiên liệu, ngư dân phải trộn dầu lửa với nhớt để chạy máy nên sản lượng đánh bắt không cao. Từ tháng 7/1976 huyện bắt đầu tổ chức thu mua hải sản. Cũng từ đó huyện bắt đầu có sản phẩm tôm xuất khẩu, năm 1976 có số lượng chiếm 50% tổng số tôm xuất khẩu toàn tỉnh. Diện tích đìa nuôi cá, chủ yếu là ở xung quanh đầm Nha Phu được khôi phục và phát triển trên 480 ha, trong đó trên 80 ha vừa mới khai phá. Cuối năm 1976, toàn bộ diện tích đìa được quốc hữu hóa do ủy ban nhân dân các xã quản lý. Ngày 20/1/1976, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Quyết nghị số 14-QN/HU thành lập Ban Chỉ huy chiến dịch công trường muối 3/2 do đồng chí Trần Tộc làm Chính trị viên trưởng; đồng chí Mai Cao Lâu làm Chỉ huy trưởng. Huyện đã huy động hàng ngàn lao động tấp nập về công trường khai hoang, phục hồi số diện tích muối bị bỏ hoang ở khu vực Hòn Khói. Cuối năm 1976, diện tích muối toàn huyện trên 170 ha, sản lượng trên 26.000 tấn. Sản phẩm muối phần lớn đều do Nhà nước thu mua.
Đối với sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, tuy huyện có một số cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhưng đều có quy mô nhỏ bé, kỹ thuật đơn giản như cơ sở sản xuất gạch ngói, chế biến đường thủ công, sản xuất nước đá, mộc dân dụng, xay xát gạo... Huyện đã phục hồi và phát triển một số nghề như sản xuất dầu dừa, đan lát mây, tre lá, sản xuất vôi bột… Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn huyện đã trên 200[9] cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, thu hút cả ngàn lao động, sản xuất được một số sản phẩm như gạch ngói, nông cụ cầm tay, xà phòng, chiếu dệt, đường đen, gỗ xẻ, mộc dân dụng, cơ khí sửa chữa, các loại bánh kẹo, nước đá... Từ đầu năm 1976, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tổ chức lại sản xuất, đưa nhân dân vào làm ăn tập thể. Tổ đoàn kết sản xuất nông nghiệp đầu tiên được hình thành ở xã Ninh An, Ninh Phụng rồi lan rộng ra toàn huyện và các ngành sản xuất khác. Trong nông nghiệp, hàng trăm tổ đoàn kết, tổ vần công, đổi công được lập ra; ngành thủy sản tổ chức được một số tập đoàn sản xuất; ngành tiểu, thủ công nghiệp tổ chức được hàng chục tổ hợp sản xuất, chế biến các mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống. Việc đưa nhân dân vào làm ăn tập thể bước đầu ở trình độ thấp đối với tất cả các ngành sản xuất chính là sự chuẩn bị tích cực cho cán bộ và nhân dân về nhận thức tư tưởng, về cách thức quản lý, điều hành công việc… trên con đường làm ăn tập thể với quy mô lớn, bậc cao hơn trong những năm tiếp theo.
Những kết quả khôi phục và phát triển kinh tế nêu trên đã góp phần làm cho tình hình mọi mặt trong huyện đi vào thế ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo khí thế phấn khởi chuẩn bị bước vào đại hội đảng bộ các cấp lần đầu tiên sau ngày giải phóng.
Quán triệt Chỉ thị 240-CT/TW, ngày 6/10/1976 của Ban Bí thư (khóa III) về kế hoạch tuyên truyền và tổ chức bảo đảm thắng lợi cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, cuối tháng 10/1976, Đảng bộ Khánh Ninh tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ nhất (vòng 1) tại Trường cấp I Ninh Hiệp (nay là Trường Tiểu học số 3 Ninh Hiệp), có 112 đại biểu chính thức thay mặt cho trên 600 đảng viên ở 51 chi bộ trong toàn huyện về dự. Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận các dự thảo văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tư; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Khánh lần thứ nhất. Đồng thời, đề ra một số nhiệm vụ trước mắt đến Đại hội Đảng bộ huyện vòng 2.
Từ ngày 14 đến 20/12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Đại hội xác định đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế của cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta trong giai đoạn mới; đề ra phương hướng, nhiệm vụ đến năm 1980; quyết định đổitên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau hơn 4 tháng kết thúc Đại hội vòng 1, từ ngày 21 đến 26/3/1977, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Khánh lần thứ nhất họp vòng 2. Sau khi kiểm điểm tình hình mọi mặt của tỉnh, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung và các mục tiêu lớn của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980). Xác định nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh trong 2 năm (1977 - 1978), Đại hội nhấn mạnh cần tập trung cải tạo xã hội chủ nghĩa; tổ chức lại sản xuất, phân bổ lại lao động, sắp xếp lại ngành, nghề, hình thành cơ cấu kinh tế tỉnh công - nông nghiệp, xây dựng huyện, thị thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp. Đặc biệt đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội IV của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất, tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện, từ ngày 1 đến 4/7/1977, Đại hội Đảng bộ huyện Khánh Ninh lần thứ nhất họp vòng 2. Dự Đại hội có 108 đại biểu chính thức, vắng 4 đại biểu. Đại hội tập trung kiểm điểm về tình hình và kết quả lãnh đạo của Đảng bộ huyện hơn hai năm sau ngày giải phóng; quyết định phương hướng, nhiệm vụ 2 năm (1977 - 1978); bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa I, nhiệm kỳ 1977 - 1978 gồm 27 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ huyện vào ngày 5/7/1977 đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy 9 đồng chí; bầu đồng chí Triết Giang, Tỉnh ủy viên làm Bí thư Huyện ủy; bầu 2 đồng chí Võ Danh và Nguyễn Đình Quế làm Phó Bí thư Huyện ủy.
Về đánh giá tình hình, Đại hội khẳng định: Trong hơn hai năm sau ngày giải phóng, Đảng bộ đã lãnh đạo quân dân toàn huyện phát huy tính chủ động, sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn, cần mẫn trong lao động sản xuất, giành được những kết quả bước đầu rất quan trọng, trong đó nổi bật nhất là về sản xuất lương thực. Những kết quả đó có ý nghĩa lớn, thể hiện bước đầu sự trưởng thành của Đảng bộ trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội. Chính những kết quả đó đã làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch trên địa bàn huyện. Đại hội cũng chỉ ra nhiều khuyết điểm, tồn tại. Tiềm năng về nông, lâm, ngư nghiệp và ngành nghề trong huyện còn nhiều, chưa được khai thác. Các loại sản phẩm làm ra còn ít số lượng và chủng loại. Việc phân bổ lại lao động, tổ chức lại sản xuất còn chậm; số người thất nghiệp giảm chưa nhiều. Bộ máy chính quyền từ huyện đến xã còn yếu. Các đoàn thể quần chúng còn lúng túng về nội dung công tác và sinh hoạt. Trình độ, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chưa nâng lên kịp với yêu cầu nhiệm vụ mới, lúng túng trong chỉ đạo, điều hành và giải quyết các vấn đề cụ thể. Công tác phát triển đảng viên thiếu quan tâm. Lề lối làm việc và tác phong lãnh đạo còn mang nặng “tính du kích”. Một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, sa sút ý chí chiến đấu, tham ô, thu vén cá nhân; một số có biểu hiện công thần, xa rời quần chúng. Từ thực tiễn của huyện, Đại hội đề ra phương hướng và nhiệm vụ 5 năm (1976 - 1980) của huyện, trên cơ sở đó xác định một số chỉ tiêu quan trọng trong nhiệm kỳ 2 năm (1977 - 1978) là: Khai hoang 2.000ha; sản lượng lương thực quy thóc đạt 68.000 tấn; trồng 600ha mía, 500ha thuốc lá; đàn trâu bò 26.000 con, đàn heo 32.000 con; trồng 4.000ha rừng; đánh bắt hải sản 12.000 tấn (trong đó 200 tấn xuất khẩu), nuôi trồng thủy sản 600 - 800ha; sản xuất 35.000 tấn muối, 1,3 triệu lít nước mắm, 15 triệu viên gạch ngói.
Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất, Huyện ủy mở nhiều hội nghị bàn biện pháp cụ thể thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Một đặc điểm nổi bật trong lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy và Ban Thường vụ Huyện ủy là mọi biện pháp đều hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn để triển khai mọi công việc. Hầu như bất cứ triển khai thực hiện chủ trương nào, huyện cũng đều thành lập tổ, đoàn công tác xuống cơ sở để trực tiếp chỉ đạo. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện phân công các đồng chí Thường trực Huyện ủy, Thường trực Ủy ban nhân dân, Ủy viên Thường vụ và tất cả Huyện ủy viên bám điểm, bám ngành, bám xã; ở cấp cơ sở, các chi ủy viên đi vào từng mũi công tác; đảng viên được phân công đi vào từng việc cụ thể. Tất cả cán bộ, đảng viên được phân công nhiệm vụ cùng chịu đựng gian khổ với cơ sở, với dân để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào. Nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo, đảng viên gương mẫu, xông xáo xốc vác công việc, có cách làm sáng tạo, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp về những năm tháng đầu tiên gian lao sau ngày giải phóng trong lòng dân. Nhờ đó, đã góp phần vào những kết quả chung của Đảng bộ và nhân dân toàn huyện.
Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 (khóa IV) và Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy tháng 8/1977 về nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, Hội nghị Huyện ủy lần thứ 2 (mở rộng) ngày 25/10/1977 ra Nghị quyết về phát triển nông nghiệp 5 năm (1976 - 1980). Nghị quyết xác định sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu, với phương hướng phát triển là: “Đi đôi với thâm canh và tăng vụ trên toàn bộ diện tích, khẩn trương đẩy mạnh khai hoang, tăng nhanh tỷ trọng màu và rau quả, nhanh chóng tự lực và có dự trữ về lương thực, tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển cân đối với trồng trọt, bảo đảm nguyên liệu nông sản cho công nghiệp và tăng nhanh hàng xuất khẩu”[10]. Trong lãnh đạo, chỉ đạo thâm canh, tăng vụ lúa, bên cạnh các biện pháp kỹ thuật như chọn giống, tăng độ màu mỡ cho đất bằng bón thêm phân xanh, phân chuồng, gieo trồng đúng thời vụ, chăm sóc, phun thuốc bảo vệ thực vật theo quy trình…, Huyện ủy xác định biện pháp hàng đầu vẫn là thủy lợi. Hàng năm, toàn huyện huy động hàng trăm ngàn ngày công để tu sửa, đắp mới các đập bổi thời vụ, nạo vét kênh mương, đào vét ao hồ chứa nước. Khi thời tiết gây ra nắng hạn, nhân dân còn đào hàng trăm giếng nước, huy động tất cả máy bơm các loại và sức người để bơm tát chống hạn, cứu lúa. Có năm như 1977, vụ 8 bị hạn nặng nề, nhờ sức người bền bỉ chống hạn mà đã cứu trên 1.100ha lúa, hạn chế mức thiệt hại thấp nhất do hạn gây ra. Từ năm 1976 - 1978, trên địa bàn huyện xây dựng một số đập thủy lợi kiên cố, lâu dài. Đặc biệt, ngày 4/4/1977, tỉnh khởi công xây dựng hồ chứa nước Suối Trầu (xã Ninh Xuân). Công trình này sau khi hoàn thành sẽ chủ động nước tưới cho trên 1.000ha 2 vụ lúa ở khu vực Ninh Hòa. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lớn đối với sản xuất nông nghiệp. Huyện thành lập Ban Chỉ huy công trường, liên tục huy động hàng ngàn nhân công có mặt thường xuyên trên công trường, lúc cao điểm nhất trên 7.000 người. Quyết tâm hoàn thành công trình trước mùa mưa lũ năm 1977, ngày 20/9/1977, Ủy ban nhân dân huyện ban hành Lệnh số 10 gấp rút điều động dân công phục vụ công trường Suối Trầu. Mỗi xã thành lập ban chỉ huy do đồng chí phó chủ tịch ủy ban nhân dân xã phụ trách và trực tiếp điều hành lao động. Sau 3 ngày phát Lệnh điều động, sáng 23/9/1977, hàng ngàn lao động được các xã phiên chế theo đơn vị tiểu đội, trung đội, tiểu đoàn… đã có mặt trên công trường, bắt tay vào việc ngay. Khối lượng công việc còn lại đã được giải quyết nhanh chóng, công trình cơ bản hoàn.
Công trình hồ chứa nước Suối Trầu là biểu hiện sinh động tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để giành thắng lợi của nhân dân Khánh Ninh trong những ngày đầu tiên kiến thiết quê hương, đất nước. Huyện đã huy động sức người lớn nhất từ sau ngày giải phóng, bằng lao động chân tay là chủ yếu, với những công cụ lao động thủ công, thô sơ như cuốc, xẻng, quang gánh…, chỉ sau hơn 7 tháng thi công, công trình đã được hoàn thành, so với kế hoạch 2 năm thì về trước gần một năm rưỡi. Tuy nhiên, do đập đắp chủ yếu bằng lao động thủ công và nhiều lý do kỹ thuật khác, ngay mùa lũ năm 1977 và 1978, thân đập và nhiều đoạn kênh mương cấp I, II bị sạt lở phải mất nhiều công sức để tu sửa, gia cố. Những năm sau đó, công trình thủy lợi hồ Suối Trầu ổn định dần, phát huy tốt tác dụng, ngày nay còn trở thành một điểm đến của nhiều khách du lịch.
Cùng với thâm canh, Huyện ủy coi trọng công tác khai hoang mở rộng diện tích. Ngày 18/8/1977, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Quyết nghị số 235-QN/HU thành lập Ban Chỉ huy khai hoang huyện và chỉ đạo phát động nhiều chiến dịch khai hoang tập trung như chiến dịch Đông - Xuân, chiến dịch Hè - Thu… Mỗi chiến dịch huy động nhiều đợt luân phiên lực lượng lao động các xã và cơ quan huyện lên công trường. Mỗi đợt huy động trung bình từ 2.000 - 3.000 người trong thời gian 10 ngày. Chiến dịch rầm rộ nhất, đông người nhất là chiến dịch khai hoang Xuân 1979 tại Hòa Sơn (Gia Mỹ). 6 giờ 30 phút ngày 3/2/1979, trên 4.000 lao động của 30 xã có mặt trên công trường khai hoang đã làm lễ mít tinh chào mừng 49 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/1979) và làm lễ xuất quân. Ngày 16/2/1978 Ủy ban nhân dân tỉnh bàn giao Công trường khai hoang Đá Bàn; ngày 18/4/1978, bàn giao tiếp điểm kinh tế mới Đá Bàn cho huyện quản lý. Lúc này trên Công trường khai hoang Đá Bàn có số lượng lao động thường xuyên, chủ yếu là thanh niên xung phong trên 470 người. Kết quả các chiến dịch khai hoang đã góp phần đưa tổng số diện tích khai hoang toàn huyện trong 3 năm (1976 - 1978) trên 7.370ha. Trên cơ sở đó, bước đầu huyện bố trí, phân bổ lại lao động trên địa bàn. Toàn huyện đã vận động và đưa gần 1.200 hộ, trên 6.160 nhân khẩu từ các xã có mật độ dân số cao như thị trấn Ninh Hòa, thị trấn Vạn giã, Ninh Quang, Ninh Hưng, Ninh Đa, Ninh Phụng, Ninh Giang, Ninh Thân, Ninh Bình, Ninh Hà, Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Vạn Phú… lên các vùng kinh tế mới như Gia Mỹ (Ninh An), Hòn Dứa (Vạn Phú), Hòn Ngang (Ninh Quang)... Đặc biệt, huyện tiếp nhận hơn 1.500 hộ, 8.650 nhân khẩu từ Nha Trang đến để hình thành 2 khu kinh tế mới ở Phú Nhơn và Ninh Trang. Từ Khu kinh tế mới Phú Nhơn, năm 1976, xã Ninh Tân được thành lập. Còn Khu kinh tế mới Ninh Trang về sau được sát nhập vào xã Ninh Thượng. Ngoài ra, theo chủ trương “trài dân” của huyện, có hàng trăm hộ dân đi khai hoang ở các vùng đất ven rừng núi ở Ninh Tân, Ninh Sim, Ninh Xuân, Ninh Thượng, Ninh Ích, Ninh Quang, Vạn Lương...
Để đưa diện tích đã khai hoang vào sản xuất kịp thời vụ, trong 2 năm 1977 - 1978, huyện mở các chiến dịch trồng màu. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Huyện ủy tháng 6/1977, Ủy ban nhân dân huyện ra Chỉ thị số 15/CT-UB, ngày 30/6/1977 về gấp rút thực hiện chiến dịch trồng màu. Chỉ trong một thời gian ngắn toàn huyện đã trồng trên 1.500ha, chủ yếu là mỳ. Cao trào là chiến dịch trồng màu quyết thắng bá quyền Trung Quốc theo Nghị quyết ngày 21/7/1978 của Ban Thường vụ Huyện ủy. Chiến dịch này diễn ra từ ngày 7 đến 31/8/1978, chia làm nhiều đợt, mỗi đợt trên dưới 10 ngày. Toàn huyện đã huy động hàng ngàn người ở các xã, có cả hàng trăm giáo viên, học sinh cấp III, cán bộ công nhân viên, thanh niên xung phong… lên các khu vực kinh tế mới trồng mỳ, bắp, đậu đỗ. Lực lượng từng đơn vị, từng ngành được tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn; bên dưới cứ 15 - 20 người thành một tổ, đội sản xuất, có đảng viên, đoàn viên làm nòng cốt.
Những năm đầu sau giải phóng, trên các vùng đất khai hoang hầu hết được phủ một màu xanh của hoa màu. Kết quả thu hoạch đã góp phần giải quyết được vấn đề thiếu lương thực và ổn định được tình hình mọi mặt trong huyện. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế không cao, về sau này nhiều vùng khai hoang bị bỏ hoang hóa, không những đã mất rừng mà còn để lại hậu quả xấu về môi trường, sinh thái mà lúc đó chưa lường hết được.
Cùng với phát triển sản xuất, Đảng bộ lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất. Ngày 1/8/1977, Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 27-CT/TU về việc làm thí điểm cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 4/8/1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV). Chỉ thị nêu rõ: “Lấy xã Hòa Bình và huyện Tuy Hòa làm nơi thí điểm của tỉnh, các huyện Cam Ranh (lấy xã Cam Tân), Diên Khánh (lấy xã Diên An), Khánh Ninh (lấy xã Ninh Quang), Xuân An (lấy xã Xuân Sơn), mỗi huyện thí điểm ở một xã”. Trước khi thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TU, tháng 5/1977, huyện cử một đoàn cán bộ tham gia đoàn của tỉnh đi học tập kinh nghiệm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình; cử một số cán bộ đi học về quản lý hợp tác xã khóa I tại Trường Hợp tác hóa của tỉnh và một số cán bộ khác đi học lớp bồi dưỡng kỹ thuật nông nghiệp do Ty Nông nghiệp tổ chức. Đầu tháng 7/1977, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 179-KH/HU về tiến hành đợt I xây dựng hợp tác xã điểm Ninh Quang; thành lập Ban Vận động cải tạo nông nghiệp huyện do đồng chí Triết Giang, Bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban. Ủy ban nhân dân huyện thành lập Tổ Chỉ đạo điểm do đồng chí Trần Thị, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Tổ trưởng. Ở xã Ninh Quang, thành lập Ban Vận động cải tạo nông nghiệp xã do đồng chí Bí thư Chi bộ xã làm Trưởng ban. Tổ Chỉ đạo huyện và Ban Vận động của xã hợp lại làm một đoàn và tổ chức thành 5 tiểu ban[11]. Ngoài ra, tỉnh còn cử một số cán bộ có kinh nghiệm về giúp huyện chỉ đạo xây dựng hợp tác xã. Cuối tháng 7/1977, Ban vận động huyện chỉ đạo triển khai việc học tập, quán triệt chủ trương, đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng; Điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao; một số chính sách đối với hợp tác xã thí điểm cho trên 1.550 hộ trong toàn xã. Qua học tập, tư tưởng phần lớn nông dân không đồng tình vào hợp tác xã, trong đó có một số cán bộ, đảng viên. Người vừa mới được chia ruộng đất, đang vui mừng phấn khởi có ruộng làm ăn, nay lại đưa vào hợp tác thì băn khoăn, lo lắng. Người có ruộng, có tư liệu sản xuất như trâu bò, máy móc, cày, bừa, máy bơm… là tài sản riêng của gia đình tích lũy khổ cực mới có, nay cũng hóa giá đưa vào sử dụng chung thì ấm ức, bất mãn, nhiều người phản ứng gay gắt, trong đó có cả những gia đình có công với cách mạng. Người không có nhiều sức lao động, ăn chia theo công điểm đời sống sẽ khó khăn. Người nghèo lâu nay làm thuê mướn sống hàng ngày, vào hợp tác xã đến mùa vụ mới được chia sản phẩm lại lo lắng trước mắt không có ăn… Những băn khoăn lo lắng đó không chỉ xuất hiện ở Ninh Quang mà là phổ biến trong toàn huyện khi triển khai hợp tác hóa đại trà. Ban Thường vụ Huyện ủy xác định đây là một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt “ai thắng ai” giữa hai con đường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản nên chỉ đạo phải kiên trì vận động, giải thích, thuyết phục. Những cán bộ có kinh nghiệm vận động quần chúng trong kháng chiến trước đây, một lần nữa đi tiên phong, ngày đêm vận động phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Sau nhiều lần phát động, thuyết phục, có thôn họp dân 5 - 6 đêm liền, cán bộ đến từng hộ tư tưởng chưa thông, phản ứng mạnh để vận động, thuyết phục… dần dần phần lớn các hộ đều đăng ký và thống kê tư liệu sản xuất để tập thể hóa đưa vào hợp tác xã. Đi đôi với quá trình học tập, vận động vào hợp tác xã, các tiểu ban triển khai công tác quy hoạch, kế hoạch sản xuất năm 1978; lập các quy trình sản xuất, quy trình kỹ thuật cây trồng, vật nuôi và các định mức kinh tế - kỹ thuật… Tất cả các quy hoạch, kế hoạch, phương án đều được đại hội đại biểu xã viên thảo luận và quyết định thông qua.
Ngày 13/10/1977, Ủy ban nhân dân cách mạng huyện có văn bản đề nghị và được Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh cho phép xã Ninh Quang thành lập và lấy tên là Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp Ninh Quang. Sau khi thành lập, Hợp tác xã hoạt động theo Điều lệ Hợp tác xã nông nghiệp và điều hành sản xuất vụ 3/1978. Với khí thế mới và lạ của kinh tế tập thể, được chuẩn bị chu đáo nên mặc dù cả 2 vụ lúa chính năm 1978 bị rầy nâu phá hoại nhưng vẫn bội thu, năng suất đạt 49 tạ/hécta/vụ. Năng suất đó là cao nhất so với trước đây và hơn hẳn năng suất của nông dân còn làm ăn cá thể. Không những giá trị ngày công và thu nhập của xã viên tương đối cao mà tập thể còn có tích lũy bước đầu, xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật, góp phần thúc đẩy các phong trào trong xã phát triển mạnh hơn trước.
Hợp tác xã Ninh Quang trở thành con chim đầu đàn trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của huyện, và là một trong những hợp tác xã nông nghiệp điển hình của toàn tỉnh lúc bấy giờ. Kết quả thí điểm hợp tác hóa ở xã Ninh Quang là thực tế thuyết phục nhân dân trong huyện đi vào con đường làm ăn tập thể.
Đồng thời với chỉ đạo thí điểm xây dựng hợp tác xã ở Ninh Quang, ngày 23/7/1977, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành kế hoạch phát động cao trào xây dựng tập đoàn sản xuất nông nghiệp trong toàn huyện. Qua thực hiện, cũng như ở Ninh Quang, tư tưởng nhân dân chưa thông suốt nên kết quả vận động chưa đạt yêu cầu. Ngày 19/9/1977, Huyện ủy ra Nghị quyết số 281-NQ/HU về tập trung xây dựng tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thực hiện quyết liệt, phân công các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ trực tiếp chỉ đạo phong trào; thành lập nhiều tổ công tác với sự tham gia của các ban ngành, đoàn thể của huyện tổ chức nhiều đợt, nhiều ngày liên tục xuống cùng cơ sở vận động. Quá trình vận động, các cấp ủy, chính quyền cơ sở và cán bộ sử dụng nhiều hình thức vận động thuyết phục, một số nơi có cả biện pháp hành chính đối với những hộ chưa thông suốt. Đến tháng 4/1978 hầu hết nông dân trong huyện đều bước vào làm ăn tập thể dưới hình thức tập đoàn sản xuất, tạo tiền đề để tiến tới thành lập hợp tác xã.
Quán triệt Chỉ thị số 43-CT/TW tháng 14/4/1978 của Bộ Chính trị (khóa IV) về nắm vững và đẩy mạnh công tác cải tạo nông nghiệp ở miền Nam, Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 5 (khóa I) về đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp, mở rộng phong trào xây dựng hợp tác xã, trên cơ sở kết quả phong trào xây dựng tập đoàn sản xuất và xây dựng thí điểm hợp tác xã, Hội nghị Huyện ủy ngày 8/6/1978 đã quyết định triển khai xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc cao trong toàn huyện. Trong quá trình thực hiện, việc xây dựng hợp tác xã gặp nhiều khó khăn. Tuy phần lớn nông dân ủng hộ nhưng một bộ phận nông dân tư tưởng vẫn chưa nhất trí, phản ứng bằng nhiều cách như xẻ thịt trâu bò, bán nhanh máy móc, giấu bớt diện tích ruộng đất… Các phần tử thù địch lại kích động, cổ vũ chống lại chủ trương, chính sách hợp tác hóa. Một số người đã tập thể hóa tư liệu sản xuất, ký đơn vào hợp tác xã nhưng vẫn cản trở không cho cày, bừa trên ruộng đất trước đó là của mình một cách quyết liệt. Bằng vận động, thuyết phục liên tục, dần dần các biểu hiện tiêu cực của nông dân giảm hẳn. Sau Ninh Quang, khi triển khai đại trà thì các xã Vạn Phú, Ninh Bình, Ninh Đông, Ninh Đa, Ninh Tân… là những xã thành lập được hợp tác xã nông nghiệp sớm nhất, tạo đà cho phong trào hợp tác hóa dâng cao trong toàn huyện. Đến tháng 3/1979, toàn huyện đã cơ bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, tổng số 40 hợp tác xã (gồm nông nghiệp, nông - lâm nghiệp, nông - diêm nghiệp và hợp tác xã muối), thu hút trên 97% số hộ nông dân vào hợp tác xã. Trong đó, khu vực Ninh Hòa có 29 hợp tác xã, điển hình là Ninh Quang; khu vực Vạn Ninh có 11 hợp tác xã, điển hình là Vạn Phú. Bên cạnh kinh tế tập thể, trên địa bàn huyện hình thành các đơn vị sản xuất nông nghiệp quốc doanh đầu tiên của tỉnh là Nông trường Dứa Dục Mỹ, Xí nghiệp Muối Diêm Hải; đơn vị đầu tiên của Huyện là Trại Heo giống cấp II tại xã Ninh Hưng, quy mô 150 nái cơ bản.
Kết quả thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, nhất là về hợp tác hóa đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp có bước phát triển mới khá rõ nét về cả diện tích, năng suất, sản lượng cây trồng. Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1977 vẫn đạt trên 46.500 tấn; năm 1978 gần 56.500 tấn, cơ bản giải quyết được nhu cầu lương thực trên địa bàn huyện. So với mục tiêu đề ra thì “Thắng lợi về phát triển sản xuất nông nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp là thắng lợi lớn nhất của huyện ta trong hơn 2 năm qua”[12]. Tuy nhiên, kết quả hợp tác hóa trong nông nghiệp chỉ phát huy ưu điểm, đạt thắng lợi trong một vài vụ đầu. Về sau dần dần bộc lộ nhiều khó khăn, bất cập và hạn chế. Do phong trào phát triển rất nhanh, chỉ trong thời gian chưa đầy 20 tháng, toàn huyện đã cơ bản hoàn thành xây dựng hợp tác xã bậc cao nên không tránh khỏi khuyết điểm. Phổ biến là tư tưởng chạy theo thành tích, chủ quan, nóng vội, nhận thức giản đơn rằng cứ hình thành được hợp tác xã là đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, biện pháp thường áp đặt, dồn ép nông dân vào hợp tác xã, tính tự nguyện chưa cao. Việc xác định giá tư liệu sản xuất và trả hoa lợi cho dân không thỏa đáng đã để lại nhiều phức tạp về tư tưởng. Trình độ sản xuất còn lạc hậu nhưng quy mô hợp tác xã thì quá lớn, quá sức quản lý của đội ngũ cán bộ. Phương hướng sản xuất của nhiều hợp tác xã chưa được xác định hoặc có xác định nhưng chưa trúng; mục tiêu đề ra có phần duy ý chí; cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngành nghề nhiều nơi bố trí chưa phù hợp với đất, nước, thời tiết, tập quán canh tác… Cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật của mô hình hợp tác xã bậc cao được đầu tư, xây dựng còn quá ít so với yêu cầu phục vụ sản xuất. Sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền gặp nhiều lúng túng. Những khó khăn nêu trên ngày càng tác động mạnh đến sản xuất dẫn đến năng suất lao động tập thể không cao, thu nhập của xã viên thấp. Những biểu hiện tiêu cực xuất hiện và lan rộng ở nhiều nơi như tham ô, ức hiếp dân, lấn chiếm đất đai của tập thể làm của riêng… Một số hợp tác xã sau khi thành lập một thời gian ngắn đã gặp nhiều khó khăn, xã viên bộc lộ tư tưởng chán nản đối với tập thể.
Đối với ngành thủy sản, từ cuối năm 1977, bà con ngư dân được đưa vào con đường làm ăn tập thể, xây dựng hàng chục tập đoàn sản xuất nghề cá, mỗi tập đoàn trên dưới 100 lao động. Hệ thống dịch vụ nghề cá dần dần được hình thành như bến cá, tổ chức chế biến, các trạm hải sản… Các tập đoàn tổ chức các chiến dịch đánh bắt tập trung theo thời vụ cá, tuy nhiên, tính chất kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa không thể hiện rõ, thực chất hoạt động của tập đoàn sản xuất vẫn là kinh tế hộ. Thời gian này, sản xuất nghề cá gặp nhiều khó khăn, nhất là xăng dầu, ngư lưới cụ, phụ tùng máy móc nên số lượng tàu ra khơi, số ngày hoạt động của tàu thuyền và sản lượng đánh bắt đạt thấp. Năm 1978, toàn huyện chỉ đạt 5.000 tấn. Về nuôi trồng thủy sản, hầu hết diện tích đìa đều chuyển sang hợp tác xã nông nghiệp quản lý. Ngoài ra, huyện phát động phong trào “Ao cá Bác Hồ” nuôi cá nước ngọt. Tuy nhiên, việc đào ao nuôi cá không mang lại hiệu quả kinh tế vì không phù hợp với tình hình thực tế địa phương nên phong trào mất dần. Trong nghề sản xuất muối cũng được tổ chức lại sản xuất. Ninh Hải là xã đầu tiên thành lập Hợp tác xã sản xuất muối 19/5, đưa hầu hết diêm dân vào làm ăn tập thể. Đầu năm 1977, huyện mở chiến dịch khai hoang ruộng muối, huy động hàng ngàn công lao động, chỉ trong 15 ngày đã khai hoang đưa vào sản xuất thêm 40ha, nâng diện tích muối lên trên 210ha. Tuy nhiên, sản xuất muối phụ thuộc vào thời tiết nên sản lượng hàng năm không ổn định[13], đời sống diêm dân gặp nhiều khó khăn.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lâm nghiệp, huyện chỉ đạo từng bước cải tạo lực lượng khai thác cơ giới, chế biến gỗ tư nhân. Bước đầu là tổ chức hoạt động gia công cho Nhà nước, về sau cải tạo chuyển thành tổ hợp tác hoặc hợp tác xã khai thác, chế biến lâm sản theo kế hoạch của Nhà nước. Cuối năm 1978, ngoài Lâm trường quốc danh, huyện có 2 xí nghiệp hợp tác khai thác và chế biến gỗ, 1 tổ hợp tác chế biến gỗ góp phần mỗi năm khai thác trên 10.000m3 gỗ và gần 17.000 ster củi. Đi đôi với khai thác rừng, huyện quan tâm công tác trồng và bảo bệ rừng. Năm nào các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, trường học cũng phát động phong trào trồng rừng. Từ năm 1977 - 1978, Lâm trường huyện và nhân dân toàn huyện trồng trên 2.000ha rừng. Tuy nhiên, việc chăm sóc, bảo vệ cây trồng mới không tốt nên tỷ lệ cây sống rất thấp như năm 1977 chỉ đạt 15%.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Huyện ủy tháng 6/1977, Ủy ban nhân dân huyện ban hành kế hoạch cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh, với tinh thần: Trong hai năm 1977 - 1978 phải hoànthành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo, trước hết là xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa; đồng thời tổ chức lại các ngành, nghề quan trọng trong tiểu công nghiệp, sắp xếp và chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất. Ngay từ cuối năm 1976, sau khi được học tập chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các hộ công, thương nghiệp đã thực hiện việc kê khai, đăng ký sản xuất kinh doanh. Toàn huyện có gần 1.700 hộ và cơ sở tư doanh công, thương nghiệp khai trình và đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh, tập trung ở Ninh Hiệp, Ninh Phụng, Ninh Sim, Vạn Giã, Tu Bông. Trong đó, số hộ tư doanh thương nghiệp là 1.200 hộ[14]. Tư doanh tiểu, thủ công nghiệp có trên 500 hộ và cơ sở sản xuất với trên 40 ngành nghề[15]; phương tiện vận tải gần 390 chiếc xe các loại. Nhìn chung việc kê khai, đăng ký kinh doanh “được tiến hành một cách nhẹ nhàng, thoải mái nhưng giữ được nguyên tắc, đảm bảo được yêu cầu…”[16]. Tuy nhiên, có nhiều hộ không nhất trí chủ trương cải tạo, trốn chính sách, đầu cơ, tích trữ, không chịu sự quản lý của Nhà nước. Việc xác định “trọng hộ” có thiếu sót, một số hộ xác định không đúng so với thực tế nên tư tưởng họ không thông suốt trở nên bất mãn với chế độ, cá biệt có người sau này chống phá hợp tác xã.
Tiến hành cải tạo tiểu, thủ công nghiệp tư doanh, huyện trưng thu, trưng mua 2 xí nghiệp nước đá và 1 cơ sở chế biến đường đưa vào quốc doanh; xây dựng 5 xí nghiệpcông tư hợp doanh sản xuất gạch ngói, chế biến đường…; 11 hợp tác xã và hàng chục tổ hợp tác sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Nhiều hợp tác xã sản xuất có hiệu quả, phát huy tác dụng phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống như Hợp tác xã Cơ khí thị trấn Ninh Hòa, Hợp tác xã Cơ khí tàu thuyền Vạn Ninh. Cùng với hình thành kinh tế tập thể sản xuất tiểu thủ công nghiệp, trên địa bàn huyện còn hình thành kinh tế quốc doanh sản xuất công nghiệp như Xí nghiệp Gạch ngói Ninh Xuân, Nhà máy Muối bột Ninh Diêm, Nhà máy Xi măng Hòn Khói, 2 chi nhánh điện Ninh Hòa và Vạn Ninh. Năm 1978, đường dây 35kv Nha Trang - Ninh Hòa - Hòn Khói hoàn thành, huyện có điện lưới quốc gia từ đó. Việc hình thành các đơn vị kinh tế tập thể và quốc doanh nêu trên góp phần quan trọng mở đường cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện phục hồi và phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm xã hội với sản lượng lớn hơn nhiều lần so với trước năm 1975, trong đó có nhiều sản phẩm mới. Đặc biệt, với nguyên liệu mây tre lá có sẵn, huyện đã làm ra được những sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Đồng thời, giải quyết được việc làm cho hàng ngàn lao động sau chiến tranh, riêng các đơn vị kinh tế tập thể giải quyết cho trên 3.000 lao động, góp phần ổn định tình hình mọi mặt trong huyện.
Trên lĩnh vực giao thông vận tải, trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa huyện trưng thu, trưng mua 30 xe; công tư hợp doanh 110 xe tải và xe khách; xây dựng 2 hợp tác xã vận tải và cơ giới. Các loại phương tiện giao thông thô sơ như xe xích lô máy, xe ba gác, xe ngựa được tổ chức thành các tổ hợp tác. Cùng với việc tổ chức lại hoạt động vận tải, huyện tập trung tu sửa đường giao thông. Hầu hết các con đường trong huyện đều là đường đất, đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Vì vậy, sản xuất, lưu thông hàng hóa, sinh hoạt đời sống, kể cả việc chỉ đạo, liên lạc giữa các cấp thông qua công văn, giấy tờ lúc đó chủ yếu vận chuyển bằng xe đạp… đều gặp khó khăn. Huyện chỉ đạo phát động phong trào nhân dân tu sửa lại đường sá nối thông suốt các xã, các vùng kinh tế mới với quốc lộ, tỉnh lộ[17]. Thời gian đầu sau giải phóng chưa có ai quản lý, hướng dẫn nên các hoạt động vận tải tự do, tùy tiện tăng giá, thường xuyên xảy ra xô xát, chèn ép nhau tranh giành hàng hóa, hành khách, vi phạm luật lệ giao thông, gây mất an ninh, trật tự. Từ tháng 7/1976, Ty Giao thông bắt đầu tổ chức quản lý, sắp xếp lại bến bãi đỗ xe, trong đó thành lập 2 bến xe khách liên huyện tại thị trấn Ninh Hòa và Vạn giã; đưa các chủ phương tiện vào tổ chức công đoàn sinh hoạt. Vì vậy trật tự, an toàn giao thông được lập lại, từng bước đi vào nền nếp theo chính sách pháp luật.
Trong khi cải tạo tiểu, thủ công nghiệp tư doanh có nhiều kết quả thì tình hình thực hiện cải tạo thương nghiệp tư doanh chuyển biến rất chậm. Ngoài 2 cửa hàng[18] quốc doanh thành lập từ năm 1975, đến đầu tháng 4/1976, có thêm một số cửa hàng cung ứng vật tư, nhiên liệu; tháng 5/1976, huyện xây dựng thí điểm 2 hợp tác xã mua bán ở xã Ninh Thân và Vạn Lương. Từ thành công làm thí điểm, huyện chỉ đạo nhân kết quả ra đại trà. Một năm sau, phát triển lên 28 hợp tác xã mua bán ở 32 xã. Đó là những đơn vị đầu tiên của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu của thương nghiệp là mua các sản phẩm sản xuất trong huyện; bán phân phối từng mặt hàng tiêu dùng thiết yếu theo tiêu chuẩn cho các đối tượng được hưởng chế độ theo quy định của Nhà nước trên địa bàn huyện[19]. Riêng về nhiệm vụ bán phân phối lương thực thì giao cho Phòng Lương thực huyện đảm nhận từ năm 1975. Bên dưới phòng lương thực là các cửa hàng lương thực. Tuy nhiên, lực lượng và tiềm lực của thương nghiệp Nhà nước và tập thể quá mỏng, số lượng cũng như chủng loại mặt hàng thu mua vào tay Nhà nước quá ít nên lực lượng thương nghiệp tư doanh vẫn làm chủ thị trường trong huyện. Đây là khâu yếu trong nền kinh tế của huyện lúc đó, cần phải được quan tâm, tập trung củng cố, xây dựng. Trước tình hình đó, ngày 20/4/1978, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Quyết định số 111-QĐ/HU thành lập Ban Chỉ đạo chiến dịch cải tạo thương nghiệp tư doanh do đồng chí Nguyễn Thặng, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Trưởng ban. Công tác cải tạo thương nghiệp bắt đầu làm thí điểm các ngành hàng thiết yếu ở chợ Ninh Hòa. Ban quản lý chợ sắp xếp gần 300 hộ buôn bán thành 8 quầy hàng; mỗi quầy hàng chia ra nhiều tổ. Từ kết quả và kinh nghiệm làm thí điểm, huyện triển khai ra đại trà. Quá trình thực hiện gặp rất nhiều khó khăn do phản ứng và đối phó của các hộ tư doanh. Tuy nhiên, nhờ tăng cường công tác quản lý thị trường và chỉ đạo rất quyết liệt nên đến cuối năm 1978, huyện đã cơ bản hoàn thành cải tạo tư doanh thương nghiệp, sắp xếp lại kinh doanh cho trên 2.200 lao động. Gần 1.300 lao động xét không đủ điều kiện kinh doanh thì động viên chuyển sang sản xuất ở những ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, nông nghiệp hoặc đi vùng kinh tế mới. Đồng thời với việc xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, huyện xây dựng mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa gồm Công ty Mậu dịch tổng hợp, 12 cửa hàng quốc doanh, 33 hợp tác xã mua bán ở các xã… Với mạng lưới đó, hoạt động phân phối lưu thông trên địa bàn huyện bước đầu chuyển từ thị trường tự do trước đây sang thị trường xã hội chủ nghĩa. Quá trình hình thành mạng lưới thương nghiệp có điều kiện thuận lợi là Nhà nước thực hiện việc thống nhất tiền tệ trong cả nước. Từ ngày 2 đến 10/5/1978, trên địa bàn huyện đã hoànthành công tác thu đổi tiền lần thứ 2 theo Quyết định số 87-QĐ/HĐBT ngày 24/4/1978 của Hội đồng Bộ trưởng. Tỷ giá thu đổi một đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng 10 đồng tiền của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cả nước thống nhất một loại tiền Ngân hàng Nhà nước tạo ra điều kiện thuận lợi mới cho sản xuất, phân phối lưu thông và sinh hoạt đời sống xã hội, góp phần quan trọng thu mua nắm hàng, nắm tiền vào tay Nhà nước. Đi đôi với cải tạo thương nghiệp tư doanh, huyện tăng cường công tác tài chính, ngân hàng; tích cực thu ngân sách, thu thuế; đặt các trạm kiểm soát thu thuế buôn chuyến, chống buôn lậu. Hoạt động ngân hàng chủ yếu là cho vay phục vụ sản xuất, thu mua sản phẩm và huy động tiền gửi tiết kiệm.
Cuối năm 1978, công tác cải tạo công, thương nghiệp tư bản, tư doanh trên địa bàn huyện cơ bản hoàn thành so mới mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện và tác dụng của kết quả cải tạo còn nhiều hạn chế: Cách làm ồ ạt mang tính phong trào, thiếu quan tâm đúng mức giải quyết thông suốt về tư tưởng nên kết quả không bền vững; nhiều đơn vị tập thể yếu kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Giữa cải tạo và xây dựng thiếu sự kết hợp, có phần nặng về cải tạo xóa bỏ và cấm đoán, nhẹ về xây dựng; những kinh nghiệm về quản lý kinh tế, về khoa học kỹ thuật của giới chủ tư doanh chưa được chú ý khai thác, kế thừa và phát huy. Trong công tác phân phối lưu thông, mặt yếu kém nhất là thu mua nắm nguồn hàng, nhất là nông sản, thực phẩm, hàng xuất khẩu. Hệ thống hợp tác xã mua bán không có tiềm lực, chỉ thực hiện được chức năng làm đại lý bán hàng cho mậu dịch quốc doanh, chưa làm được chức năng tự doanh, thu mua nắm hàng ở cơ sở.
Đồng thời với phát triển kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất mới, Đảng bộ không ngừng chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, xây dựng đời sống văn hóa. Trên lĩnh vực nào cũng đều có khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và cán bộ. Để góp phần khắc phục những khó khăn, Đảng bộ biết dựa vào dân, khơi dậy sức dân. Mọi việc các cấp ủy đảng, chính quyền đều phát động quần chúng và được quần chúng tham gia tích cực. Về giáo dục, trong 3 năm học đầu sau ngày giải phóng, số lượng học sinh tăng rất nhanh[20], trong khi trường, lớp, bàn ghế vừa thiếu, vừa bị hư hỏng nhiều. Năm học 1975 - 1976 phần lớn trường học đều không đủ phòng học và bàn ghế; không có nhà ở nội trú cho giáo viên; hơn 50% số trường không có nơi để làm văn phòng nhà trường…
Khó khăn lớn nhất là thiếu giáo viên, địa bàn huyện rộng, có tới 158 điểm trường nhưng thiếu 114 giáo viên. Để đảm bảo học tập cho học sinh, giáo viên phải dạy thêm nhiều tiết học. Nhiều giáo viên không có phương tiện xe đạp phải chạy bộ đến các điểm trường để kịp giờ giảng, rất vất vả. Để có đủ trường lớp cho học sinh học, Huyện ủy chủ trương huy động sức dân, tùy vào số lượng học sinh mà xây số lượng phòng học, mỗi xã phải xây dựng được cho một trường học cấp I hoặc cấp II, ít nhất có từ 2 - 3 lớp đầy đủ bàn ghế. Chủ trương đó nhận được sự hưởng ứng đóng góp nhiệt tình của nhân dân. Ngày 11/11/1976, Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 613/QĐ-UBND thành lập thêm trường cấp II Khu Kinh tế mới Ninh Trang và 4 trường cấp I + II ở 4 xã là Ninh Hiệp, Ninh Đa, Ninh Tân và Vạn Bình. Đến năm học 1977 - 1978, huyện hình thành mạng lưới trường lớp gồm 35 trường học phổ thông, 1 trường bổ túc văn hóa tập trung; hầu hết các xã đều có trường mẫu giáo[21]; hợp tác xã nông nghiệp có nhà nuôi dạy trẻ, nhiều nơi xây dựng đến đội sản xuất. Tình trạng thiếu giáo viên cũng dần được khắc phục. Không khí học tập khá sôi nổi với nhiều phong trào thi đua mang chủ đề “Kính thầy yêu trẻ”, “ Biết ơn Đảng - Bác Hồ”, “Yêu trường mến lớp”… Kết thúc năm học tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp các cấp đạt kết quả khá tốt, nhân dân rất phấn khởi. Bên cạnh mở rộng trường lớp cho học sinh phổ thông, mối quan tâm lớn của Đảng bộ là xóa nạn mù chữ cho dân. Sau giải phóng có tới trên 43% dân số trong huyện mù chữ. Ngày 27/9/1976, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 115-CT/HU về phong trào học bổ túc văn hóa. Chỉ thị của Huyện ủy nhanh chóng đi vào cuộc sống. Phong trào xóa nạn mù chữ trong huyện phát triển rất mạnh, nhất là trong cán bộ, đảng viên. Ban diệt dốt cấp huyện và cấp xã được thành lập do đồng chí phó chủ tịch ủy ban nhân dân mỗi cấp làm trưởng ban. Huyện huy động gần 1.120 giáo viên đi dạy bổ túc văn hóa, trong đó chỉ có 34 giáo viên chuyên trách. Đội ngũ giáo viên rất nhiệt tình và chịu đựng nhiều hy sinh, gian khổ. Lúc đó giáo viên phải tự túc phương tiện đi lại, tự túc toàn bộ văn phòng phẩm phục vụ giảng dạy như phấn, bút, giấy, sổ đầu bài… Phòng học thì dựa vào các trường phổ thông. Nơi nào không đủ hoặc xa trường học thì mượn đình, chùa, nhà dân để tổ chức lớp. Nhiều xã còn huy động sức dân xây dựng phòng học, lán học bổ túc như ở Vạn Phước, Vạn Long, Ninh Quang, Ninh Phước… Về hình thức giảng dạy và học tập cũng rất đa dạng. Đối với cán bộ, công nhân viên chức có lớp bổ túc văn hóa tập trung hoặc “tại chức” cho số cho học viên không có điều kiện học tập trung. Đối với nhân dân có các lớp bình dân học vụ học tập trung, học lớp tại gia theo đăng ký của gia đình, học lớp dành cho người đi làm ăn xa không ổn định thời gian ở nhà... Thời gian học chủ yếu vào buổi tối, mỗi tuần 6 buổi đều đặn, tổ chức học ban ngày chỉ ở một số ít nơi có điều kiện. Học viên tự mang theo đèn dầu hỏa để học, nơi nào có điện thì học viên tự góp tiền để mua dây, bóng điện và trả tiền điện. Cá biệt như Ninh Thân, Ủy ban nhân dân xã huy động được máy phát điện đến trường phục vụ lớp học bổ túc. Với những cố gắng liên tục, toàn huyện có gần 17.000 người đi học bổ túc và bình dân học vụ. Xã Ninh Thọ là xã đầu tiên được công nhận hoàn thành xóa mù chữ vào tháng 5/1976; đến cuối 1976, 31/32 xã được công nhận xóa mù chữ. Vào thời gian cuối năm học 1976 - 1977, huyện tập trung 46 giáo viên và 30 đoàn viên thanh niên làm công tác xóa mù chữ trong thời gian 3 tháng giúp Ninh Tây là xã cuối cùng hoàn thành xóa mù chữ vào tháng 7/1977.
Quán triệt Chỉ thị số 226-CT/TW, ngày 17/11/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa III) về công tác y tế trong tình hình mới, Huyện ủy lãnh đạo khẩn trương xây dựng mạng lưới y tế. Trong điều kiện khó khăn nhưng huyện đã xây dựng được trạm y tế cho hầu hết các xã. Bệnh viện huyện là Bệnh viện cũ Ninh Hòa được tu sửa, mở rộng thêm phòng điều trị. Khu vực phía Bắc huyện hình thành Phân viện Vạn Giã. Ngoài ra còn thành lập 3 phòng khám đa khoa khu vực ở Dục Mỹ, Ninh Diêm và Tu Bông. Đội Vệ sinh phòng dịch huyện cũng được thành lập. Khó khăn nhất của y tế là thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn cao và thiếu thuốc điều trị trầm trọng. Đội ngũ cán bộ y tế phần lớn là y tá, chỉ có 6 bác sĩ và 17 y sĩ. Cả huyện có 3 hiệu thuốc bán dược phẩm nhưng số lượng và các loại thuốc đều rất hạn chế. Những bệnh thông thường chỉ có một vài loại thuốc điều trị nhất định, phổ biến như viên Xuyên tâm liên... Lúc này, huyện chú trọng công tác y tế dự phòng. Đội Vệ sinh phòng dịch huyện làm nòng cốt, phối hợp với các đoàn thể huyện, các xã thường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền nâng cao hiểu biết về vệ sinh phòng bệnh cho nhân dân. Phong trào “5 dứt điểm” [22] được đẩy mạnh, trong đó tập trung dứt điểm 3 công trình vệ sinh. Công tác tiêm phòng dịch tả, dịch hạch và tổ chức diệt chuột được triển khai đến thôn xã. Sôi nổi là phong trào nhân dân làm vệ sinh làng xóm. Nhiều xóm ngõ duy trì thường xuyên, về sau trở thành nếp sống hàng ngày. Các hoạt động trên góp phần quan trọng hạn chế được bệnh tật, không để dịch bệnh xảy ra và lây lan ra diện rộng[23]; sức khỏe nhân dân được chăm sóc tốt hơn.
Về công tác thông tin - văn hóa, sau khi vừa có quyết định thành lập huyện mới, bộ máy quản lý nhà nước từ huyện đến cơ sở trên lĩnh vực này nhanh chóng được củng cố, kiện toàn và hoạt động ngay, đáp ứng nhu cầu thông tin đến nhân dân. Ở huyện có Phòng Thông tin - Văn hóa, Đội Thông tin cổ động, Đội Chiếu bóng lưu động. Ở các xã lập ra ban văn hóa thông tin và đội thông tin lưu động từ 6 - 8 người, đài truyền thanh; ở thôn, phần lớn vẫn duy trì “chòi phát thanh” cho đến năm 1977. Ngoài công tác tuyên truyền miệng và có một số lượng báo chí nhất định, mọi thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân chủ yếu đều thông qua hệ thống truyền thanh từ huyện đến xã. Bằng nhiều hình thức hoạt động như chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật, triển lãm, thư viện, phát hành sách, sáng tác…, từng bước đưa vào đời sống tinh thần nhân dân một luồng sinh khí mới trong sáng, lành mạnh, thu hút được cảm tình, lòng tin yêu của số đông nhân dân đối với văn hóa, văn nghệ cách mạng. Trong đó, nổi bật là hoạt động văn nghệ quần chúng. Hoạt động này được tổ chức rộng rãi và thường xuyên, nội dung ngày càng phong phú hơn. Đi đôi với đưa văn hóa văn nghệ cách mạng đến với quần chúng, huyện tiến hành đấu tranh chống các hoạt động phản văn hóa, tổ chức nhiều đợt thu gom, tiêu hủy sách báo, văn hóa phẩm có nội dung độc hại và tiến hành bài trừ mê tín dị đoan.
Thực hiện các chính sách xã hội, trong thời gian 1976 - 1978, Huyện ủy đặc biệt quan tâm đối với chính sách thương binh, liệt sĩ. Huyện chọn xã Ninh Thọ làm thí điểm thực hiện chính sách này. Trên cơ sở đó, mở rộng việc xác nhận liệt sĩ, thương binh, tử tuất, gia đình cách mạng ra toàn huyện. Đến cuối năm 1976, toàn huyện có 3.717 gia đình liệt sĩ, 685 thương binh được công nhận. Huyện đề ra một số chủ trương nhằm giúp đỡ, hỗ trợ thêm về vật chất đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng như cấp hỗ trợ vật liệu để làm nhà cửa; quan tâm đến việc học hành của con em liệt sĩ; phát động phong trào tương thân, tương ái “Uống nước nhớ nguồn”, giúp công cày cấy, sửa sang nhà cửa... Đồng thời, triển khai thực hiện một số công việc cấp thiết lúc bấy giờ, như xây dựng nghĩa trang xã, quy tập liệt sĩ về nghĩa trang[24]. Huyện tiến hành xây dựng Nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất tỉnh với quy mô 4.000 liệt sĩ; tổ chức nhiều đợt quy tập liệt sĩ về nghĩa trang huyện. Công tác cứu tế xã hội cũng được chú ý, nhất là những người không nơi nương tựa, nghèo đói…
Đi đôi với nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ luôn quan tâm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Ngày 30/4/1977, tập đoàn Pol Pot - IengXari(Campuchia) gây ra cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam; ngày 17/2/1979, Trung Quốc gây ra chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta. Hai cuộc chiến tranh biên giới gây ra nhiều khó khăn, phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tác động không nhỏ đến tư tưởng, tâm tư tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Lợi dụng tình hình phức tạp ở biên giới và khó khăn của cả nước, trên địa bàn huyện, một số đối tượng trong quân đội, chính quyền cũ chưa chịu cải tạo và các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá chế độ. Chúng khoét sâu những khuyết điểm, thiếu sót của ta, xuyên tạc, kích động tư tưởng bất mãn, lo sợ cải tạo, đi kinh tế mới, đi nghĩa vụ quân sự…, xúi dục và dọa dẫm để lôi kéo người vượt biên trốn ra nước ngoài; mua chuộc cán bộ, du kích giúp chúng tổ chức bến bãi vượt biên. Từ đầu năm 1977 trên địa bàn huyện bắt đầu rộ lên tình hình vượt biên tăng lên rất phức tạp[25]. Ở vùng núi, một số tàn quân ngoan cố lẩn trốn trên rừng núi lén lút hoạt động ở các khu vực Đại Lãnh, phía Tây Vạn Phú, Vạn Lương, Vạn Hưng, Hòn Hèo, Hòn Lớn… Bên cạnh đó, một số Fulro tăng cường hoạt động ở vùng rừng núi xã Ninh Tây, gây ra vụ tập kích xe đò trên đèo Phụng Hoàng. Chúng đột nhập, móc nối vào hầu hết các buôn làng, dụ dỗ cán bộ xã… nhằm biến Ninh Tây thành “cơ sở im lặng”, là nơi tiếp tế lương thực và trú ẩn. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo kịp thời phương án phòng chống Fulro, năm 1978 đã khám phá một tổ chức gồm 58 tên. Nhờ đó làm thất bại hoàn toàn âm mưu của Fulro. Ở vùng đồng bằng, nổi lên một số hoạt động chống phá chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đang tiến hành trên địa bàn huyện. Chúng tung tin đồn nhảm, kích động, rải truyền đơn, khẩu hiệu phản động ở địa bàn các xã Ninh Quang, Ninh Hưng, Ninh Bình, Ninh Diêm, Ninh Ích, Ninh Sim, Vạn Thắng, Vạn Phú, Vạn Thạnh… Nhiều tổ chức phản động nhen nhóm như “Việt Nam phục quốc”, “Lực lượng dân quân phục quốc”, “Liên minh Á châu chí nguyện quân”, “Liên tôn chống cộng”… Đáng chú ý là tổ chức “Kỳ lân phục quốc” ở Quy Nhơn, tỉnh Nghĩa Bình vào móc nối và tổ chức nhóm hoạt động trên địa bàn 3 xã Ninh Phú, Ninh Đa, Ninh Giang. Chúng có cương lĩnh, âm mưu cướp chính quyền huyện, phân công người giữ chức quận trưởng, quận phó… Hoạt động nhóm này rất táo tợn, vừa mới nhen nhóm đã hành động ngay như cất giữ vũ khí, cờ ngụy, truyền đơn, gây ra vụ bắn chết người và cướp tài sản Nhà máy Đường Xuân Tự (xã Vạn Hưng). Tại xã Ninh Hà, “Hội thanh niên phục quốc” âm mưu đánh vào trụ sở xã, đốt kho lúa, ám sát cán bộ để gây tiếng vang, sau đó rút lên núi hoạt động. Năm 1978, chúng gia tăng hoạt động, có mưu đồ chuẩn bị gây bạo loạn, lật đổ chính quyền. Số tổ chức mới nhen nhóm tăng đột biến từ 4 tổ chức năm 1977 lên 26 tổ chức năm 1978. Ta đã khám phá, làm thất bại ý đồ của các tổ chức này, điển hình là vụ án Trung đoàn S.20. Chúng tập hợp lực lượng, lập mật khu hoạt động tại các xã Ninh Ích, Ninh Hưng, Ninh Lộc, Ninh Quang, Ninh Sim, Tu Bông, Vạn Lương, Vạn Hưng, Vạn Phú, Vạn Bình, Vạn Long…; hình thành các khung trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, trung đội và đặt phiên hiệu cho từng đơn vị. Chúng kích động tư tưởng bất mãn đi đôi với đe dọa giết người để lôi kéo vào tổ chức. Trong thời gian ngắn, S.20 đã gây nhiều tội ác, giết hại 5 đồng chí bộ đội, một số cán bộ thôn và cả dân thường, cướp 10 khẩu súng và hàng ngàn viên đạn. Từ ngày 7/2 đến 25/10/1978, ta liên tục mở các đợt truy kích, bắt sống tên Trung đoàn phó S.20 chỉ huy khu vực Khánh Ninh và trên 180 tên khác, thu nhiều vũ khí súng, đạn và tài liệu liên quan đến vụ án. Một số chạy thoát lên phía Bắc huyện tiếp tục gây tội ác, chống phá ta. Bên cạnh đó, tình hình trộm cắp, gây rối trật tự, cướp giật… gia tăng mạnh. Đáng chú ý là các vụ trộm cắp hàng chục tấn thuốc nổ, trên 100 kíp mìn ở các kho của quân đội và mua bán, tàng trữ vũ khí trái phép. Ngoài ra, còn nổi lên tình hình người Việt gốc Hoa bị bên ngoài kích động, làm đơn xin lại quốc tịch cũ, gây nhiều khó khăn cho ta.
Trước tình hình đó, quán triệt Chỉ thị số 3-CT/TV, ngày 29/1/1977 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội trong thời gian tới, ngày 8/2/1977, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 22-CT/HU về phát động phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Quá trình thực hiện, huyện chú trọng tăng cường công tác giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức quốc phòng, về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; chỉ rõ âm mưu của đế quốc và các thế lực thù địch đối với nước ta; nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu. Huyện chọn xã Ninh Quang và xã Vạn Hưng làm điểm, sau đó nhân rộng ra toàn huyện. Qua phong trào, bản quy ước bảo vệ nông thôn ra đời từ đó. Càng về những năm sau, bản quy ước càng được hoàn thiện dần thành các quy định như ngày nay. Phong trào do các lực lượng vũ trang và bán vũ trang làm nòng cốt phối hợp chặt chẽ, cùng với các tổ chức đoàn thể quần chúng liên tục phát động nhiều đợt truy quét, trấn áp các phần tử phản động, tội phạm hình sự… Được phát động, tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân lên cao, phát hiện nhiều tổ chức nhen nhóm hoạt động chống phá, cất giấu vũ khí, phá nhiều vụ án hình sự, ngăn chặn nhiều vụ vượt biên. Công tác xây dựng lực lượng, nhất là ở cơ sở được coi trọng. Cuối năm 1978, tất cả các xã trong huyện có đủ ban chỉ huy xã đội và đều được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức quốc phòng. Xã nào cũng xây dựng tiểu đội, hoặc trung đội dân quân cơ động, một số xã có đại đội dân quân cơ động; cơ quan và liên cơ quan có trung đội tự vệ. Công an xã được kiện toàn về tổ chức, có trưởng và phó công an xã; các thôn đều có công an viên phụ trách. Lực lượng vũ trang và bán vũ trang của huyện được củng cố, kiện toàn, tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao và theo quy định thì vẫn còn thiếu nhiều về số lượng, về chất lượng chưa đồng đều và nhiều mặt còn yếu.
Phẫn nộ trước hành động của các thế lực thù địch gây ra 2 cuộc chiến tranh biên giới, hàng ngàn thanh niên đã lên đường bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Để lại dấu ấn sâu sắc là đợt tuyển quân và tổ chức giao quân đầu tiên sau ngày giải phóng của huyện vào ngày 28/11/1976, tại sân vận động Ninh Đa (nay là sân vận động 16/7). Sau khi học tập, quán triệt Luật Nghĩa vụ quân sự, có trên 10.000 thanh niên đăng ký tòng quân. Từ ngày đăng ký đến ngày hội giao quân, tại 31 điểm đăng ký đều trang trí rực rỡ cờ, biểu ngữ, khẩu hiệu, cổng chào và có các đội múa lân. Tất cả những hoạt động đó làm cho không khí ngày lên đường nhập ngũ của thanh niên Khánh Ninh thêm phấn chấn, rầm rộ, sôi nổi khó quên, đưa tiễn 844 thanh niên (có 53 nữ) lên đường đi làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong số thanh niên đó, nhiều người sau này trở thành sĩ quan chuyên nghiệp hoặc chuyển ngành, ra quân trở thành cán bộ chủ chốt của huyện, của tỉnh.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng
Trong tình hình công tác hết sức mới mẻ, có nhiều khó khăn, phức tạp, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ đã kinh qua những năm thử thách trong chiến tranh luôn giữ vững tinh thần cách mạng, tiếp tục hy sinh, chịu đựng gian khổ, tiên phong làm tròn nhiệm vụ được phân công. Tuy nhiên, trong điều kiện khó khăn, gian khổ không kém phần gay go, thử thách của những năm đầu sau ngày giải phóng, một số cán bộ, đảng viên nảy sinh tư tưởng tiêu cực, giảm sút ý chí chiến đấu, ngại gian khổ; công thần, hưởng lạc, tê liệt cảnh giác cách mạng… Tâm trạng xã hội cũng có nhiều diễn biến, xen lẫn giữa tự hào dân tộc và lo lắng, hoài nghi về tương lai cuộc sống tốt đẹp; giữa khâm phục và lo sợ đối với cách mạng… Trước tình hình đó, Huyện uỷ tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, chỉ đạo chặt chẽ các đợt sinh hoạt chính trị, học tập Nghị quyết Đại hội IV và các nghị quyết tiếp theo của Đảng. Cùng với học tập Nghị quyết số 254-NQ/TW, ngày 15/7/1976 của Bộ Chính trị (khóa III) về những công tác trước mắt ở miền Nam, Huyện ủy mở nhiều đợt sinh hoạt nội bộ tự phê bình và phê bình. Trong đó đáng chú ý là đợt sinh hoạt theo tinh thần Nghị quyết số 228-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa III) về cuộc đấu tranh chống tiêu cực và Chỉ thị số 230-CT/TW, ngày 13/7/1976của Ban Bí thư (khóa III) về đợt giáo dục chính trị, tự phê và phê bình trong toàn Đảng; đặc biệt là đợt sinh hoạt kiểm điểm theo tinh thần Thông tri số 22-TT/TW, ngày 5/9/1977 của Ban Bí thư (khóa IV) về tăng cường chỉ đạo đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên. Nội dung các đợt sinh hoạt tập trung kiểm điểm xoáy sâu vào việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của từng cá nhân; đấu tranh chống tham ô, móc ngoặc, quan liêu, xa rời quần chúng… Đồng thời, các cấp ủy tổ chức cho quần chúng góp ý phê bình về sự lãnh đạo của cấp ủy và cho từng đảng viên trong chi bộ. Qua các đợt sinh hoạt chính trị, trình độ nhận thức về lý luận, chính trị của phần lớn cán bộ, đảng viên được nâng cao; tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, ý thức tổ chức và kỷ luật có sự chuyển biến tốt hơn.
Về tổ chức bộ máy và cán bộ, thực trạng trong những năm đầu sau giải phóng có nhiều yếu kém. Bộ máy thiếu ổn định, chức năng nhiệm vụ chưa rõ ràng, cán bộ vừa thiếu vừa yếu, riêng khối Đảng thiếu trên 20 người so với biên chế, nơi ăn ở, làm việc lại rất thiếu thốn… gây nhiều bất cập trong công tác lãnh đạo và quản lý, điều hành của các cấp các ngành. Phần lớn cán bộ từ huyện đến cơ sở chưa được đào tạo, số người có trình độ chuyên môn từ trung cấp đến đại học mới chiếm 20,6% so với tổng số cán bộ, nhân viên hành chính, sự nghiệp trong biên chế do huyện quản lý. Số cán bộ được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội cũng rất hạn chế. Trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành còn lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng, chính quyền và mặt trận, đoàn thể dẫn đến tình trạng đồng chí bí thư và cấp ủy dài tay là phổ biến, nhất là cơ sở xã. Đây là trở ngại chính trong việc triển khai các mặt công tác. Trước thực trạng đó, Ban Thường vụ Huyện ủy coi trọng chỉ đạo củng cố cơ sở xã, thị trấn, đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng. Để khắc phục tình trạng thiếu cán bộ ở cơ sở xã, các cấp ủy, chính quyền động viên trên 200 cán bộ hưu trí, chiếm 76% tổng số cán bộ hưu trí toàn huyện tham gia vào cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể xã. Đồng thời, huyện tăng cường cán bộ các cơ quan cấp huyện xuống công tác tại xã, chủ yếu là ở những xã phong trào yếu và những cơ sở có vị trí xung yếu. Số cán bộ tăng cường cho xã, thị trấn lúc cao nhất là 145 đồng chí (năm 1976); thấp nhất trên 110 đồng chí (năm 1978). Dồn sức chỉ đạo đưa phong trào cơ sở đi lên, huyện thường xuyên thành lập nhiều đoàn công tác lưu động xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể và chỉ đạo phát động phong trào. Các đoàn công tác lập thành từng tổ gồm một số đồng chí, trực tiếp xuống giúp xã xây dựng, củng cố từng mặt công tác còn yếu kém. Xây dựng, củng cố mặt công tác nào thì trưng tập cán bộ của cơ quan, ban ngành có liên quan mặt đó. Nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt huyện đi sát dân, xuống từng cơ sở chỉ đạo thực hiện từng công việc cụ thể. Do địa bàn huyện rộng, điều kiện đi lại khó khăn, để kịp thời giải quyết, xử lý công việc ở cơ sở, ngày 2/8/1978, Huyện ủy ra Quyết nghị số 270-QN/HU thành lập bộ phận chỉ đạo của Huyện ủy để chỉ đạo 9 xã phía Bắc huyện. Bộ phận được giao một số nhiệm vụ và quyền hạn, thay mặt Ban Thường vụ Huyện ủy để giải quyết công việc. Cứ như vậy, cơ sở từng bước được củng cố, nhiều tổ chức cơ sở yếu kém dần vươn lên, phong trào quần chúng cũng mạnh dần lên. Thông qua hoạt động ở cơ sở, lăn lộn với thực tiễn, hầu hết cán bộ tăng cường xuống xã, hoặc được thường xuyên tham gia các đoàn, các tổ công tác đi cơ sở đều trưởng thành. Nhiều đồng chí chịu đựng gian khổ, tự rèn luyện, gắn bó với cơ sở nhiều năm liền, sau này giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt cấp huyện, tỉnh. Những biện pháp chỉ đạo nêu trên góp phần rất quan trọng vào sự ổn định mọi mặt trong huyện, đồng thời đó cũng là biện pháp rèn luyện, đào tạo cán bộ thể hiện sự sáng tạo và là điểm nổi bật trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy và Ban Thường vụ Huyện ủy. Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ được chú ý tăng cường. 3 năm (1976 - 1978), huyện cử 14 cán bộ đi học trường Đảng do Trung ương mở, 114 đồng chí do tỉnh mở. Tháng 5/1976, Trường Đảng huyện được thành lập, lấy cơ quan tài chính huyện Vạn Ninh cũ làm trường học tạm. Sau đó chuyển về Ninh Hòa, lấy trường cấp I + II Ninh Hiệp làm trường học (Trường Pháp - Việt cũ). Do công việc của đội ngũ cán bộ trong huyện lúc đó rất dày, nên Huyện ủy chủ trương cho Trường mở lớp học vào ban đêm. Lớp học ban đêm đầu tiên là lớp lý luận chính trị sơ cấp, khai mạc ngày 29/4/1977, có 47 cán bộ là trưởng, phó phòng và cán sự I trở lên tham gia. Lớp học đối tượng Đảng đầu tiên khai mạc vào ngày 1/6/1977, có 95 học viên. Các khóa học lý luận chính trị liên tục mở, gồm: Lý luận chính trị cơ sở, thời gian một tháng rưỡi; lý luận sơ cấp tại chức, thời gian 5 tháng. Đến cuối năm 1978, tổng số cán bộ được đào tạo lý luận ở các khóa học là 590; bồi dưỡng đối tượng Đảng trên 300 người, trong đó đoàn viên thanh niên chiếm 90%. Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã góp phần củng cố, kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền, đoàn thể. Đến cuối năm 1978, toàn Đảng bộ có 75 chi bộ cơ sở, 910 đảng viên. Số lượng đảng viên tăng lên chủ yếu là từ nơi khác chuyển về, trong đó một lực lượng khá đông là cán bộ hưu trí tập kết ở miền Bắc trở về địa phương. Công tác phát triển đảng viên từ năm 1976 - 1978 rất yếu, riêng 2 năm 1977 - 1978 chỉ kết nạp được 35 đồng chí. Gắn với công tác tư tưởng, chính trị và tổ chức, các cấp ủy tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đồng thời chú trọng công tác kiểm tra tư cách đảng viên, xử lý kịp thời, nghiêm minh những vụ vi phạm, góp phần củng cố tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng chính quyền, sau khi có quyết định hợp nhất, Huyện ủy chỉ đạo nhanh chóng hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cách mạng ở 2 huyện cũ. Ngày 18/12/1975, Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Khánh Ninh đã ra Thông báo kết quả hợp nhất 11 phòng, ban chuyên môn trực thuộc Ủy ban huyện[26]. Ngày 22/3/1976, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh ban hành Quyết định số 92/TC-UB, quy định bộ máy chính quyền huyện Khánh Ninh gồm 20 phòng và đơn vị tương đương[27]. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân các cấp, Đảng bộ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp khóa đầu tiên. Cuộc bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp có ý nghĩa lịch sử to lớn trong đời sống chính trị của nhân dân trong huyện. Sau ba mươi năm sống trong trong chế độ thực dân kiểu mới, nhân dân mới thực sự được hưởng quyền tự do, dân chủ, tự mình lựa chọn bầu ra hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở địa phương, đại diện cho quyền làm chủ của mình. Trong cuộc bầu cử này, theo sự chỉ đạo của cấp trên, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tiến hành trước cuộc bầu cử hội đồng nhân dân cấp xã, diễn ra trong thời gian từ tháng 1/1976 và kết thúc vào ngày 16/2/1976. Kết quả, các xã đã bầu ra hội đồng nhân dân có đủ số lượng đại biểu theo quy định. Trên cơ sở đó củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy ủy ban nhân dân xã. Tuy chất lượng hội đồng nhân dân xã chưa cao[28] nhưng chất lượng bộ máy chính quyền xã thì được nâng cao một bước, cơ bản đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ và phù hợp với tình hình lúc đó. Đến ngày 15/5/1977, cuộc bầu cử hội đồng nhân dân 2 cấp huyện và tỉnh được tiến hành. Trên 99,1% cử tri toàn huyện đi bầu cử, bầu ra 50 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện khóa I; bầu 17 đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh khóa I ở 2 đơn vị bầu cử tỉnh trên địa bàn huyện. Tất cả các cuộc bầu cử đều diễn ra an toàn trong không khí tưng bừng của ngày hội toàn dân. Tại kỳ họp thứ nhất, Hội đồng nhân dân huyện đã bầu Ủy ban nhân dân huyện gồm 9 đồng chí. Đồng chí Võ Danh được bầu làm Chủ tịch; 3 đồng chí là Nguyễn Thặng, Trần Tộc, Trần Thị được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Sau bầu cử và củng cố kiện toàn bộ máy chính quyền, cấp huyện được bổ sung thêm một số nhiệm vụ mới, vì vậy huyện thành lập thêm một số cơ quan tham mưu. Cuối tháng 6/1977, Ban Thường vụ Huyện ủy ra quyết nghị thành lập Ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh; ngày 15/3/1978, Ủy ban nhân dân huyện ban hành Quyết định số 86-TC/UB thành lập Ban Kinh tế mới huyện; ngày 13/4/1978, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Quyết nghị số 107-QN/HU thành lập Ban Cải tạo nông nghiệp huyện. Như vậy, bộ máy chính quyền huyện có 23 phòng, ban tham mưu. Đây là thời điểm tổ chức bộ máy cấp huyện có nhiều phòng, ban nhất. Bộ máy chính quyền cấp huyện được tăng cường là bước chuẩn bị nhằm đáp ứng và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cấp huyện theo Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 24/1/1978 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 33/NQ-CP, ngày 4/2/1978 của Hội đồng Chính phủ về xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện. Cấp huyện được xây dựng theo hướng trở thành một cấp nhà nước quản lý kế hoạch toàn diện, một cấp tự cân đối ngân sách. Huyện được coi là địa bàn tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động. Để thực hiện chủ trương đó của Đảng, đầu năm 1978, tỉnh tiến hành phân cấp và bàn giao cho huyện trực tiếp quản lý một số cơ sở kinh tế, văn hóa do tỉnh quản lý. Bước đầu huyện đã chủ động khai thác được tiềm năng thế mạnh của địa phương, làm tốt hơn chức năng quản lý nhà nước, trấn áp phản cách mạng có hiệu quả.
Về công tác quần chúng, Đảng bộ quan tâm củng cố tổ chức các đoàn thể cách mạng từ huyện đến cơ sở. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các đoàn thể tập trung phát triển tổ chức cơ sở, kết nạp đoàn viên, hội viên mới. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1977, tổng số đoàn viên, hội viên tăng lên gấp đôi, từ trên 30.000 người lên gần 60.000 người. Đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của đoàn thể, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn, hội được đẩy mạnh, năm 1977 là năm có số lượng cao nhất, trên 1.200 cán bộ. Các tổ chức đoàn thể hoạt động rất mạnh, tinh thần cách mạng của nhân dân lên rất cao. Mọi phong trào do các cấp phát động như làm thủy lợi, phục hóa khai hoang, thâm canh, tăng vụ, xây dựng vùng kinh tế mới, hợp tác hóa nông nghiệp, an ninh, quốc phòng... đều có đông đảo nhân dân ở mọi tầng lớp tham gia tích cực. “Các đoàn thể quần chúng hoạt động ngày càng tốt hơn, liên tục mở nhiều đợt phát động thực hiện thắng lợi nhiệm vụ Đảng giao, qua đó mà đưa hầu hết quần chúng vào tổ chức” [29]. Nổi bật là Đoàn Thanh niên liên tục tổ chức các phong trào thanh niên xung phong, luôn thể hiện vai trò xung kích, đi đầu những nơi gian khổ nhất như công trường thủy lợi, khai hoang... Riêng trên công trường Đá Bàn thường xuyên có mặt từ 300 - 500 thanh niên xung phong. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện phát huy vai trò trung tâm đoàn kết toàn dân; tham gia xây dựng chính quyền, giới thiệu và hiệp thương các đại biểu ứng cử, đề cử bầu vào hội đồng nhân dân các cấp, đảm bảo dân chủ, đúng luật. Hoạt động các đoàn thể, mặt trận các cấp đã góp phần nâng cao ý thức làm chủ tập thể của nhân dân lao động. “Từ một huyện bị chiếm lâu ngày, tình hình chính trị xã hội hết sức phức tạp, nhưng sau khi giải phóng, được sự giáo dục của Đảng, nhân dân đã tiếp thu nhanh chủ nghĩa xã hội, hăng hái tham gia các mặt công tác của cách mạng”[30]. Tuy mức độ nhận thức có khác nhau, nhưng nhân dân ngày càng thấy rõ hơn ý nghĩa lịch sử của sự thay đổi thân phận từ vị trí là người dân nô lệ trở thành người dân làm chủ đất nước; thấy được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên quê hương Khánh Ninh. Từ đó, sẵn sàng tham gia mọi phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nổi bật nhất là trước tình hình xảy ra 2 cuộc chiến tranh biên giới ác liệt ở phía Bắc do Trung Quốc, phía Tây Nam do Khmer Đỏ Campuchia gây ra, nhân dân Ninh Hòa đồng lòng hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 4/3/1979 và lệnh tổng động viên ngày 5/3/1979 của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, hướng về tiền tuyến, dấy lên làn sóng yêu nước biến thành cao trào hành động cách mạng ra sức lao động sản xuất, công tác và học tập, sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, hơn 3 năm (1976 - 1978), trong điều kiện vừa kết thúc một cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt với những hậu quả hết sức nặng nề và tác động bất lợi của 2 cuộc chiến tranh biên giới; các thế lực thù địch tăng cường hoạt động quấy rối, phá hoại; đội ngũ cán bộ thiếu và yếu, công tác hoàn toàn mới mẻ… nhưng Đảng bộ đã lãnh đạo quân và dân toàn huyện phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn, liên tục phát động các phong trào cách mạng của quần chúng đạt được nhiều thắng lợi rất quan trọng và nổi bật:
Một là, chỉ trong khoảng thời gian ngắn, huyện đã thiết lập, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, nhanh chóng khôi phục và ổn định tình hình đời sống xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch trên địa bàn huyện.
Hai là, thu được nhiều thắng lợi trong khôi phục và phát triển kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm, giải quyết được vấn đề lương thực, thực phẩm, không những tự cân đối được trên địa bàn mà còn đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước. Kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội bước đầu được xây dựng.
Ba là, cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và công, thương nghiệp, đồng thời từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, bước đầu tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động đối với các ngành kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư - diêm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và phân phối lưu thông.
Bốn là, đưa ánh sáng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa đến với nhân dân, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú, đẩy lùi văn hóa nô dịch của chế độ cũ. Trong đó, bước đầu xây dựng được hệ thống giáo dục và y tế đến cơ sở, phục vụ bao cấp việc học hành, chữa bệnh cho toàn dân.
Năm là, bộ máy tổ chức của Đảng, chính quyền, đoàn thể và đội ngũ cán bộ, đảng viên trưởng thành, có được những kinh nghiệm ban đầu để tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm tiếp theo.
Bên cạnh những thắng lợi đó, cũng còn một số hạn chế, tồn tại: Kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của huyện; phía Bắc huyện ít được quan tâm đầu tư về nhiều mặt. Hiệu quả sản xuất các ngành kinh tế chưa cao, nhất là khai hoang sản xuất nông nghiệp. Kết quả cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa thiếu vững chắc. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng thiếu động bộ và chậm; đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các vùng kinh tế mới… Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể còn nhiều thiếu sót. Công tác tư tưởng, công tác lãnh đạo có kiểm tra chưa tiến hành thường xuyên; công tác tổ chức và cán bộ chưa theo kịp tình hình và nhiệm vụ. Còn nhiều cơ sở đảng, chính quyền, đoàn thể yếu kém chưa được củng cố kịp thời. Một số biểu hiện tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, giảm sút ý chí chiến đấu… chưa được đấu tranh, phê phán ngăn chặn có hiệu quả.
Nguyên nhân chủ quan của những khuyết điểm, hạn chế chủ yếu là do Đảng bộ “chưa quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng, nhất là đường lối xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, chưa kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng, kinh tế với quốc phòng…”[31]; do năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cũng như của đội ngũ cán bộ, đảng viên của huyện chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ... Nguyên nhân khách quan chủ yếu là do địa bàn huyện quá rộng và phức tạp, trong khi đó những điều kiện, cơ sở vật chất phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể từ huyện đến cơ sở lúc đó lại quá thiếu thốn. Khó khăn đó có phần quá sức so với sự cố gắng của các cấp và đội ngũ cán bộ.
Những bất cập do địa bàn huyện quá lớn ngày càng bộc lộ rõ, theo đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh và Ban Tổ chức Chính phủ, ngày 5/3/1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 85/QĐ-CP chia huyện Khánh Ninh thành hai huyện lấy tên là huyện Ninh Hòa và huyện Vạn Ninh.
Chủ trương tách huyện Khánh Ninh là một chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Tách huyện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đảng bộ và nhân dân hai huyện phát huy mạnh mẽ tiềm năng, thế mạnh của mỗi huyện, đồng thời khắc phục có hiệu quả những khuyết điểm, hạn chế; tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau vì sự phát triển phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân trong thời kỳ mới.
[1] 20 phòng, ban gồm: Văn phòng Ủy ban, Phòng Nông nghiệp, Phòng Thủ công nghiệp, Phòng Tài chính, Phòng Thương nghiệp, Phòng Lao động, Phòng Thông tin Văn hóa, Phòng Giáo dục, Phòng Y tế, Phòng Thương binh Xã hội, Phòng Lâm nghiệp, Phòng Thủy lợi, Phòng Thủy sản, Phòng Lương thực, Phòng Kế hoạch - Thống kê và Vật tư, Chi nhánh Ngân hàng huyện, Bưu điện huyện, Công an huyện, Ban Chỉ huy quân sự huyện, Tòa án nhân dân huyện, Viện Kiểm sát nhân dân huyện. Các bộ phận lao động, tổ chức chính quyền, thanh tra, giao thông, vật giá trực thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cách mạng huyện.
[2] Giá gạo tăng nhanh từ 0,64 đồng/kg lên 1,60 đồng/kg.
[3] Năm 1976, xảy ra 16 vụ cướp có vũ trang, trong đó có 5 vụ cướp của giết người.
[4] Chỉ thị số 10/TVHU, ngày 16/3/1976 của Ban Thường vụ Huyện ủy Khánh Ninh về phát động quần chúng truy quét bọn địch còn lẩn trốn và tổ chức phản cách mạng. Tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa
[5] Xây dựng 10 đập đúc bê tông, 30 đập bổi (đập thời vụ). Nhà nước đầu tư 57.000 đồng, dân đóng góp 25.000 đồng để làm mới: Đập Hàm Rồng (Ninh Ích), đê ngăn mặn Hà Liên (Ninh Hà), đập Tân Phước (Vạn Phước), đập Phú Hội (Vạn Bình)…
[6] Khu Gia Mỹ có 264 hộ, trên 1.600 nhân khẩu định cư từ các xã Ninh Hiệp, Ninh Phụng, Ninh Hải, Ninh Đa, Vạn Thạnh. Khu Phú Nhơn có 736 hộ, 5.000 nhân khẩu định cư từ thị xã Nha Trang do tỉnh bàn giao đầu tháng 5/1976. Ngoài ra, có khu kinh tế mới Ninh Trang do thị xã Nha Trang quản lý.
[7] Trong 7.650ha có trên 3.750ha đất công; 1.840ha ruộng đất, 44ha muối, 11 ha đìa của 258 hộ địa chủ, tư sản; trên 2.000ha của hơn 300 hộ phú nông, tư sản nông nghiệp, công chức cũ… phát canh thu tô.
[8] Năm 1976, khai thác 5.550m3, chế biến trên 1.650m3; khai thác gần 9.000 ster củi.
[9] Trên 200 cơ sở gồm: 7 ga ra cơ khí, 30 cơ sở rèn, 2 cơ sở sản xuất đường, 3 nhà máy nước đá, 25 cơ sở sản xuất mặt hàng đồ gỗ, 130 máy xay xát gạo, 7 cơ sở sản xuất gạch ngói. Sản phẩm chính gồm: 7 triệu viên gạch ngói, 31.500 nông cụ cầm tay, 27 tấn xà phòng, 7 vạn đôi chiếu, 600 tấn đường đen, xẻ được 2.000m3 gỗ…
[10] Nghị quyết Hội nghị Huyện ủy lần thứ 2 (khóa I) về phát triển nông nghiệp 5 năm (1976 - 1980), tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[11] 5 tiểu ban gồm: Tiểu ban Tổ chức, Tuyên giáo, Điều tra quy hoạch - kế hoạch, Định mức lao động và Tiểu ban Bảo vệ.
[12] Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Ninh Hòa lần thứ 2, tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[13] Sản lượng muối: Năm 1977 đạt gần 41.000 tấn; năm 1978 do bão lụt chỉ đạt 20.000 tấn.
[14] Trong đó có 17 hộ kinh doanh thương nghiệp có thuế siêu ngạch, gọi là “trọng hộ” cần phải chuyển sang sản xuất.
[15] Các cơ sở tiểu, công nghiệp vừa và nhỏ trong huyện gồm: 7 xí nghiệp gạch ngói làm bằng máy với tổng công suất 15 triệu viên/năm; 7 ga ra có trang bị máy móc; 3 nhà máy sản xuất nước đá với tổng công suất 15.000 tấn/năm; 7 cơ sở xẻ gỗ với tổng công suất 7.000m3.
[16] Báo cáo tổng kết năm 1976 số 01-VP/UB, ngày 31/12/1976 của Ủy ban nhân dân huyện Khánh Ninh.
[17] Từ 1976 - 1978, toàn huyện tu sửa gần 100 km, làm mới 90 km, xây dựng 14 chiếc cầu.
[18] Gồm 1 cửa hàng công nghệ phẩm; 1 cửa hàng nông sản.
[19] Trong thời kỳ bao cấp, các đối tượng thụ hưởng các chính sách nhà nước theo tiêu chuẩn, được thông qua tem phiếu, sổ mua gạo, mua hàng thiết yếu và các hình thức phân phối khác.
[20] Học sinh phổ thông năm học 1977 - 1978 là 40.700 em tăng 18,6% so với năm học trước.
[21] Năm học 1976 - 1977 có 41 trường, trong đó: 24 trường cấp I; 5 trường cấp II; 10 trường cấp I+II; 1 trường cấp II+III; 1 trường cấp III. Năm học 1977 - 1978 có 35 trường, trong đó: 10 trường cấp I, 23 trường cấp I+II, 1 trường cấp III, 1 trường cấp II+III. Hệ mầm non có 153 lớp mẫu giáo, trên 5.900 cháu, 151 giáo viên.
[22] 5 dứt điểm, là: Dứt điểm 3 công trình vệ sinh (nhà tắm, giếng nước, cầu tiêu); dứt điểm về sinh đẻ có kế hoạch; dứt điểm trồng và sử dụng thuốc nam; dứt điểm về kiện toàn tổ chức y tế cơ sở; dứt điểm về quản lý sức khỏe toàn dân.
[23] Năm 1976 có 749 người mắc dịch hạch làm chết 6 người; 8.724 người mắc dịch tả, làm chết 5 người. Năm 1977 có 139 người mắc dịch hạch, làm 5 người chết.
[24] Kết quả: xây dựng 32 nghĩa trang liệt sĩ xã; quy tập 537 mộ liệt sĩ; 830/830 con em liệt sĩ được đi học; cứu tế xã hội 16 tấn gạo, 20.000 bộ quần áo; huy động 3.000 ngày công giúp các gia đình chính sách.
[25] Số vụ vượt biên xảy ra năm 1977 là 26 vụ, năm 1978 là 54 vụ.
[26] 11 phòng, ban gồm: Văn phòng Ủy ban, Phòng Nông nghiệp, Phòng Thủ công nghiệp, Phòng Tài chính, Phòng Thương nghiệp, Phòng Lao động, Phòng Thông tin Văn hóa, Phòng Giáo dục, Phòng Y tế, Phòng Thương binh Xã hội, Công an huyện.
[27] 20 phòng, ban gồm: 10 cơ quan nêu trên (trừ Phòng Lao động ghép vào Văn phòng Ủy ban nhân dân) và 10 cơ quan sau đây: Phòng Lâm nghiệp, Phòng Thủy lợi, Phòng Thủy sản, Phòng Lương thực, Phòng Kế hoạch - Thống kê và Vật tư, Chi nhánh Ngân hàng huyện, Bưu điện huyện, Ban Chỉ huy quân sự huyện, Tòa án nhân dân huyện, Viện Kiểm sát nhân dân huyện. Văn phòng Ủy ban nhân dân cách mạng huyện lúc đó còn có các bộ phận làm công tác nghiệp vụ chuyên môn: Lao động, tổ chức chính quyền, thanh tra, giao thông, vật giá…
[28] Trong tổng số đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã, đảng viên chiếm 18,9%, người đã tham gia trong bộ máy chế độ cũ chiếm 42,2%, đại biểu không biết chữ chiếm 13%.
[29] Báo cáo tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 2 (tức lần thứ 9), tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[30] Tài liệu đa dẫn, lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[31] Tài liệu đã dẫn, lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.