Đại hội Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 13, nhiệm kỳ 1991 - 1996
Thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 22/5/1990 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ 7 của Đảng, từ ngày 8 - 11/4/1991 Đảng bộ huyện Ninh Hòa tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ 13 (vòng 1) tại Trường Đảng. Có 168 đại biểu[1] thay mặt cho hơn 1.540 đảng viên và 70 chi, đảng bộ cơ sở về dự đại hội. Đại hội thảo luận góp ý vào dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) trình Đại hội VII của Đảng và bầu đoàn đại biểu của Đảng bộ gồm 37 đồng chí đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ 12 (vòng 1).
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII của Đảng đề ra, từ ngày 3 - 5/12/1991, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 13 (vòng 2) đã diễn ra tại Trường Đảng. Đại hội tập trung kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 12; đề ra phương hướng và nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 1991 - 1996. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII gồm 29 đồng chí. Ngày 9/12, Ban Chấp hành họp phiên đầu tiên bầu Ban Thường vụ Huyện ủy 9 đồng chí; bầu đồng chí Nguyễn Bá Cường, Tỉnh ủy viên làm Bí thư, bầu 2 đồng chí là Phạm Đài, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện và Bùi Thanh Lâm, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Phó Bí thư; bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy 5 đồng chí.
Đánh giá tình hình hơn 2 năm rưỡi (1989 - 1991), Đại hội khẳng định những kết quả đổi mới bước đầu đã đạt được là quan trọng, thể hiện sự năng động, chủ động, sáng tạo của Đảng bộ huyện trong quá trình vận dụng những quan điểm đổi mới của Đảng vào thực tiễn địa phương. Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm, tồn tại như kinh tế huyện còn mất cân đối, nhiều đơn vị quốc doanh và tập thể làm ăn thua lỗ, nợ đọng nhiều và khó có khả năng thanh toán; “tình trạng vi phạm nguyên tắc quản lý kinh tế, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tham nhũng diễn ra khá phổ biến, có vụ nghiêm trọng”[2]. Đề ra phương hướng, nhiệm vụ và xác định những mục tiêu chủ yếu đến năm 1995, Đại hội nhấn mạnh, cần tập trung phát triển kinh tế mà trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm; tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để người dân tạo ra việc làm; giữ vững quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…
Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 13 gặp nhiều thuận lợi cơ bản, như có Nghị quyết Đại hội VII của Đảng soi sáng, có những thành quả và kinh nghiệm trong 5 năm đầu đổi mới... nhưng cũng gặp không ít khó khăn, phức tạp. Khó khăn bao trùm là tình hình tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hoang mang, dao động trước sự sụp đổ của Liên Xô, sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa kéo theo sự hẫng hụt về thị trường xuất, nhập khẩu. Tình hình đất nước chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nên sản xuất và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Cùng với sự tấn công bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường ngày càng mạnh làm cho tâm trạng xã hội thêm bức xúc trước những tiêu cực xã hội xảy ra trong nước, trong tỉnh cũng như trong huyện. Trong khi đó, sau khi tỉnh Khánh Hòa được tái lập, một số nơi trong Đảng bộ tỉnh lại nổi lên tình hình mất đoàn kết, dẫn đến không tổ chức được Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 12 (vòng 2).
Tình hình trên đã tác động mạnh, nhiều chiều và làm nảy sinh tư tưởng lo lắng, thiếu tin vào sự nghiệp đổi mới của không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện. Tuy nhiên, Đảng bộ huyện vẫn thể hiện là một đảng bộ có bản lĩnh vững vàng, luôn giữ vững lập trường, quan điểm theo đường lối đổi mới, kiên quyết chống tư tưởng đa nguyên, đa đảng và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Sau khi nghiên cứu học tập các chuyên đề Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và các nghị quyết tiếp theo của Trung ương, của Tỉnh ủy, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu sâu hơn quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, thấy rõ hơn những thành tựu đổi mới và xu hướng phát triển mạnh mẽ trong những năm tới của đất nước, của tỉnh nói chung và của huyện nói riêng. Niềm tin vào sự nghiệp xây dựng đất nước theo tinh thần Đại hội VII của Đảng được củng cố. Với tinh thần đó, Đảng bộ và nhân dân toàn huyện đoàn kết vượt qua khó khăn thử thách, tổ chức các phong trào hành động cách mạng hướng đến hoàn thành thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 13 đề ra.
Tập trung đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt
Bước vào năm 1992 - năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 13, sản xuất nông nghiệp gặp thời tiết nắng hạn bất thường kéo dài và lũ lụt lớn xảy ra làm cho toàn huyện mất mùa, tổng sản lượng lương thực chỉ đạt trên 36.000 tấn. Đứng trước tình hình đó, để giữ vững sự ổn định, Huyện ủy chỉ đạo động viên nhân dân chuyển hướng cây trồng, vừa tập trung nguồn nước cho những diện tích lúa chắc ăn có năng suất cao, vừa tích cực trồng thêm gần 2.000ha cây màu lương thực và các loại đậu đỗ. Đồng thời, tìm mọi cách trồng phân tán tăng thêm diện tích cây công nghiệp ngắn ngày ở mọi nơi có điều kiện canh tác; giữ vững đàn gia súc gia cầm. Bên cạnh đó, huyện và các hợp tác xã xuất quỹ lương thực dự phòng hỗ trợ cho dân nên tuy mất mùa nhưng đời sống nhân dân vẫn ổn định. Qua thử thách đó, thể hiện Đảng bộ huyện có một bước chuyển biến mới về tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển nông nghiệp. Nhận thức về vai trò của mặt trận nông nghiệp ngày càng rõ hơn, trong chỉ đạo linh hoạt và sát thực tiễn hơn, biết chọn những công việc khả thi và trọng tâm để triển khai thực hiện. Do vậy, xét toàn diện thì nông nghiệp huyện vẫn trong xu hướng phát triển.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) về nông nghiệp và nông thôn, Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 09-CTr/HU, ngày 27/9/1993 về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn. Theo đó, Huyện ủy chủ trương tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, trước hết là chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; thúc đẩy xây dựng nông thôn mới; ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để chọn lọc những giống cây, con mới nhằm phá vỡ dần thế độc canh ở từng vùng, thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, đa dạng hóa sản phẩm… đem lại hiệu quả kinh tế. Điều kiện thuận lợi để thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là có Nghị định số 64/CP, ngày 27/9/1993của Chính phủ ban hành quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Nghị định 64/CP ra đời kịp thời và hợp lòng dân, bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình giải phóng sức sản xuất ở nông thôn huyện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, huyện gặp không ít phức tạp xảy ra. Nhiều người đòi lại ruộng đất cũ, xin ruộng cho làng, cho chùa…, nhất là đối với những đối tượng chính sách và người trước đây có ruộng đất nhiều đã đưa vào hợp tác xã… Vì vậy Đảng bộ tập trung lãnh đạo việc thực hiện Nghị định 64/CP rất sát sao, chặt chẽ và thận trọng từ việc điều chỉnh ruộng đất nhận khoán trước đây đến việc chia ruộng đất và xét, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Trước khi chia ruộng đất giao cho dân, huyện chỉ đạo các xã, thị trấn tiến hành xây dựng quy hoạch ruộng đất, xác định quỹ đất không chia để dành cho các công trình công cộng, phúc lợi của xã những năm sau này như mở rộng đường giao thông, xây dựng trường học, trụ sở làm việc… Huyện ủy và Ban Thường vụ Huyện ủy họp nhiều lần để lựa chọn phương án tối ưu, vừa thuận lợi cho dân sản xuất, vừa bảo đảm sự ổn định lâu dài và công bằng. Đến ngày 18/2/1994, Ban Thường vụ Huyện ủy họp thống nhất chủ trương: Một là, sau khi xã hoàn thành công tác quy hoạch sử dụng đất và được phê duyệt mới tiến hành điều chỉnh, chia ruộng đất. Diện tích đưa vào điều chỉnh, chia ruộng đất là diện tích hiện tại hợp tác xã đang quản lý, gồm ruộng đất của xã viên đã được hợp tác hóa và ruộng đất do hợp tác xã khai hoang sau khi đã trừ diện tích để dành cho các công trình theo quy hoạch. Hai là, để tránh tình trạng xáo trộn nhiều nhằm ổn định sản xuất, việc điều chỉnh, chia ruộng đất dựa trên cơ sở nguyên canh, không chia theo nguyên tắc có tốt có xấu, có gần, có xa mà theo nguyên tắc ruộng tốt, rộng gần được nhận diện tích ít hơn ruộng xấu, ruộng xa theo một tỷ lệ nhất định. Tỷ lệ này do nhân dân từng xã bàn bạc dân chủ và thống nhất quy định cho phù hợp với xã đó, bảo đảm sự công bằng. Ba là, đối tượng điều chỉnh, chia ruộng đất tuân thủ đúng theo tinh thần Nghị định 64/CP. Những trường hợp cụ thể, tùy vào mỗi nơi để giải quyết một cách thấu tình, đạt lý, được nhân dân thảo luận tán thành. Thời hạn giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản là 20 năm; để trồng cây lâu năm là 50 năm. Bốn là, lấy đơn vị xã làm địa bàn điều chỉnh ruộng đất (đối với xã có một hợp tác xã) và lấy hợp tác xã làm địa bàn điều chỉnh ruộng đất (đối với xã có 2 hoặc 3 hợp tác xã). Phương án điều chỉnh ruộng đất của từng đơn vị được công khai bàn bạc trong toàn dân, sau khi được nhân dân đồng tình và được cấp trên thông qua mới triển khai thực hiện. Để rút kinh nghiệm chỉ đạo cụ thể, huyện chọn xã Ninh Hà là đơn vị làm thí điểm, sau đó triển khai đại trà. Với sự quyết tâm cao của toàn Đảng bộ, tranh thủ ý kiến chỉ đạo của tỉnh, được sự đồng tình hưởng ứng mạnh mẽ của toàn dân nên đến cuối năm 1995, huyện đã cơ bản hoàn thành việc điều chỉnh ruộng đất theo Nghị định 64/CP, giao gần 9.000ha ruộng đất cho gần 20.000 hộ nông dân sử dụng sản xuất nông nghiệp.
Với cách làm nêu trên, nông dân Ninh Hòa được nhận ruộng đất để sản xuất ổn định một lần, tránh được tình trạng một hộ có nhiều thửa ruộng manh mún và phải “dồn điền, đổi thửa” sau này. Cách làm đó thể hiện sự đổi mới tư duy, sáng tạo của Đảng bộ huyện. Sau điều chỉnh và giao ruộng đất cho hộ gia đình, tình hình mọi mặt trong huyện tốt dần lên, những vướng mắc tư tưởng được giải quyết, bảo đảm sự đoàn kết ở nông thôn và trong nông dân, đặc biệt sản xuất nông nghiệp đi ngay vào thế ổn định và phát triển.
Kết quả thực hiện Nghị định 64/CP là một thắng lợi có ý nghĩa to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội. Từ đây người nông dân thực sự đã có “ruộng cày của mình”, yên tâm, tin tưởng và phấn khởi sản xuất theo chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời tạo ra sức mạnh tổng hợp giải quyết những vấn đề còn tồn đọng vướng mắc lâu nay như tình trạng lấn chiếm đất đai, nợ khê đọng kéo dài..., mở ra bước phát triển mới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng thâm canh và hiệu quả.
Biện pháp quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi vẫn là thủy lợi. Với sự hỗ trợ của tỉnh, huyện đầu tư tập trung nâng cấp, tu sửa hệ thống kênh mương thủy lợi Đá Bàn, Suối trầu; năm 1993 xây dựng thêm Đập chị Trừ (thị trấn Ninh Hòa); xây dựng thêm nhiều công trình thủy lợi nhỏ; mở rộng hệ thống kênh mương nội đồng bảo đảm tưới đến từng thửa ruộng. Năm 1995, hệ thống thủy lợi phục vụ tưới chắc cho trên 5.200ha đất canh tác lúa 2 vụ và tưới hỗ trợ để phát triển thêm diện tích một số cây công nghiệp ngắn ngày như mía, thuốc lá, đậu phụng... Chủ động chuẩn bị đủ nguyên liệu cho Nhà máy Đường Ninh Hòa, huyện chỉ đạo chuyển trên 1.500ha đất ruộng 1 vụ lúa và đất màu có năng suất thấp sang trồng mía, đưa diện tích mía năm 1995 lên trên 3.200ha, trong đó có gần 700ha giống mới được tưới hỗ trợ. Với điều kiện thủy lợi khá ổn định đã tạo ra thuận lợi để đẩy mạnh ứng dựng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Từ huyện đến xã, thị trấn hình thành mạng lưới tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm (gọi chung là khuyến nông). Công tác tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ sản xuất cho nông dân được tăng cường. Ở cơ sở, liên tục mở các lớp tập huấn phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM), tổ chức nhiều cuộc hội thảo về kỹ thuật chọn giống, thâm canh cây lúa, mía, nuôi tôm công nghiệp, kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm… tạo điều kiện thuận lợi để chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân. Hình thức bồi dưỡng mang lại hiệu quả nổi bật nhất trong công tác khuyến nông là tổ chức hội nghị (hoặc hội thảo) đầu bờ. Đây là một hình thức huấn luyện cho nông dân bằng cách trao đổi trực tiếp những kinh nghiệm, phương pháp làm ăn mới, tư duy mới trong sản xuất nông nghiệp nhằm đánh giá và giải quyết những vướng mắc ngay tại hiện trường. Người nông dân được mắt thấy, tai nghe, được chứng kiến trên thực tế kết quả áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới mà từ trước tới nay chưa từng thấy. Hoạt động khuyến nông được đông đảo nông dân hưởng ứng tạo thành phong trào tiến quân vào khoa học công nghệ khá sôi nổi. Nhiều giống lúa mới, mía mới có năng suất cao được khảo nghiệm thành công đưa vào sản xuất đại trà, nâng tỷ lệ cơ cấu diện tích trồng giống mới tăng dần lên, góp phần nâng cao năng suất cây trồng. Một số tập quán sản xuất cũng thay đổi dần. Nông dân nhiều nơi trong huyện cải tạo vườn tạp của gia đình, xây dựng vườn chuyên canh như trồng cây ăn quả, rau xanh, kết hợp nuôi heo, gà; trồng xen vụ cây họ đậu, bắp lai trên chân ruộng 2 vụ lúa, nơi có điều kiện và trình độ thâm canh cao như thị trấn Ninh Hòa, Ninh Đa, Ninh Quang, Ninh Giang… làm 3 vụ lúa/năm. Năm 1995, năng suất lúa 2 vụ đạt 49 tạ/ha/vụ; giống mía mới có năng suất cao đạt từ 100 - 120 tấn/ha chiếm 21,4% tổng diện tích mía; nhiều loại vật nuôi giống tốt như bò Sind, heo ngoại hướng nạc, vịt siêu trứng… được nông dân tiếp nhận có hiệu quả. Ngoài ra, năm 1993 - 1994 trong huyện có đưa một số cây, con mới vào sản xuất như chuối Đài Loan xuất khẩu, gà công nghiệp… nhưng không thành công.
Sự chuyển dịch bước đầu cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã mang lại nhiều kết quả. Giá trị trên một đơn vị diện tích tăng lên; sản phẩm nông nghiệp phong phú hơn. Tổng diện tích trồng lúa có giảm do chuyển sang trồng cây công nghiệp, nhưng tổng sản lượng lương thực vẫn tăng lên. Năm 1995 đạt trên 58.600 tấn, tăng trên 6.000 tấn so với 1991. Chăn nuôi ổn định, đàn trâu, bò, heo đều tăng khá. Tổng đàn heo có 32.000 con, đàn bò 27.400 con và đàn trâu 4.200 con. Bên cạnh đó, các hoạt động dịch vụ khâu làm đất, thu hoạch, chế biến nông sản theo hướng cơ giới hóa… được khuyến khích phát triển. Nông dân tích cực mua sắm, mỗi xã cũng có vài chục máy cày, bừa nhỏ, máy tuốt lúa… thay thế cho sức kéo bằng trâu, bò và sức người. Đây là bước phát triển mới, giải phóng được “đôi vai, đôi chân” của người nông dân ở nông thôn khá rõ nét, góp phần thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Gắn liền với thực hiện Nghị định 64/CP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, Đảng bộ quan tâm củng cố các hợp tác xã, chủ yếu là củng cố hoạt động của ban quản lý các hợp tác xã nông nghiệp. Sau khi giao ruộng đất cho hộ gia đình chủ động sản xuất, việc điều hành của ban quản lý hợp tác xã chuyển sang phương thức hợp tác giữa hợp tác xã và hộ gia đình. Tuy nhiên, việc thực hiện các phương thức hợp tác vẫn không có hiệu quả. Phần lớn hợp tác xã không còn trích lập được quỹ, vốn kinh doanh mất dần. Xuất phát từ tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo nghiên cứu phương án tiếp tục củng cố các hợp tác xã. Trước hết, tiến hành kiểm kê nắm lại tài sản, vốn quỹ, phân loại hợp tác xã. Qua phân loại 29 hợp tác xã nông nghiệp năm 1994 thì có 8 hợp tác xã khá (chiếm 26%)[3]; 11 hợp tác xã trung bình (chiếm tỷ lệ 41%); 10 hợp tác xã yếu (chiếm tỷ lệ 33%). Trên cơ sở đó tiến hành đổi mới nội dung và phương thức quản lý, chuyển các hợp tác xã khá và trung bình sang làm một số dịch vụ cần thiết, lấy mục đích phục vụ cho kinh tế hộ phát triển làm nội dung chủ yếu trong hoạt động, vốn quỹ được giao khoán bảo đảm phải bảo tồn được vốn và có lãi. Đối với các hợp tác xã yếu kém, không còn điều kiện để hoạt động thì tìm biện pháp xử lý sớm.
Tháng 2/1995, huyện chỉ đạo lấy Hợp tác xã Ninh Hà làm điểm thực hiện đổi mới nội dung và phương thức quản lý, sau đó, nhanh chóng triển khai ra toàn huyện. Thông qua đại hội, xã viên giao trách nhiệm cho chủ nhiệm quản lý, bảo toàn số vốn hợp tác xã; bộ máy quản lý được tinh gọn có khả năng bám sát cơ chế thị trường, hoạt động nhạy bén. Ban quản lý hợp tác xã tổ chức nhiều dịch vụ gồm thủy nông, tín dụng, vật tư nông nghiệp, khuyến nông... nhằm đáp ứng nhu cầu của kinh tế hộ. Sau khi đổi mới, hầu hết các hợp tác xã làm tốt công tác khuyến nông và dịch vụ thủy nông. Mỗi đội sản xuất đều có tổ nông giang theo dõi tưới tiêu cho các cánh đồng, tránh được tranh chấp về sử dụng nước giữa hộ này với hộ khác, xứ đồng này với xứ đồng khác. Dịch vụ thủy nông nhìn chung phù hợp với nguyện vọng của người nông dân. Tuy nhiên, trừ một số hợp tác xã mạnh, hầu hết các hoạt động kinh doanh, dịch vụ khác đối với phần lớn hợp tác xã đều không đạt hiệu quả, không bảo toàn được vốn. Mặt khác, ở một số đơn vị, cấp ủy và chính quyền có một số chủ trương, quyết định sai nguyên tắc, lấy vốn, quỹ của hợp tác xã để làm đường giao thông, xây dựng hệ thống điện... Chủ trương đó càng làm cho hợp tác xã thêm khó khăn trong hoạt động kinh doanh, dịch vụ. Một số hợp tác xã vay vốn ngân hàng kinh doanh cũng không hiệu quả, không có khả năng thanh toán. Như vậy, qua nhiều lần củng cố, đổi mới, đa số hợp tác xã nông nghiệp vẫn bế tắc về nội dung và phương thức quản lý, kinh doanh. Trên thực tế, nhiều đơn vị không còn hoạt động, chỉ tồn tại trên danh nghĩa nhưng chưa giải thể được do thiếu sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên.
Về lâm nghiệp, đáng chú ý nhất là công tác trồng rừng được Đảng bộ lãnh đạo tạo ra bước phát triển vượt bậc so với những giai đoạn trước. Thực hiện tốt chính sách giao đất cho dân để trồng rừng đã tạo ra động lực mới phát triển vốn rừng. Sôi nổi nhất là trồng rừng PAM được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, trong đó có một bộ phận cán bộ, công nhân viên chức tham gia. Trong 5 năm (1991 - 1995) toàn huyện trồng được trên 4.500ha, chủ yếu là bạch đàn và keo lá tràm, tỷ lệ sống đạt 80 - 90%. Ngoài ra, nhân dân còn tự trồng rừng trung bình mỗi năm gần 100ha. Trên vùng ven núi, nhân dân phát triển khá mạnh mô hình kinh tế vườn rừng, vườn đồi, trồng cây ăn quả, trồng đào lộn hột kết hợp với chăn nuôi bò. Ven núi các xã Ninh Tây, Ninh Sim, Ninh Thượng, Ninh Tân, Ninh Ích, Ninh Lộc, Ninh An, Ninh Vân, Ninh Phước... đều có nhiều vườn rừng. Dần dần, nhiều nơi xuất hiện một mô hình kinh tế mới là kinh tế trang trại. Nhiều trang trại có đàn bò từ 30 - 50 con, một số từ 100 - 150 con, trồng nhiều ha rừng và vườn rừng. Những trang trại này hàng năm thu lãi hàng chục, hàng trăm triệu đồng, trở nên khá giả. Năm 1993 - 1995, các đơn vị Lâm trường Ninh Hòa, Nông trường Bò giống miền Trung, Nông trường Thuốc lá Dục Mỹ được giao thêm đất và triển khai các dự án theo Quyết định 327/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (thường gọi tắt là Chương trình 327), đầu tư sản xuất nông - lâm kết hợp. Các dự án đã góp phần định canh, định cư cho 254 hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Ninh Tây, Ninh Tân. Kể từ đây, đồng bào dân tộc thiểu số trong huyện làm ăn ổn định, cơ bản chấm dứt tình trạng du cư, du canh. Những kết quả trên khẳng định chủ trương giao đất, khoán rừng có sự hỗ trợ cho dân của Đảng và Nhà nước là phù hợp với thực tiễn, được nhân dân trong huyện đồng tình, hưởng ứng thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả. Về khai thác gỗ, sau khi đóng cửa rừng khu vực Đá Bàn, năm 1992 huyện mở đường lên khu vực Ea Krong Rou, mỗi năm khai thác trên 5.000m3. Tuy nhiên, các biện pháp quản lý, bảo vệ rừng thiếu đồng bộ nên nạn khai thác gỗ lậu, phá rừng bừa bãi vẫn còn diễn ra nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái.
Đối với vùng kinh tế biển và ven biển, trong những năm 1992 - 1995 có sức thu hút đầu tư khá hấp dẫn đối với nhân dân. Sôi nổi nhất là đầu tư nuôi tôm xuất khẩu và sản xuất tôm pốt (tôm giống). So với các việc làm khác, có thể nói lúc đó nuôi tôm mang lại lợi nhuận cao hơn nên thu hút người lao động trong và ngoài huyện, trong đó có một bộ phận khá đông cán bộ, công chức, viên chức tham gia. Từ năm 1993, người nuôi tôm tiếp thu nhiều kỹ thuật nuôi thâm canh với mật độ thả nuôi cao. Quy trình nuôi tôm khoa học hơn từ khâu chọn tôm giống, xử lý môi trường nuôi, phòng trừ dịch bệnh, sử dụng máy móc, dàn đập nước tạo ôxy đến đầu tư thức ăn công nghiệp… được phổ biến đến người nuôi tôm. Nhờ đó, năng suất tăng lên, hiệu quả mang lại rất cao. Bên cạnh con tôm nuôi là chính, đã xuất hiện ngày càng nhiều diện tích đìa cơ cấu thêm vật nuôi sau thời vụ nuôi tôm như cua, cá… tăng thêm thu nhập. Ở hầu hết các xã ven biển đều có nhiều diện tích mới khai hoang làm đìa nuôi tôm, nhất là vùng Ninh Thọ, Ninh Diêm, Ninh Hải… Xung quanh vùng đầm Nha Phu, trên 200 ha ruộng lúa 1 vụ bị nhiễm mặn được chuyển sang làm đìa tôm. Tổng diện tích đìa tôm xuất khẩu năm 1995 lên trên 1.150ha. Trên địa bàn huyện, nhiều người tiếp thu nhanh tiến bộ kỹ thuật phát triển được 16 cơ sở sản xuất tôm giống, hàng năm cung cấp ra thị trường trên 21 triệu con giống. Tuy nhiên, việc phát triển vùng đìa và cơ sở sản xuất tôm giống chưa được quy hoạch nên những năm sau này môi trường bị ô nhiễm, dẫn đến xảy ra dịch bệnh kéo dài trên diện rộng, rất khó khống chế và dập tắt. Về đánh bắt, nhân dân tiếp tục đầu tư năng lực tàu thuyền tiếp tục tăng lên, năm 1995 số lượng tàu thuyền máy tăng khá với tổng công suất gần 5.000cv, tăng gấp 1,7 lần so với năm 1991. Tuy nhiên, ngư dân Ninh Hòa đến thời điểm 1995 mới bắt đầu có tàu đi đánh bắt xa bờ nhưng vẫn chưa có tàu lớn đi đánh bắt dài ngày. Trong khi đó nguồn lợi gần bờ giảm dần nên sản lượng cá không nhiều, mỗi năm đánh bắt được trên 3.500 tấn. Các sản phẩm hải sản chế biến tăng nhanh, nhất là hải sản xuất khẩu như cá cơm khô, sứa khô… Sản xuất muối hạt hàng năm không ổn định, tùy thuộc nhiều vào thời tiết, năm 1995 đạt sản lượng 51.000 tấn, tăng 40% so năm 1991.
Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cũng có những bước phát triển mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa VII) về phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 1992, thực hiện Nghị định số 388/HĐBT, ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy chế về thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh tiến hành đăng ký thành lập doanh nghiệp. Năm 1993 -
1995, huyện bàn giao tất cả đơn vị thuộc huyện đã đăng ký lập doanh nghiệp nhà nước cho tỉnh quản lý như Xí nghiệp Gạch ngói Ninh Hòa, Xí nghiệp Muối Diêm Hải, Xí nghiệp Xây dựng, Xí nghiệp Nước đá Ninh Hòa… Những đơn vị không đăng ký lập doanh nghiệp được thì tiến hành giải thể như Công ty Chăn nuôi… Sau khi bàn giao cho tỉnh, nhiều đơn vị mở rộng thêm quy mô sản xuất và ứng dụng công nghệ mới nâng cao chất lượng sản phẩm. Tháng 4/1994, Nhà máy Đường Ninh Hòa đầu tư xây dựng mở rộng và đổi mới công nghệ, đưa quy mô lên 1.250 tấn mía/ngày. Đến tháng 4/1996, Nhà máy chính thức đi vào hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân yên tâm gắn bó với nghề trồng mía. Năm 1994, tỉnh đầu tư cho Xí nghiệp Gạch ngói Ninh Xuân xây dựng nhà máy gạch tuy nen đầu tiên trong tỉnh với công suất 25 triệu viên gạch, ngói/năm. Với hai xí nghiệp quốc doanh và gần 200 cơ sở tư nhân quy mô nhỏ dọc theo quốc lộ 26 thuộc khu vực xã Ninh Xuân đã định hình rõ nét cụm công nghiệp sản xuất gạch, ngói tập trung. Cụm này cùng với Nhà máy Xi măng Hòn Khói khẳng định sản xuất vật liệu xây dựng là thế mạnh của công nghiệp trên địa bàn huyện.
Trong sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, thời gian này có sự thay đổi lớn về tổ chức sản xuất. Đến 1995, hầu hết các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đã giải thể, chỉ còn lại 2 đơn vị tồn tại dưới hình thức mới là Hợp tác xã Vĩnh Phước và Hợp tác xã Chế biến lâm sản Ninh Xuân; sau 1995 chỉ còn lại Hợp tác xã Vĩnh Phước. Phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khá linh hoạt. Ban quản lý hợp tác xã có nhiệm vụ tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm. Khi có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp tác xã chỉ đảm nhận một số khâu công việc mà hộ gia đình không đủ điều kiện, còn lại thì xã viên đưa về sản xuất tại hộ gia đình và giao nộp sản phẩm. Kinh tế gia đình, cá thể, tư nhân cũng tồn tại dưới hình thức mới, linh hoạt, phổ biến là hình thức hộ gia đình và hợp tác từ 3 - 5 người hùn vốn với nhau để sản xuất. Hình thức này chủ yếu sử dụng công nghệ thủ công truyền thống để chế biến sản phẩm như đường, xay xát gạo, các loại bánh, kẹo, mắm, cá, hàng mộc, hàng mỹ nghệ mây tre lá, vôi, đồ gốm, gạch, ngói v.v... Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước có trên 550 cơ sở sản xuất dần dần thích ứng với cơ chế mới, bước đầu ổn định và có mặt phát triển ở quy mô nhỏ lẻ. Tuy quy mô nhỏ nhưng thành phần kinh tế này luôn đạt giá trị sản xuất lớn, chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp, năm 1995 chiếm trên 66%[4]. Sản phẩm ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phần lớn tiêu thụ nội địa, có một số xuất khẩu thì chủ yếu là dưới dạng bán nguyên liệu. Năm 1995, sản phẩm chủ yếu gồm trên 54 triệu viên gạch, 21 triệu viên ngói, 1.200 tấn xi măng, gần 5.000 tấn đường các loại, 2 triệu lít nước mắm, 2.500 m3 gỗ mộc dân dụng.
Về ngành dịch vụ, kinh tế nhà nước tham gia một số dịch vụ quan trọng như dịch vụ thủy lợi có Xí nghiệp Quản lý Thủy nông, dịch vụ thủy sản có Công ty Thủy sản… Năm 1993, các đơn vị này đều bàn giao cho tỉnh quản lý. Các công ty khác kinh doanh thua lỗ, huyện tiến hành giải thể như Công ty Thương nghiệp, Công ty Ngoại thương, Công ty Lương thực, Công ty Chiếu bóng… Các loại hình hợp tác xã dịch vụ như mua bán, tín dụng… đều giải thể, chỉ còn lại 2 hợp tác xã vận tải cơ giới nhẹ. Thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, hộ gia đình phát triển nhanh chóng chiếm lĩnh phần lớn một số thị trường trong huyện như dịch vụ buôn bán lẻ, dịch vụ vận tải hàng hóa, dịch vụ ăn uống… với tổng số trên 3.170 hộ được cấp giấy phép kinh doanh. Kết quả đó tạo thêm sự đa dạng trong hoạt động kinh tế trên địa bàn huyện, góp phần giải quyết việc làm và đời sống xã hội thêm sôi động, ổn định.
Những kết quả về phát triển kinh tế giai đoạn 1991 - 1995 phản ảnh chính sách kinh tế nhiều thành phần đã và đang tạo động lực mới cho sự phát triển trên địa bàn huyện. Các thành phần kinh tế đều có xu hướng khai thác tốt hơn, hiệu quả hơn tiềm năng nguồn vốn, lao động, đất đai và lợi thế từng vùng, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá rõ nét theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong huyện từng bước hình thành ổn định các vùng sản xuất tập trung gồm vùng lúa, vùng mía, vùng đìa nuôi tôm xuất khẩu, vùng sản xuất muối, vùng sản xuất gạch ngói… Mặc dù kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng nhưng so với các giai đoạn trước thì đó là kết quả cao nhất và tạo ra tiền đề phát triển mạnh cho các năm sau.
Nhờ kinh tế tăng trưởng nên từ năm 1991 - 1995, ngân sách huyện luôn thu đạt và vượt kế hoạch. Với kinh phí đầu tư ngân sách của tỉnh, Trung ương, huyện, xã và đóng góp của nhân dân, nhiều công trình quan trọng trong huyện được xây dựng và nâng cấp phục vụ sản xuất và đời sống, như: Hoàn thiện hệ thống thủy lợi; chỉnh trang đô thị, hình thành khu dân cư Bắc thị trấn, mở rộng và nâng cấp đường Trần Quý Cáp, đường Nguyễn Huệ, đường từ quốc lộ 1 vào Bệnh viện huyện; xây dựng hệ thống cấp nước sạch cho khu vực thị trấn và một số vùng nông thôn; các trục đường giao thông nông thôn, các công trình điện nông thôn (năm 1995 có 21/26 xã, thị trấn có điện sản xuất và sinh hoạt)… Trong quá trình xây dựng các công trình, điểm nổi bật là Đảng bộ đã vận động và được nhân dân ủng hộ chủ trương giải tỏa, giải phóng mặt bằng để mở rộng mặt đường. Qua vận động, nhiều tuyến đường, kể cả đường Nguyễn Huệ, Trần Quý Cáp, nhân dân không đòi hỏi đền bù giải tỏa, huyện chỉ chi hỗ trợ dân một phần nhỏ do ngân sách huyện khó khăn. Đặc biệt trong giai đoạn này, huyện xây dựng và đưa vào sử dụng chợ mới Ninh Hòa, đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa bức xúc của dân lúc bấy giờ. Đây là công trình trọng điểm của huyện, được xây dựng bằng 100% vốn ngân sách huyện với cách làm mới. Sau khi quy hoạch xây dựng chợ mới nối thông với chợ Ninh Hòa cũ, Huyện đội di dời trụ sở ra khu quy hoạch đèo Hà Thanh. Tuy ngân sách huyện khó khăn nhưng Ban Thường vụ Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện rất quyết tâm thực hiện. Sau nhiều cuộc họp thảo luận phương thức xây dựng và huy động vốn, Ban Thường vụ Huyện ủy thống nhất chủ trương: Đây là công trình do huyện tự lực thực hiện từ đầu tư, thiết kế, thi công…; giao cho Ủy ban nhân dân huyện trực tiếp chỉ đạo thực hiện xây dựng mà không thành lập ban quản lý công trình như thường lệ trước đây; sau khi hoàn thành thì cũng trực tiếp chỉ đạo bán đấu giá các công trình nhà ở bao xung quanh chợ cho dân để tạo vốn, ít nhất đủ trả chi phí cho công trình. Đối với các sạp buôn bán trong chợ thì bán giá phù hợp với sức mua của dân. Lần đầu tiên huyện tổ chức bán đấu giá công trình xây dựng cho dân đạt kết quả tốt đẹp, bên mua bên bán đều thỏa mãn. Số tiền bán đấu giá các dãy nhà ở không những đủ chi phí đầu tư cho công trình chợ theo yêu cầu đề ra mà còn có dư cho ngân sách. Năm 1991, chợ mới được khởi công xây dựng. Ngay khi đưa vào sử dụng năm 1994, các sạp buôn bán đã lấp gần đầy chợ mới. Đây là một cách làm mới, dùng công trình để đổi lấy công trình, thể hiện sự năng động, sáng tạo của tập thể lãnh đạo huyện.
Từ kinh nghiệm đó, trước nhu cầu phát triển nhưng ngân sách hạn hẹp, ngày 5/8/1994, Ban Thường vụ Huyện ủy cho chủ trương “đổi đất lấy công trình” đối với cấp xã, chọn xã Ninh Quang làm thí điểm tổ chức bán đấu thầu một số lô đất ven quốc lộ 1 (đã được tỉnh phê duyệt xây dựng khu dân cư), để lấy tiền làm đường giao thông nông thôn. Đây là một cách làm mới táo bạo, đột phá nhằm góp phần tạo ra ngân sách, mở ra cho huyện và cơ sở một hướng đi mới phát triển mạnh trong cơ chế thị trường. Nhờ đó, các chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn gồm điện, đường, trường, trạm được khởi động và có tốc độ phát triển khá nhanh, góp phần hình thành các trung tâm thị tứ, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống nhân dân, làm thay đổi nhanh chóng diện mạo cảnh quan từ trung tâm huyện lỵ đến làng xã nông thôn.
Kinh tế phát triển đã tác động sâu sắc đến tình hình văn hóa - xã hội. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) và Chương trình hành động số 09-CTr/TU, ngày 12/4/1993 của Tỉnh ủy, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ngày 8/6/1993 đề ra chương trình hành động thực hiện một số nhiệm vụ trên các lĩnh vực: Văn hóa, văn nghệ; giáo dục và đào tạo; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; dân số và kế hoạch hóa gia đình. Đó là những bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới, là vấn đề hết sức quan trọng nhằm phát triển con người - với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của sự nghiệp đổi mới trên địa bàn huyện. Ban Thường vụ Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện cụ thể hoá chương trình bằng nhiều văn bản chỉ đạo từng vấn đề cụ thể, đưa vào kế hoạch hàng năm để thực hiện. Bên cạnh vốn ngân sách tỉnh đầu tư, huyện giành 11% tổng chi ngân sách huyện để đầu tư trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Từ năm 1993, tình hình văn hóa - xã hội thực sự có nhiều chuyển biến rõ nét, khắc phục dần đà giảm sút trong những năm đầu sau đổi mới. Huyện tập trung đầu tư nâng cấp, xây dựng mới và bổ sung trang thiết bị cơ sở vật chất cho ngành văn hóa. Năm 1993, thành lập Nhà Truyền thống cách mạng huyện, Nhà Thiếu nhi huyện. Năm 1994, Nhà Văn hóa huyện được tu sửa nâng cấp, đầu tư thêm trang bị bên trong; nâng cấp công suất đài tiếp hình huyện lên 100W và đài truyền thanh FM huyện lên 150W. Nhiều đài truyền thanh xã được xây dựng mới hoặc khôi phục, nâng tổng số đài trong huyện lên 18 đài. Tỉnh cũng xây dựng một đài tiếp sóng truyền hình tỉnh tại đèo Hà Thanh. Năm 1995, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt trên 85%, sóng FM 100% địa bàn dân cư toàn huyện. Đi đôi với tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, Đảng bộ quan tâm lãnh đạo nâng cao cả về số lượng và chất lượng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao theo hướng xã hội hóa, đa dạng hóa và lành mạnh, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân. Điểm nổi bật là các hoạt động đó hướng mạnh về cơ sở góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa theo tinh thần Chỉ thị 60/CT-UB, của Ủy ban nhân dân tỉnh. Từ năm 1993, huyện bắt đầu khởi động phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa. Các làng đăng ký phấn đấu trở thành làng văn hóa tiến hành xây dựng hương ước hoặc quy ước làng, góp phần làm cho công tác tự quản ở xóm làng đi vào nền nếp, nhân dân đoàn kết, gắn bó tình làng, nghĩa xóm. Một số nơi đã xuất hiện những nhân tố mới như gia đình chỉ có 1 - 2 con, gia đình không có con thất học, trẻ em được tiêm chủng mở rộng đầy đủ, gia đình mẹ khỏe, con ngoan... Mặc dù mới đạt được các tiêu chí riêng lẻ nhưng nó đánh dấu bước phát triển mới về chất lượng xây dựng gia đình ở nông thôn. Đó cũng là cơ sở thực tiễn để huyện xây dựng tiêu chuẩn của gia đình văn hóa, làng văn hóa. Năm 1993, hội diễn văn nghệ quần chúng toàn huyện được khôi phục lại, thu hút từ 10 - 16 đội tham gia. Một số đội văn nghệ cơ sở hoạt động khá sôi nổi, có đội phục vụ rộng rãi đến các xã trong huyện như đội văn nghệ thị trấn Ninh Hòa, Hội Cựu chiến binh huyện... Ngoài ra, mỗi năm huyện đón bình quân 40 đoàn nghệ thuật trong và ngoài tỉnh về biểu diễn ở trung tâm huyện lỵ và xuống đến các cụm dân cư. Các cuộc thi với nhiều chủ đề trên lĩnh vực văn hóa liên tục được tổ chức, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Năm 1992 có cuộc thi ảnh thời sự - nghệ thuật với chủ đề “Ninh Hòa quê mẹ ngàn thương”; 1993 tổ chức cuộc thi ảnh về lịch sử Ninh Hòa với nội dung “thiên nhiên và con người Ninh Hoà qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước”; 1994 tổ chức ngày hội văn hóa toàn huyện… Trong 2 năm 1994 - 1995, lần đầu tiên huyện xây dựng được 4 bộ phim phóng sự, tuyên truyền về quê hương Ninh Hòa anh hùng và một số phim phóng sự khác được phát sóng trên kênh KTV và VTV3. Sau khi xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ Ninh Hòa giai đoạn 1930 - 1945 và giai đoạn 1945 - 1954, Ban Thường vụ Huyện ủy cho xuất bản tiếp cuốn Lịch sử Đảng bộ Ninh Hòa giai đoạn 1954 - 1975 vào năm 1995. Các hoạt động văn nghệ, chiếu phim, thông tin cổ động, truyền thông dân số - kế hoạch hóa gia đình, hoạt động thể dục thể thao tổ chức các giải bóng đá, bóng chuyền, hoạt động của các câu lạc bộ dưỡng sinh, võ thuật v.v… được đưa xuống cơ sở thường xuyên. Trong phong trào thể thao, bên cạnh những bộ môn truyền thống, một số phong trào mới nổi lên như bi-a, bi lắc, cầu lông... thu hút nhiều người tham gia. Một số hoạt động văn hóa tâm linh như lễ hội đình làng “Xuân Thu nhị kỳ” cũng dần được khôi phục lành mạnh. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được đẩy lên cao trào vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc hoặc có sự kiện chính trị quan trọng như đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân… Nổi bật nhất là các hoạt động kỷ niệm trong 2 năm 1994 - 1995. Đặc biệt là sự kiện Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 3 tập thể là: Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Ninh Hòa (ngày 20/12/1994); Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Ninh An (ngày 20/12/1994); Ban An ninh (nay là Công an) Ninh Hòa nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Công an nhân dân (19/8/1945 - 19/8/1995). Ngày 12/1/1995, tại Sân vận động 16/7, huyện tổ chức lễ mít tinh, diễu hành và đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, có trên 1 vạn người về dự lễ. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa to lớn, động viên Đảng bộ, quân và dân toàn huyện tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang trong kháng chiến, vượt qua mọi khó khăn thử thách, giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Tất cả những hoạt động văn hóa, văn nghệ và sự kiện nêu trên làm sống động lại khí thế văn hóa sôi nổi sau một số năm lắng xuống khi xóa bỏ bao cấp, góp phần nâng cao lòng tự hào đối với quê hương, đất nước, củng cố niềm tin vào Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Bên cạnh những chuyển biến đó, hoạt động văn hóa, thông tin còn một số tồn tại, khuyết điểm. Nổi lên là về mặt quản lý nhà nước không theo kịp đà phát triển đa dạng về văn hóa trong kinh tế thị trường. Tình trạng lưu hành lén lút các văn hóa phẩm không lành mạnh, nạn mê tín dị đoan, cờ bạc, số đề, vỡ huê hụi diễn ra phức tạp, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, năm 1992, huyện bàn giao ngành giáo dục cho tỉnh quản lý theo hệ thống ngành dọc. Mạng lưới trường lớp trên địa bàn huyện được quy hoạch lại theo cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân. Đối với giáo dục mầm non, tất cả trường, lớp mẫu giáo, mầm non công lập ở các xã, thị trấn đều chuyển sang hình thức dân lập; thời điểm này, chủ yếu thu hút các cháu 5 tuổi ra lớp, chiếm trên 77,8% tổng số cháu trong độ tuổi mẫu giáo. Bên cạnh đó, các nhà trẻ, nhóm trẻ, mẫu giáo gia đình, lớp học tình thương do tư nhân mở xuất hiện ngày càng nhiều. Đối với giáo dục phổ thông được sắp xếp lại: Trường phổ thông cơ sở được tách ra thành 2 cấp là tiểu học và trung học cơ sở; trường phổ thông trung học đổi tên thành trung học phổ thông. Để tách trường phổ thông cơ sở, huyện tu sửa, xây dựng thêm một số trường, lớp theo hướng trường tiểu học riêng cho mỗi xã; còn trung học cơ sở ở những xã quy mô học sinh chưa đủ thì trước mắt ghép trường liên xã. Đối với trung học phổ thông, năm 1993, Trường Phổ thông trung học Bán công cấp II+III Trần Cao Vân được thành lập; năm 1994, tỉnh đầu tư xây dựng mới Trường Trung học chuyên ban Nguyễn Trãi. Đây là một trong những trường trong tỉnh thực hiện chủ trương phân ban ở cấp trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo (về sau đổi thành Trường Trung học phổ thông Nguyễn Trãi). Ngoài hệ chính quy, các trường bậc trung học còn tổ chức các lớp học hệ B. Đến 1995, hệ thống trường học phổ thông gồm có 40 trường, trong đó: 18 trường tiểu học, 4 trường trung học cơ sở, 15 trường phổ thông cơ sở (cấp I+II), 2 trường trung học phổ thông cấp II+III và 1 trường trung học phổ thông. Quy mô học sinh tăng đều từ năm 1991 - 1995 ở tất cả các bậc học. Năm học 1995 - 1996, tổng số học sinh phổ thông có trên 34.580 em, trong đó học sinh trung học phổ thông là 1.956 em. Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện mở các lớp bổ túc văn hóa tập trung cho mọi đối tượng, trong đó có một số lớp dành cho con em đồng bào dân tộc thiểu số; một số lớp học cho đối tượng là cán bộ công chức, viên chức. Năm 1992, huyện thực hiện Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, đến 1995 có trên 5.300 trẻ dưới 15 tuổi được phổ cập và huyện đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học. Quan tâm giáo dục hướng nghiệp, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, từ năm 1993, Trung tâm Giáo dục kỹ thuật tổng hợp dạy nghề huyện mở nhiều lớp, thu hút hàng ngàn học sinh phổ thông, chủ yếu là trung học cơ sở học nghề. Ngoài ra còn có nhiều cơ sở tư nhân dạy nghề, lớp học ngoại ngữ, tin học... cho mọi lứa tuổi.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, các bậc học, cấp học có nhiều đổi mới bước đầu về mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Một số biện pháp mới được thực hiện như phân ban ở Trường Trung học phổ thông Nguyễn Trãi; xây dựng trường chuyên, lớp chọn từ tiểu học đến trung học phổ thông[5]; thực hiện chương trình giáo dục công nghệ đối với bậc tiểu học; chương trình cải cách mẫu giáo 3 tuổi, chương trình 26 tuần cho mẫu giáo 5 tuổi; chương trình xóa mù chữ lồng ghép với các lớp khuyến nông... Thực hiện xã hội hóa, dân chủ hóa giáo dục gắn với cộng đồng dân cư trên địa bàn, ngày 21/10/1994, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 08-CT/HU chỉ đạo tổ chức đại hội giáo dục cấp cơ sở. Sau đại hội giáo dục, các hội khuyến học ở cơ sở được hình thành, nhiều nơi thu hút đông đảo lực lượng xã hội quan tâm chăm lo sự nghiệp giáo dục, điển hình như xã Ninh Phụng, Ninh Đa…
Tất cả những đổi mới trên tạo được một số chuyển biến nhất định. Việc xã hội hóa, đa dạng hóa giáo dục giảm bớt phần nào gánh nặng của ngân sách. Đồng thời tạo ra môi trường mới thuận lợi cho việc lựa chọn học tập nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề phù hợp với hoàn cảnh của mỗi đối tượng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Kết quả thi tốt nghiệp bậc tiểu học hàng năm đạt 90 - 95%, trung học cơ sở từ 83 - 90%, trung học phổ thông trên 90%. Tuy nhiên, “Đánh giá chung thì chất lượng bậc tiểu học được nâng lên đều và chắc, song bậc trung học chưa có bước tiến bộ rõ nét”[6], thiếu sự ổn định vững chắc và không đồng đều giữa các vùng trong huyện, nhất là trung học cơ sở. Năm 1994, có xã tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp trung học cơ sở rất thấp: Ninh Ích chỉ đạt 19,4%, Ninh Thượng 37,5%, Ninh Sim 46,4%. Toàn huyện vẫn còn 15 trường phổ thông cơ sở chưa tách được tiểu học, nguyên nhân chủ yếu là thiếu kinh phí. Số học sinh từng bậc học so với số em trong độ tuổi đi học cũng chiếm tỷ lệ thấp như mẫu giáo 3 - 4 tuổi chỉ chiếm từ 3,2 - 5%, tiểu học chiếm 91%, trung học cơ sở chiếm 37% so với tổng số em trong độ tuổi. Tình trạng thiếu giáo viên ngoại ngữ, giáo viên tin học chậm được khắc phục. Việc dạy thêm, học thêm bắt đầu có xu hướng phát triển; một bộ phận giáo viên nặng về “dạy chữ”, thiếu quan tâm đến việc “dạy người”...
Về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, cuối năm 1992, huyện bàn giao hệ thống y tế cho tỉnh quản lý theo ngành dọc. Nhiệm vụ quan trọng là đổi mới các hoạt động y tế nhằm củng cố, nâng cao chất lượng của cả hệ điều trị và dự phòng. Theo hướng đó, những trạm y tế xã cũ nát được xây mới, số còn lại đều được nâng cấp, sửa chữa. Năm 1995, hệ thống y tế huyện gồm có Bệnh viện huyện, 4 phòng khám khu vực và 26 trạm y tế xã. Hệ thống này được tổ chức quản lý thống nhất về một đầu mối là Trung tâm Y tế huyện. Bên cạnh đó có hàng chục phòng khám bệnh tư nhân, đại lý bán thuốc tân dược… được mở ra. Từ năm 1993, các bệnh viện tỉnh bắt đầu tiến hành chuyển giao về cho tuyến huyện nhiều kỹ thuật y tế cao. Đội ngũ y, bác sĩ được quan tâm bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ[7]. Năm 1995, Bệnh viện huyện thực hiện thu một phần viện phí đối với người không có thẻ bảo hiểm y tế, người không thuộc đối tượng miễn nộp một phần viện phí và người có thẻ bảo hiểm y tế nhưng khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu riêng theo tinh thần Nghị định số 95/CP, ngày 27/8/1994 của Chính phủ. Nhiều chương trình y tế quốc gia được triển khai có hiệu quả như chương trình phòng chống sốt rét, các chương trình bảo vệ trẻ em (tiêm chủng mở rộng 6 bệnh truyền nhiễm, chống suy dinh dưỡng, uống vitamin A, phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (chương trình ARI)… Ở tuyến xã, tổ chức quốc tế UNICEF tài trợ một số trang thiết bị dụng cụ y tế, thuốc men cho các trạm xá. Những cố gắng trên đã góp phần nâng cao chất lượng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Chất lượng khám và điều trị ở tuyến huyện có nhiều tiến bộ rõ rệt, nhiều trường hợp trước đây phải chuyển lên tuyến trên nay đã được chữa trị tại huyện, bước đầu tạo được sự phấn khởi, tin tưởng của nhân dân. Tuy nhiên chất lượng khám chữa bệnh ở các trạm xá xã chưa nâng lên đáp ứng được vai trò là đơn vị kỹ thuật đầu tiên của ngành y tế. Kinh phí cho y tế quá hạn hẹp so với yêu cầu. Đội ngũ bác sĩ vẫn còn quá ít, năm 1995 toàn huyện có 31 bác sĩ, bình quân 6.500 dân mới có 1 bác sĩ. Y học cổ truyền mặc dù được quan tâm củng cố nhưng còn hạn chế. Công tác quản lý nhà nước đối với hành nghề y tế tư nhân thiếu chặt chẽ.
Trước năm 1992, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của huyện có nhiều yếu kém và là huyện có tỷ suất sinh cao nhất tỉnh. Không những quần chúng mà ngay trong đội ngũ cán bộ chủ chốt và đảng viên từ huyện đến cơ sở đều có nhiều gia đình sinh con thứ 3, thứ 4 trở lên. Từ thực trạng yếu kém đó, ngày 8/2/1993, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 02-CT/HU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Ban dân số - kế hoạch hóa gia đình huyện và ở 26 xã, thị trấn được thành lập. Mạng lưới tổ chức công tác dân số - kế hoạch hóa gia toàn huyện được hình thành lúc ban đầu có 30 cán bộ chuyên trách và 312 cộng tác viên. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phối hợp với các lực lượng trong hệ thống chính trị, nhất là với mặt trận, đoàn thể tiến hành cuộc vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Công tác tuyên truyền, vận động được đẩy lên cao và thường xuyên, liên tục. Phương châm tuyên truyền vận động là “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”. Mục tiêu cần đạt được là “Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ”. Cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình được kết hợp nhiều biện pháp, vừa đẩy mạnh tuyên truyền cổ động với các hình thức rất đa dạng, vừa tăng cường các dịch vụ kế hoạch hóa đến tận cơ sở, vừa kiên trì giáo dục, thuyết phục và thực hiện biện pháp hành chính, nhất là đối với cán bộ công chức, viên chức. Với sự nỗ lực đó, đến 1995, toàn huyện đã khắc phục cơ bản tình trạng trì trệ kéo dài các năm trước, giảm tỷ suất sinh từ 39‰ (1991) xuống 26‰; tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 từ 48% giảm xuống 30%. Kết quả này thể hiện quyết tâm và sự chỉ đạo quyết liệt cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch của Đảng bộ huyện nhằm giảm nhanh tốc độ tăng dân số, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Một trong các vấn đề xã hội luôn được Đảng bộ quan tâm là xóa đói, giảm nghèo. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 12/8/1993, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 06-CT/HU về tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo; thành lập ban chỉ đạo thực hiện chương trình từ huyện đến xã, thị trấn, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng. Đây là một chương trình lớn có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Các xã, thị trấn nhanh chóng hoàn thành công tác điều tra, thống kê và lên danh sách cụ thể các đối tượng nghèo, đói của từng đơn vị. Trên cơ sở phân tích nguyên nhân dẫn đến nghèo, đói, huyện xây dựng phương án, kế hoạch giúp đỡ một cách cụ thể, sát hợp với từng loại đối tượng, từng địa phương, trong đó ưu tiên trước hết là gia đình chính sách. Nguồn vốn cho chương trình xóa đói giảm nghèo chủ yếu là từ Quỹ cho vay ưu đãi người nghèo do Ngân hàng Nông nghiệp huyện thực hiện cho vay đến hộ gia đình; vốn tài trợ của các tổ chức nước ngoài lồng ghép vào một số dự án để tạo ra việc làm. Ngoài ra còn có vốn hỗ trợ của ngân sách nhà nước, vận động đóng góp của dân và tài trợ của các mạnh thường quân[8]... Cuối năm 1993, huyện chọn xã Ninh Đông và thị trấn Ninh Hòa làm thí điểm để rút kinh nghiệm việc tổ chức giao vốn hỗ trợ cho hộ nghèo sản xuất, rồi triển khai đồng loạt trong toàn huyện. Đến năm 1995, hàng ngàn hộ nghèo có thêm công việc làm ăn, phát triển sản xuất và thoát nghèo, so với năm 1993, hộ nghèo giảm từ 25% xuống còn 17%, trong đó hộ đói còn 5%[9]. Đây là kết quả bước đầu khá tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế huyện tăng trưởng, ổn định đời sống nhân dân. Năm 1995, toàn huyện có trên 90% nhà ngói, trên 47% gia đình có ti vi, gần 21% hộ có xe máy; thông tin liên lạc qua điện thoại phát triển nhanh chóng, đặc biệt là điện thoại di động phục vụ cho mọi đối tượng có nhu cầu.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Mới sau gần 10 năm phát triển theo cơ chế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo đã diễn ra rất nhanh với khoảng chênh lệch ngày càng lớn. Bên cạnh số đông giàu lên chân chính được xã hội hoan nghênh, có một số người làm ăn phi pháp giàu lên nhanh chóng, nhất là tham nhũng gây dư luận bất bình trong dân. Quán triệt Chỉ thị 15-CT/TW của Bộ Chính trị, Quyết định 114/TTg của Thủ tướng chính phủ và Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 30/6/1993của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đấu tranh ngăn chặn, bài trừ tệ tham nhũng và buôn lậu, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo Ủy ban nhân huyện thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Quyết định 114/TTg, ban hành các quyết định về chương trình thanh tra, kiểm tra và kế hoạch chống tham nhũng hàng năm. Từ năm 1992 - 1995, huyện tổ chức tiến hành thanh tra 29 cuộc; kiểm tra, kiểm sát việc tuân thủ pháp luật ở 15 đơn vị và 30 công trình xây dựng cơ bản. Qua đó, chấn chỉnh những sai phạm về nguyên tắc quản lý nhà nước ở một số đơn vị, phát hiện và xử lý nghiêm minh 15 vụ vi phạm pháp luật.
Tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, Ban Thường vụ Huyện ủy tập trung chỉ đạo củng cố lực lượng dân quân, tự vệ; xây dựng thế trận quốc phòng gắn với thế trận an ninh nhân dân. Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 5/11/1993, Ban Thường vụ Huyện ủy giải thể Ban Cán sự quân sự huyện và thành lập Đảng ủy quân sự huyện do đồng chí Bí thư Huyện ủy làm Bí thư Đảng ủy quân sự huyện. Với cơ chế lãnh đạo mới, Đảng lãnh đạo sát sao hơn công tác quốc phòng - an ninh. Hàng năm, Ban Thường vụ Huyện ủy đều ban hành nghị quyết về công tác quân sự địa phương; chỉ đạo định kỳ bổ sung kế hoạch phòng thủ cấp huyện và cụm xã, các kế hoạch tổng thể xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trong khu vực phòng thủ tỉnh. Quan trọng nhất là kế hoạch xây dựng kinh tế địa phương kết hợp với xây dựng căn cứ hậu phương huyện khi có chiến tranh xảy ra; kế hoạch xây dựng các lực lượng vũ trang địa phương trong thời bình, sẵn sàng động viên khi có chiến tranh; kế hoạch xây dựng các công trình quốc phòng, trận địa chiến đấu khi có tình huống chiến tranh xảy ra… Hằng năm, lực lượng dân quân tự vệ được huấn luyện, củng cố về chất lượng, số lượng duy trì chiếm từ 2 - 2,5% dân số. Từ 1992 - 1995, toàn huyện tổ chức 28 cuộc diễn tập xã và cụm xã theo kế hoạch phòng chống diễn biến hòa bình và bạo loạn, lật đổ kết hợp với phòng thủ địa phương. Đáng chú ý là tổ chức diễn tập kế hoạch phòng thủ và kế hoạch giữ gìn an ninh chính trị cấp huyện và cụm xã theo Chỉ thị số 06-CT/HU, ngày 26/4/1994 của Huyện ủy. Đây là đợt diễn tập có tính chất hợp đồng tác chiến giữa các lực lượng và liên hoàn cụm xã với quy mô lớn, xử lý nhiều tình huống phức tạp hơn. Thông qua diễn tập đã góp phần giúp cho các cấp, các ngành chuẩn bị, sẵn sàng đối phó có hiệu quả khi có các tình huống xảy ra, được vận hành theo “cơ chế 02”, có sự phối hợp đồng bộ của các ban ngành đoàn thể. Về công tác tuyển quân, khó khăn nhất là tình hình chống lệnh, chống khám và quân nhân đào ngũ diễn ra phức tạp. Để đảm bảo công bằng trong thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, huyện thực hiện nghiêm túc các biện pháp xử lý theo quy định, thu gom trên 70% số quân nhân đào ngũ[10]. Đồng thời phối hợp các cấp các ngành và các đoàn thể tăng cường công tác giáo dục, vận động. Nhờ đó, 5 năm liền huyện đều đạt và vượt chỉ tiêu trên giao.
Đảng bộ luôn quan tâm thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với nước, quân nhân xuất ngũ, đặc biệt là đối với Bà mẹ Việt nam Anh hùng. Trong đợt đầu tiên, ngày 17/12/1994, toàn huyện có 111 bà mẹ được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, trong đó có 22 bà mẹ còn sống. Tất cả bà mẹ còn sống được các cơ quan, đơn vị nhận đỡ đầu nuôi dưỡng đến cuối đời. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, phong trào xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm được đẩy mạnh và duy trì đều đặn. Huyện tiếp tục tổ chức nhiều đợt tìm kiếm, quy tập mộ liệt sỹ về nghĩa trang liệt sĩ[11]. Những việc làm đó tuy kết quả chưa nhiều nhưng cũng góp phần giảm bớt khó khăn trong đời sống và động viên tinh thần đối với các đối tượng chính sách, thể hiện lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với những người đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với công tác an ninh và trật tự an toàn xã hội, Đảng bộ chú trọng xây dựng thực lực chính trị, tập trung củng cố các cơ sở yếu kém, phát động liên tục phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 135/CT của Hội đồng Bộ trưởng và Quyết định 26/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh, từ đầu năm 1992, các xã, thị trấn và các công ty xí nghiệp lớn tiến hành thành lập hội đồng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở và xây dựng quỹ hỗ trợ an ninh. Đây là một tổ chức tập họp mọi tổ chức, mọi lực lượng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ trật tự, an ninh nông thôn ở cơ sở. Các tổ an ninh nhân dân, tổ hòa giải, đội thanh niên xung kích an ninh, đội dân phòng[12] cùng với lực lượng công an viên và dân quân được quan tâm củng cố. Trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến như: Thị trấn Ninh Hòa có mô hình “cụm dân cư an toàn về an ninh trật tự”; Ninh Tân có mô hình “3 tự quản” (quản lý nhân hộ khẩu, quản lý địa bàn, quản lý đối tượng); Xí nghiệp Muối xuất khẩu Hòn Khói có mô hình “tự vệ kết hợp với dân quân địa phương bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa”… Năm 1993, huyện tiến hành diễn tập kế hoạch giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở 26 xã, thị trấn. Qua diễn tập giúp cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhận rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, hình dung được các tình huống và các biện pháp xử lý tình huống có thể xảy ra. Đi đôi với xây dựng phong trào quần chúng, Đảng bộ luôn quan tâm xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh. Sau khi được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Ban An ninh huyện (tức Công an huyện), toàn ngành đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, học tập và làm theo 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân. Qua đó nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, chiến sĩ công an. Nâng cao hiệu quả công tác, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo xây dựng quy chế phối hợp giữa hai lực lượng công an và quân sự. Từ 1992 - 1995, lực lượng công an và huyện đội phối hợp làm nòng cốt, mở 17 đợt truy quét và tấn công tội phạm, triệt phá 23 băng nhóm đối tượng hình sự; các vụ phạm pháp hình sự giảm hẳn, năm 1995 chỉ xảy ra 61 vụ, giảm trên 50% so với năm 1991 (127 vụ). Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm sát việc tuân thủ pháp luật, xét xử và thi hành án có nhiều cố gắng, đã tiến hành thanh tra 29 cuộc, kiểm tra tuân thủ pháp luật 15 đơn vị và 30 công trình xây dựng cơ bản, xét xử 794/816 vụ án, trong đó gần 200 án hình sự, thi hành án đạt trên 40% số vụ phải thi hành, góp phần bảo vệ tốt an ninh kinh tế - xã hội.
Những kết quả nêu trên thể hiện sự chuyển biến tích cực trong công tác quốc phòng - an ninh. Tuy nhiên còn một số hạn chế. Nhận thức của nhiều cấp ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân về tình hình, âm mưu thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chưa đầy đủ, còn mất cảnh giác. Công tác giáo dục quốc phòng trong nhân dân nhất là cho thanh niên còn hạn chế. Một số xã chưa coi trọng xây dựng đơn vị vững mạnh về an ninh - quốc phòng. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa đủ mạnh, chưa đều khắp; vẫn còn một số yếu tố gây mất ổn định nghiêm trọng chưa được khắc phục tốt. Trật tự an toàn giao thông chưa chuyển biến rõ nét theo tinh thần Nghị định số 36/CP, ngày 29/5/1995 của Chính phủ về bảo đảm an toàn giao thông đường bộ và trật tựan toàn giao thông đô thị. Sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chưa đồng bộ.
Song song với lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, Đảng bộ luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể. Đầu nhiệm kỳ 1991 - 1995, tình hình công tác xây dựng Đảng gặp nhiều khó khăn. Đó là những tác động tiêu cực của những biến động chính trị trên thế giới do Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã; sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường và chống phá quyết liệt bằng “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tác động do nội bộ Đảng bộ tỉnh mất đoàn kết xảy ra trong một số cơ quan lãnh đạo… Những tác động đó dẫn đến nhiều diễn biến phức tạp về tư tưởng và tâm trạng xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phổ biến là tâm trạng lo lắng về sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong Đảng bộ huyện, tình hình lơi lỏng trong sinh hoạt Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ xảy ra ở nhiều nơi. Hệ thống tổ chức có những khâu trì trệ, chưa bảo đảm được sự lãnh đạo thông suốt trên tất cả các lĩnh vực. Một số tổ chức cơ sở đảng không giữ được vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị, giảm sút về năng lực, lúng túng về nội dung, phương thức lãnh đạo. Công tác giáo dục tư tưởng và quản lý đảng viên bị buông lỏng, rời rạc. Một bộ phận đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin vào Đảng và chế độ. Tình trạng bỏ kỳ sinh hoạt đảng theo quy định của điều lệ Đảng xảy ra phổ biến, nhất là các đơn vị hành chính, sự nghiệp và sản xuất kinh doanh[13]. Một số xã bỏ kỳ họp hội đồng nhân dân, không có nghị quyết lãnh đạo đúng theo luật định. Ở nhiều cơ sở, một số tổ chức đoàn thể không sinh hoạt trong thời gian dài nhưng thiếu sự chấn chỉnh, uốn nắn. “Có nơi cán bộ chuyên quyền, tự ý giải quyết công việc không theo đúng quy chế, chính sách pháp luật”[14].
Trước tình hình đó, thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Kế hoạch số 03-KH/TU ngày 28/8/1992 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 04-CT/HU, ngày 16/9/1992 thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Chương trình hành động đề ra những nội dung cụ thể, gắn chặt cả 2 mặt, vừa đổi mới, vừa chỉnh đốn, tập trung củng cố đoàn kết nội bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ, trước hết là các tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội làm trung tâm, nhiệm vụ xây dựng Đảng làm then chốt, quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 được gắn với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đồng thời, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 7, ngày 13/2/1992 vềmột số nhiệm vụ cấp bách để giải quyết vấn đề mất đoàn kết nội bộ.
Đảng bộ đặt công tác giáo dục chính trị tư tưởng lên hàng đầu với 3 nhiệm vụ trọng tâm: Một là, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân niềm tin và ý chí kiên định mục tiêu và con đường chủ nghĩa xã hội; đấu tranh chống những quan điểm sai trái, lệch lạc. Hai là, xây dựng và củng cố tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Ba là, xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Việc triển khai học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng được Đảng bộ thực hiện nghiêm túc, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn tỉnh, tháng 3/1994. Sau các lớp học cho cán bộ chủ chốt, Ban Thường vụ chỉ đạo tổ chức học tập cho cán bộ, đảng viên theo cụm xã, cơ quan (trừ các đảng bộ lớn học riêng) do báo cáo viên Huyện ủy trực tiếp truyền đạt. Thời gian mỗi đợt quán triệt từ 3 - 5 ngày. Sau khi học tập nghị quyết của Đảng, không những nhận thức chính trị được nâng lên, tư duy kinh tế được đổi mới, các cấp ủy và cán bộ, đảng viên còn vận dụng linh hoạt nghị quyết Đảng trong việc xây dựng và thực hiện chương trình hành động phù hợp với thực tiễn địa phương. Vì vậy, nhiều chủ trương, giải pháp do Huyện ủy đề ra đi vào cuộc sống và biến thành phong trào hành động cách mạng của nhân dân, nhất là trong phát triển kinh tế. Đáp ứng yêu cầu định hướng thông tin chính thống trước diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế, công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng được tăng cường. Ngày 3/6/1994, Ban Thường vụ ra quyết định thành lập đội ngũ báo cáo viên Huyện ủy gồm 22 đồng chí, trong đó thành lập Tổ báo cáo viên nòng cốt gồm 6 đồng chí. Đồng thời, giao cho Ban Tuyên giáo Huyện ủy có kế hoạch tổ chức định kỳ các buổi thời sự, chính sách cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nghỉ hưu, cán bộ chủ chốt đương chức cấp huyện và cán bộ, đảng viên cơ sở xã, thị trấn; phân công trong Tổ báo cáo viên Huyện ủy trực tiếp báo cáo.
Trong sinh hoạt đảng, Đảng bộ thường xuyên đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, trọng tâm là tổ chức các đợt sinh hoạt gắn với tổng kết cuối năm, hoặc gắn với việc quán triệt các nghị quyết quan trọng của Đảng. Ngày 8/3/1993, Tổ công tác của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chỉ đạo đợt tự phê bình và phê bình cấp ủy viên theo tinh thần Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương và Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 7. Quá trình kiểm điểm, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo mở rộng dân chủ, phê phán mọi tư tưởng và hành động lệch lạc trong Đảng; tổ chức cho quần chúng đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể. Riêng cuộc sinh hoạt tự phê bình và phê bình của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần này kéo dài 11 ngày. Tổ công tác của Tỉnh ủy đã tiếp xúc và lấy ý kiến của 242 cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ huyện góp ý cho các đồng chí huyện ủy viên. Qua kiểm điểm trong toàn Đảng bộ cho thấy, hầu hết cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên có tư tưởng chính trị vững vàng trước diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, tình hình trong nước, trong tỉnh, tin tưởng vào công cuộc đổi mới của Đảng đang diễn ra tại địa phương. Các cấp ủy đảng có sự chuyển biến bước đầu trong đổi mới cách nghĩ, cách làm. Trong đội ngũ cán bộ xuất hiện ngày càng nhiều đồng chí năng động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được phân công. Đảng bộ huyện giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất xung quanh Ban Chấp hành Đảng bộ. Tuy nhiên, có nơi, có lúc biểu hiện thiếu sự thống nhất trong xử lý một số vấn đề cụ thể về kinh tế, xã hội, công tác cán bộ…; phương pháp công tác chưa tốt; trong đấu tranh còn sợ mếch lòng, thiếu sức thuyết phục. Một số đơn vị cơ sở có biểu hiện mất đoàn kết như Ninh Hưng, Ninh Trung… Mối quan hệ giữa một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt đương chức và cán bộ hưu trí có lúc căng thẳng, có trường hợp dẫn đến vi phạm pháp luật, mất uy tín nghiêm trọng...
Về công tác tổ chức và cán bộ, Huyện ủy chỉ đạo tập trung theo hướng củng cố nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Cuối năm 1991, Đảng bộ có 61 tổ chức cơ sở đảng nhưng chất lượng chưa cao. Số cơ sở vững mạnh chiếm 12%, cơ sở khá chiếm 74,5%, yếu kém chiếm 13,5%. Những cơ sở yếu kém kéo dài nhiều năm là do không hoàn thành nhiệm vụ chính trị, nội bộ mất đoàn kết, uy tín đối với nhân dân giảm sút. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đó là do trình độ, năng lực cán bộ chủ chốt không tương xứng, thiếu sự đồng bộ trong hoạt động giữa Đảng, chính quyền và đoàn thể, không thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ… Để khắc phục tình trạng trên, tháng 1/1993, Ban Thường vụ Huyện ủy lập 3 tổ công tác củng cố tổ chức cơ sở đảng. Các tổ trực tiếp theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và giúp cơ sở tiến hành kiểm điểm tự phê bình, phê bình và phân tích, phân loại, sàng lọc đảng viên, trước hết là các cơ sở yếu kém. Trên cơ sở đó, củng cố kiện toàn bộ máy, thay thế, điều chỉnh bố trí đội ngũ cán bộ cho phù hợp với năng lực công tác và xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ có sai phạm lớn, mất uy tín trong đảng viên và quần chúng. Đối với một số cơ sở xã thiếu cán bộ, huyện tăng cường cán bộ về đảm nhiệm các chức danh chủ chốt như ở các xã Ninh Trung, Ninh Xuân, Ninh Phước, Ninh Vân… Cuối năm 1993, khối dân vận xã (thường gọi tắt là khối vận) được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng. Đây là điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh sự phối, kết hợp hoạt động thống nhất của mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở. Sau khi củng cố các tổ chức cơ sở đảng, ban Thường vụ Huyện ủy tập trung chỉ đạo đại hội nhiệm kỳ 1994 - 1996 của các tổ chức cơ sở đảng[15] theo Chỉ thị số 22-CT/TU ngày 4/3/1994 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đến tháng 8/1994, các cơ sở đảng hoàn thành đại hội. Qua đại hội, đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở được kiện toàn, nhiều đồng chí lần đầu tiên tham gia cấp ủy, trong đó 26/61 đồng chí là bí thư. Phần lớn các đồng chí mới tham gia đều được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và nghiệp vụ chuyên môn. Qua kiện toàn và củng cố, chất lượng chi, đảng bộ được nâng dần lên, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Nhiều cơ sở khá vươn lên vững mạnh, yếu kém vươn lên khá. Đến năm 1995, Đảng bộ có 61 tổ chức cơ sở đảng, số cơ sở vững mạnh tăng lên chiếm 41%, cơ sở khá chiếm 52,5%, yếu kém chỉ còn chiếm 6,5%.
Chấp hành Quyết định 62-QĐ/TW, ngày 15/3/1993 của Ban Bí thư Trung ương và hướng dẫn của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, ngày 10/8/1993, Ban Thường vụ Huyện ủy ra quyết định thành lập Ban cán sự Ủy ban nhân dân huyện và 5 tổ chức đảng đoàn ở Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh và Liên đoàn lao động huyện. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động không hiệu quả nên các tổ chức đảng đoàn được giải thể theo chủ trương của cấp trên. Tổ chức bộ máy Huyện ủy cũng được kiện toàn một bước. Thực hiện Quyết định số 32-QĐ/TW, ngày 9/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương và Hướng dẫn số 61-HD/TCDV, ngày 20/3/1993 của liên Ban Tổ chức và Ban Dân vận Tỉnh ủy về kiện toàn ban dân vận cấp huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Quyết định số 74-QĐ/HU, ngày 25/5/1993 thành lập Ban Dân vận Huyện ủy do đồng chí Phạm Đài, Phó bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban. Ban Dân vận trở thành một ban Đảng của Huyện ủy, có cán bộ chuyên trách, có con dấu và kinh phí hoạt động. Đây là điều khác với Ban Dân vận đã thành lập trước đây chỉ là ban gồm các cán bộ kiêm nhiệm, mang tính hình thức. Ngày 24/6/1994, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Quyết định số 131-QĐ/HU đổi tên Trường Đảng thành Trường Bồi dưỡng cán bộ huyện Ninh Hòa. Từ đây, hầu hết các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý nhà nước, nghiệp vụ đoàn thể do các cơ quan chuyên môn của huyện chịu trách nhiệm đều phối hợp hoặc giao cho Trường Bồi dưỡng cán bộ huyện tổ chức.
Quán triệt Chỉ thị số 26-CT/TW, ngày 2/8/1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng,từ ngày 28 - 29/4/1994, Đảng bộ huyện tổ chức Hội nghị Đại biểu Đảng bộ huyện giữa nhiệm kỳ 1991 - 1996 để kiểm điểm hai năm rưỡi thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 13; điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Hội nghị đã bầu bổ sung 5 Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Chiều ngày 29/4, Ban Chấp hành họp bầu bổ sung 3 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy; bầu đồng chí Phạm Đài, Tỉnh ủy viên[16], Phó Bí thư làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Bá Cường nghỉ chính sách; bầu hai đồng chí là Nguyễn Thạch Ngọc và Nguyễn Xuân Long, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Phó Bí thư Huyện ủy. Sau Hội nghị giữa nhiệm kỳ, nhiều cán bộ được bố trí, sắp xếp lại cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhiều đồng chí có nhiều lần thay đổi vị trí công tác cũng là một đặc điểm trong công tác cán bộ của huyện Ninh Hòa. Đa phần các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân đều kinh qua nhiều chức danh khác nhau. Sự thay đổi môi trường công tác nhiều lần có ưu điểm là cán bộ tích lũy được nhiều kinh nghiệm chỉ đạo trên nhiều lĩnh vực. Song, lại có hạn chế là thiếu sự chuyên sâu, sắc bén trong lãnh đạo, chỉ đạo từng lĩnh vực cụ thể và một số cán bộ chưa thông suốt về tư tưởng. Trong nhiệm kỳ đã bố trí lại 32 bí thư cơ sở; bổ nhiệm mới 22 trưởng, phó phòng. Cùng với bố trí, sử dụng, Ban Thường vụ Huyện ủy chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cử đi đào tạo trình độ lý luận chính trị trung, cao cấp 122 cán bộ; đào tạo chuyên môn trình độ đại học 26 cán bộ. Bên cạnh đó, Trường Đảng tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ cơ sở, tập trung đối tượng là cán bộ cấp thôn. Trường mở 6 lớp đào tạo trình độ lý luận chính trị phổ thông cho gần 300 học viên, hàng chục lớp bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể và lớp đối tượng Đảng. Trong nhiệm kỳ (1991 - 1995), số lượng cán bộ được đi đào tạo lớn nhất từ trước đến nay, không những nhằm đáp ứng nhu cầu cán bộ trước mắt mà còn là bước chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho các nhiệm kỳ sau này. Về chính sách đối với cán bộ cấp thôn và tương đương, trong khi chờ đợi quy định và hướng dẫn của cấp trên, ngày 17/2/1992, Ban Thường vụ Huyện ủy mạnh dạn chủ trương thực hiện tạm thời chế độ phụ cấp cho các đối tượng là chủ tịch hội cựu chiến binh xã, bí thư chi bộ trực thuộc đảng ủy, trưởng thôn. Tuy mức phụ cấp thấp, song là nguồn động viên cán bộ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công tác phát triển Đảng được Đảng bộ quan tâm chú ý đúng mức, từ 1992 - 1995 kết nạp được 245 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lên 1.676. Đây là nhiệm kỳ có số lượng đảng viên mới cao nhất so với các nhiệm kỳ trước; số lượng kết nạp vào Đảng tăng nhanh tập trung trong 2 năm 1994 - 1995, riêng năm 1995 tăng 4,2 lần so với năm 1991. Công tác kiểm tra của các cấp uỷ luôn được coi trọng, tập trung vào kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của cấp ủy. Kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thực hiện thường xuyên và đưa vào nội dung sinh hoạt Đảng hàng tháng. Với cách làm đó, hàng năm có từ 30% - 50% đảng viên được kiểm tra. Riêng năm 1994 có 1088 đảng viên được kiểm tra, chiếm trên 68% so với tổng số đảng viên toàn Đảng bộ. Qua đó, kịp thời chấn chỉnh và xử lý những trường hợp vi phạm, góp phần nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Phân tích chất lượng cuối năm 1995, đảng viên đủ tư cách tăng lên, chiếm 97,4%; đảng viên vi phạm tư cách và không đủ tư cách chiếm 2,6%, giảm nhiều so với năm 1991. Số đảng viên bị xử lý kỷ luật Đảng là 73, trong đó khai trừ 13; cho ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác là 109.
Những kết quả nêu trên phản ảnh những chuyển biến tiến bộ rõ nét về công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ 1991 - 1996, thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng bộ huyện trước những khó khăn, thử thách. Song vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng vẫn chưa thực sự đổi mới phù hợp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Nhiều cấp ủy vẫn lúng túng trong việc cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong cơ chế mới, nhất là tổ chức đảng trong doanh nghiệp và cơ quan hành chính, sự nghiệp. Chất lượng công tác quy hoạch cán bộ kế cận từ huyện đến cơ sở chưa cao; một số nơi khi đến nhiệm kỳ đại hội hoặc bầu cử hội đồng nhân dân còn lúng túng, gượng ép trong bố trí cán bộ. Phong cách lãnh đạo từ cấp uỷ huyện đến cơ sở còn mang nặng tính chất sự vụ, lãnh đạo thiếu kiểm tra; kiểm tra chưa theo chương trình, kế hoạch một cách khoa học. Một số cán bộ chưa đổi mới phong cách, còn quan liêu, thiếu sâu sát cơ sở, nặng về lợi ích kinh tế, xem nhẹ ý thức Đảng, thiếu tu dưỡng rèn luyện, giữ gìn tư cách đảng viên… gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân.
Về công tác xây dựng chính quyền, đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là bộ máy hành chính cấp huyện chuyển hẳn sang thực hiện đúng chức năng quản lý hành chính nhà nước, không còn can thiệp trực tiếp vào chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tiến hành sắp xếp lại tổ chức, biên chế các cơ quan hành chính, sự nghiệp, giảm bớt những tổ chức trùng lặp, chồng chéo hoặc chức trách không rõ ràng và giảm biên chế theo Nghị quyết 109/HĐBT, ngày 12/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau khi Phòng Giáo dục bàn giao cho tỉnh quản lý theo ngành dọc, huyện còn 8 phòng, ban tham mưu, giúp việc cho Ủy ban nhân dân huyện với tổng số 70 cán bộ, công chức; Tổng số cán bộ, công chức tinh giảm biên chế lần này là 140. Đây là số lượng tinh giảm lớn nhất từ trước đến nay. Việc củng cố bộ máy tập trung vào việc làm rõ chức năng, nhiệm vụ các ban, phòng tham mưu. Tuy nhiên, do cấp trên chậm ban hành quy định, hướng dẫn nên hiệu quả hoạt động của các cơ quan tham mưu còn thấp, vai trò tham mưu cũng chưa rõ, thiếu sự chủ động, chủ yếu là phụ thuộc ý kiến chỉ đạo của Ủy ban nhân dân huyện. Tình hình đó dẫn đến một trì trệ trong giải quyết công việc hàng ngày. Để phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, theo chủ trương của tỉnh, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thành lập và chia tách một số phòng ban, như thành lập Phòng Tư pháp (tháng 6/1993); thành lập Phòng Địa chính (tháng 10/1994); tách bộ phận Thống kê khỏi Ban Kế hoạch để lập Phòng Thống kê Ninh Hòa (tháng 8/1994); tách Phòng Tổ chức - Lao động và Thương binh xã hội (tháng 7/1995) thành 2 phòng là Phòng Tổ chức chính quyền và Phòng Lao động - Thương binh, xã hội. Năm 1993, Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện có một số thay đổi về nhân sự. Ngày 2/5/1993, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết định số 734-QĐ/TU chỉ định đồng chí Nguyễn Xuân Long bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khóa XIV) và được bầu vào Ban Thường vụ Huyện ủy; ngày 22/5/1993, đồng chí được Hội động nhân dân (khóa VI) kỳ họp bất thường bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thay đồng chí Bùi Thanh Lâm nghỉ chính sách. Tháng 6/1993, Hội đồng nhân dân huyện (khóa VI), kỳ họp 14 bầu đồng chí Nguyễn Văn Chiêu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân thay đồng chí Phạm Đài, Phó Bí thư Huyện ủy thôi kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân; bầu đồng chí Trần Công Hoán làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện. Lúc này, nhiệm vụ nặng nề nhưng Thường trực Ủy ban nhân dân chỉ có 2 đồng chí là Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Vì vậy, theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, ngày 24/11/1993, Hội đồng nhân dân (khóa VI) kỳ họp đột xuất bầu đồng chí Trần Công Hoán chuyển sang làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 6/8/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng bộ huyện lãnh đạo chặt chẽ cuộc bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp. Các hội nghị hiệp thương từ huyện đến xã, thị trấn đều diễn ra theo đúng quy trình và thời gian theo luật định, có sự thống nhất cao. Các cuộc họp lấy ý kiến đại biểu cử tri đối với các ứng cử viên đại biểu Hội đồng nhân dân huyện đảm bảo tính dân chủ; ý kiến cử tri thẳng thắn, xây dựng và có sự đồng thuận cao. Ngày 20/11/1994, trên 99,3% cử tri toàn huyện đã đi bầu cử. Hội đồng nhân dân huyện khóa VII được bầu ra gồm 35 đại biểu; cuối tháng 12/1994, Hội đồng họp phiên đầu tiên bầu đồng chí Phạm Đài, Bí thư Huyện ủy làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân; bầu đồng chí Nguyễn Văn Chiêu, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; bầu trưởng ban và các thành viên Ban Kinh tế - xã hội và Ban Pháp chế của Hội đồng nhân dân huyện; bầu đồng chí Nguyễn Xuân Long, Phó Bí thư Huyện ủy làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân; bầu 2 đồng chí là Nguyễn Hữu Thấu, Ủy viên ban Thường vụ Huyện ủy và Trần Công Hoán, Huyện ủy viên làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, bầu 8 Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện. Sau khi tỉnh rút đồng chí Nguyễn Xuân Long về làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, đầu tháng 1/1995, đồng chí Mai Hữu Thu, Huyện ủy viên được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy và Hội đồng nhân dân bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Đối với cấp xã, qua bầu cử hội đồng nhân dân khóa mới, đội ngũ cán bộ từ xã đến thôn được củng cố, kiện toàn. Số cán bộ chốt chủ mới gồm 12 chủ tịch, 17 phó chủ tịch ủy ban nhân dân, trong đó có nhiều đồng chí là những cán bộ trẻ, có trình độ và năng lực thực tiễn. Ủy ban nhân dân 26 xã, thị trấn thực hiện bổ nhiệm và bổ nhiệm lại 156 trưởng thôn.
Sau bầu cử hội đồng nhân dân, chính quyền huyện và xã, thị trấn được củng cố kiện toàn, chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy được nâng lên, rõ nét là bộ máy cấp huyện. Tuy nhiên, bộ máy chính quyền cấp xã chưa thể hiện rõ tính chủ động, năng động. Đáng chú ý là khối lượng công việc hành chính ở cả cấp huyện và xã ngày càng tăng lên. Nhiều quy trình giải quyết công việc rườm rà, chồng chéo phức tạp… tốn nhiều thời gian và công sức của chính quyền và người dân. Tình trạng đó kéo dài, gây bức xúc xã hội. Khuyết điểm đó dẫn đến một số cấp ủy đảng bao biện, làm thay, can thiệp sâu vào những công việc của chính quyền; một số khác thì buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Khắc phục tình hình trên, thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 4/2/1995 của Ban Bí thư Trung ương, ngày 10/7/1995, Ban Thường vụ Huyện ủy đề ra chương trình hành động về cải cách một bước nền hành chính nhà nước và thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa VII) do đồng chí Mai Hữu Thu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân làm Trưởng ban. Nhiệm vụ trọng tâm được xác định là cải cách một bước cơ bản các thủ tục hành chính, nhất là trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân. Chính quyền từ huyện đến cơ sở tiếp tục sắp xếp lại bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ; rà soát các văn bản, thủ tục hành chính, loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết theo chỉ đạo và hướng dẫn của cấp trên. Ủy ban nhân dân huyện ban hành một số chế độ công vụ và quy chế phối hợp của các cơ quan có trách nhiệm giải quyết công việc của dân. Đồng thời đề ra quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân huyện, của các cơ quan tham mưu, của tập thể và cá nhân. Huyện ủy điều chỉnh, bổ sung quy chế hoạt động, trong đó xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy, Thường trực Huyện ủy và Huyện ủy viên; quy định chế độ làm việc với các ban Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể và với cơ sở đảng theo định kỳ. Các tổ chức cơ sở đảng đều xây dựng quy chế hoạt động của cấp ủy theo các quy định của Ban Bí thư phù hợp với từng loại hình cơ sở, vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền, đoàn thể.
Như vậy, từ 1991 - 1995, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân từ huyện đến cơ sở và các phòng ban tham mưu của chính quyền cấp huyện không ngừng được củng cố, kiện toàn, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ. Nhờ đó từng bước nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp. Đáng chú ý là việc cụ thể hóa nghị quyết của cấp ủy đảng kịp thời, năng động hơn; khả năng quản lý điều hành theo pháp luật được nâng lên; phong cách làm việc gần dân tiến bộ hơn trước… góp phần mang lại nhiều kết quả, nổi bật là thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 13 đề ra.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8B (khóa VI), Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo củng cố mặt trận và các đoàn thể thông qua các kỳ đại hội nhiệm kỳ theo điều lệ của từng tổ chức; quan tâm công tác bố trí, bồi dưỡng cán bộ. Mặt trận và các đoàn thể cố gắng tìm tòi, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, tập hợp quần chúng bằng nhiều hình thức phù hợp với sở thích, nghề nghiệp, lứa tuổi; tổ chức kiện toàn sắp xếp lại tổ chức, xóa hội viên danh nghĩa, tăng cường kết nạp hội viên thực chất; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cấp huyện xây dựng chương trình phối hợp với các ban, ngành, điển hình là chương trình hoạt động liên tịch giữa cơ quan quân sự, công an, Mặt trận huyện và các đoàn thể. Mô hình này có hiệu quả nên nhanh chóng lan rộng đến cơ sở. Tổ chức khối vận của cấp ủy xã, thị trấn phát huy tốt vai trò kết nối sự phối hợp mặt trận và các đoàn thể, khơi dậy nhiều phong trào hành động cách mạng của nhân dân. Nổi bật nhất là các phong trào phát triển kinh tế, nhất là các năm 1994 - 1995 như phong trào xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, phong trào nông dân sản xuất giỏi, công nhân lao động sáng tạo, tuổi trẻ lập nghiệp, thanh niên giữ nước… Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, sôi nổi là các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc các gia đình chính sách, ủng hộ và nhận nuôi dưỡng, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, phong trào thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc và bảo vệ bà mẹ, trẻ em, phong trào xóa mù chữ, phổ cập tiểu học… Nhiều cuộc vận động như giúp đỡ Cu-ba, ủng hộ Trường Sa, giữ gìn trật tự an ninh thôn xóm, không sản xuất, buôn bán và đốt pháo kể từ ngày 1/1/1995 theo Chỉ thị số 406/CT-TTg, ngày 8/8/1994 của Thủ tướng Chính phủ… Đối với các chức sắc tôn giáo, nhân dân có đạo, huyện quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ, giải quyết các yêu cầu chính đáng; mặt trận và các đoàn thể tích cực vận động giáo dân thực hiện cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” tích cực tham gia mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước do địa phương đề ra.
Qua những hoạt động trên, mặt trận và các tổ chức đoàn thể thể hiện sự tiến bộ nhất định, tình trạng xơ cứng trong sinh hoạt được khắc phục nhiều, số lượng đoàn viên, hội viên thực chất gia nhập ngày càng tăng. Từ chỗ hoạt động chính trị chung chung, mặt trận và các đoàn thể đã đổi mới bước đầu phương thức và nội dung hoạt động, tập trung khai thác sức dân thông qua việc động viên lòng yêu nước, tăng cường hoạt động xã hội, gắn quyền lợi và nghĩa vụ để chăm lo lợi ích và đời sống của hội viên, đoàn viên. Những việc làm đó đã tạo nên sự gắn bó của quần chúng đối với các tổ chức đoàn thể, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và sự nghiệp đổi mới đất nước được củng cố. Tuy vậy, mặt trận và các đoàn thể vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Các phong trào chưa đều, chưa đạt về chiều rộng và chiều sâu, chậm tổng kết đánh giá, nhân rộng mô hình tốt, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Một số chương trình phát động thiếu gắn bó với lợi ích thiết thực của đoàn, hội viên. Sự phối hợp giữa nhà nước và mặt trận, các đoàn thể dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng có lúc, có việc chưa thường xuyên, đồng bộ.
Năm năm (1991 - 1995) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 13 là thời gian thử thách bản lĩnh chính trị của Đảng bộ Ninh Hòa trong điều kiện có nhiều biến cố phức tạp xảy ra, nhất là sự tan rã của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, Đảng bộ đã vững vàng vượt qua mọi khó khăn, lãnh đạo nhân dân đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nổi bật là nhân dân lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế, chính sách không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo, chủ động phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và làm giàu chính đáng. Các thành phần kinh tế trong huyện phát triển mạnh, phát huy được sức sản xuất, tính năng động, sáng tạo và tự chủ trong nền kinh tế nhiều thành phần. Sản phẩm xã hội tăng lên rõ rệt. Kinh tế nông nghiệp tiến một bước dài với động lực mạnh mẽ của “khoán 10” và quyền sử dụng ruộng đất lâu dài của nông dân theo Nghị định 64/CP. Kinh tế hộ gia đình được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ đang từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa. Trong huyện hình thành nhiều vùng sản xuất tập trung, từng bước gắn với công nghiệp chế biến. Nhiều diện tích vùng đất trống, đồi trọc được phủ xanh. Vùng biển, ngư dân nâng cao năng lực đánh bắt, vừa đánh bắt theo truyền thống gần bờ, vừa bước đầu chuyển sang đánh bắt xa bờ. Vùng ven biển, hình thành dần nghề nuôi tôm xuất khẩu. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển mới, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Sự nghiệp văn hóa - xã hội khởi sắc, khắc phục được sự giảm sút về cả số lượng và chất lượng của nhiều mặt hoạt động. An ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, hệ thống chính trị được củng cố. Đời sống nhân dân được cải thiện nhiều mặt, lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới được nâng lên... Mặc dù còn nhiều khuyết điểm, kinh tế còn có mặt chưa vững chắc, văn hóa - xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết tốt... nhưng kết quả trong những năm qua là vững chắc, tạo tiền đề về vật chất và tinh thần quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa siết chặt đội ngũ, nỗ lực phấn đấu đưa huyện phát triển nhanh, mạnh khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 14, nhiệm kỳ 1996 - 2000
Sau 10 năm (1986 - 1996) tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, cùng với sự “thay da, đổi thịt” của đất nước, diện mạo huyện Ninh Hòa từ thị trấn đến nông thôn đồng bằng, miền núi, miền biển đều có nhiều thay đổi to lớn và sâu sắc. Trong niềm phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW, ngày 9/3/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, từ ngày 7 - 9/2/1996, tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện, Đảng bộ huyện Ninh Hòa tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ 14, nhiệm kỳ 1996 - 2000. Về dự Đại hội có 169 đại biểu chính thức, đại diện cho gần 1.700 đảng viên và 61 tổ chức cơ sở đảng của toàn Đảng bộ. Đại hội thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội lần thứ 8 của Đảng và trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13; tập trung kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 13; đề ra phương hướng, nhiệm vụ của huyện từ trong nhiệm kỳ 1996 - 2000. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIV, nhiệm kỳ 1996 - 2000 gồm 33 đồng chí Ủy viên chính thức; bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 gồm 26 đồng chí. Ngày 10/2/1996, Ban Chấp hành khóa mới họp phiên đầu tiên bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí; bầu đồng chí Phạm Đài, Tỉnh ủy viên làm Bí thư Huyện ủy; bầu 2 đồng chí là Nguyễn Thạch Ngọc và Mai Hữu Thu làm Phó Bí thư Huyện ủy; bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy 5 đồng chí.
Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 13, Đại hội nhấn mạnh: “Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã nỗ lực cố gắng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy còn một số mặt hạn chế, yếu kém và kết quả chưa thật sự tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương, song tình hình chung trên địa bàn huyện giữ được ổn định và có nhiều mặt phát triển vượt bật”[17]. Về phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân toàn huyện từ năm 1996 - 2000, Đại hội chỉ rõ: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển các thành phần kinh tế, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp toàn diện; giải quyết những vấn đề bức xúc và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa - xã hội; cải thiện đời sống của nhân dân; tăng cường khả năng phòng thủ của huyện, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng Đảng bộ huyện trong sạch vững mạnh; nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; phát huy vai trò của mặt trận và các đoàn thể nhân dân, mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác. Đại hội đề ra một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng cần đạt được đến năm 2000: Tổng sản lượng lương thực 60.000 tấn; diện tích mía 5.000ha; đàn trâu, bò 35.000 con, đàn heo 35.000 con; trồng mới 1.000ha rừng; đánh bắt 3.500 tấn hải sản; sản xuất 80.000 tấn muối hạt; diện tích nuôi tôm 1.200ha; thu ngân sách hàng năm tăng 20 - 25%; 100% xã có điện lưới quốc gia đến tận thôn; 50% đường liên xã được rải nhựa bán thâm nhập; hoàn thành việc tách tiểu học ở 15 trường phổ thông cơ sở còn lại; hạ tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống 20%; tỷ lệ phát triển dân số 1,75%; tỷ lệ hộ nghèo 7%, không còn hộ đói; giải quyết việc làm cho 5.000 lao động…
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13, Đảng bộ triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 14 bằng những nghị quyết, chương trình và kế hoạch hành động cụ thể. Quá trình tổ chức thực hiện đó diễn ra trong điều kiện thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen với nhau. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cả nước bước vào thời kỳ mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Trong tỉnh, sau khi khắc phục tình trạng mất đoàn kết trong Đảng đã tạo được bước phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Đó là môi trường thuận lợi và là thời cơ cho mỗi địa phương bứt phá đi lên. Với thuận lợi cơ bản đó, Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa lại được cổ vũ bởi những tiền đề vững chắc và sức mạnh của huyện được tạo ra từ thành tựu đã được sau 10 năm đổi mới. Đan xen với những thuận lợi cơ bản đó là những khó khăn, phức tạp mới. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, nhất là cơ sở còn nhiều bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao, với sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn. Đời sống nhân dân trong huyện tuy được nâng lên nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế tác động làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc rất khó giải quyết. Chính sách, pháp luật của Nhà nước còn có nhiều chồng chéo bất cập với thực tiễn… Những khó khăn trở nên gay gắt khi diễn ra trong tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội, như: Mỹ ra sức thiết lập trật tự thế giới mới một cực; cuộc khủng hoảng tài chính châu Á xảy ra năm 1997; tranh chấp chủ quyền biển đảo trên biển Đông và sự bất ổn ở biên giới Tây Nam... Sau khi xóa bỏ lệnh cấm vận, bình thường quan hệ với Việt Nam, Mỹ và các thế lực thù địch tăng cường chống phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm, nhất là về tư tưởng - văn hóa. Tình hình đó tác động phức tạp nhiều chiều, ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt trong đời sống xã hội.
Trong bối cảnh trên, với những bài học rút ra qua 10 năm đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa vững vàng bước tiếp vào giai đoạn cách mạng mới, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, giành nhiều thắng lợi trong giai đoạn đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ huyện
Phát huy những kết quả đã đạt được, trong giai đoạn 1996 - 2000, Đảng bộ huyện tập trung lãnh đạo tiếp tục phát triển nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trọng tâm là chuyển dịch mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xác định rõ và ổn định phương hướng phát triển cây trồng, vật nuôi chính phù hợp và có hiệu quả nhất. Để bảo đảm an ninh lương thực trên địa bàn, kể từ năm 1996, toàn huyện giữ ổn định diện tích lúa 2 vụ trên 6.500ha với năng suất bình quân trên 90 tạ/ha/năm. Trên cơ sở đó, mạnh dạn chuyển trên 1.700 ha ruộng 1 vụ và đất trồng rau màu năng suất thấp sang trồng mía, bảo đảm cung cấp đủ nguyên liệu cho Nhà máy Đường Ninh Hòa và cung cấp cho các nhà máy đường khác trong tỉnh. Khẳng định thế mạnh về nuôi tôm xuất khẩu, Ban Thường vụ chủ trương quy hoạch mở rộng tối đa diện tích đìa; quy hoạch lại và giải tỏa lấn chiếm lòng lạch để tiêu úng, thoát lũ, đảm bảo cấp và thoát nước cho một số khu vực nuôi, hạn chế dịch bệnh xảy ra. Năm 1995 - 1996, huyện được đầu tư dự án theo Quyết định số 773/QĐ-TTg, ngày 21/12/1994 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hóa, bãi bồi ven sông, ven biển (còn gọi là dự án 773) ở xã Ninh Phú. Dự án này mở ra hàng chục ha nuôi trồng thủy sản. Nhân dân còn khai hoang trên 150ha và chuyển trên 100ha ruộng lúa bị nhiễm mặn sang làm đìa. Năm 2000, vùng đìa nuôi tôm rộng lớn trên 1.800ha. Đối với chăn nuôi, đàn gia súc, gia cầm, trong đó 3 vật nuôi chính là heo, bò, vịt phát triển ổn định. Trên vùng đất trống, đồi núi trọc, rừng trồng được xác định chủ yếu là 2 cây bạch đàn và keo lá tràm phát triển tốt.
Như vậy, qua nhiều năm thực hiện và kiểm chứng những chủ trương phát triển nông nghiệp của Đảng, trên địa bàn huyện đã xác định đúng cơ cấu cây trồng và vật nuôi chính với quy mô tương đối ổn định, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, với truyền thống và tập quán canh tác của người dân Ninh Hòa. Kết quả đó phù hợp với quy hoạch phân vùng kinh tế của tỉnh và có ý nghĩa lớn, tạo ra điều kiện thuận lợi, ổn định để nhân dân yên tâm đầu tư nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 08-CTr/HU, ngày 9/5/1997 về phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Trọng tâm của Chương trình là đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ vào trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Biện pháp cơ bản là ổn định công tác thủy nông, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư (gọi chung là khuyến nông). Để khai thác triệt để năng lực tưới của các công trình thủy lợi hồ Đá Bàn, hồ Suối Trầu và đập sông Cái…, toàn huyện tiếp tục đầu tư nâng cấp, cải tạo và xây dựng tương đối hoàn chỉnh hệ thống kênh mương tưới, tiêu nội đồng, bê tông hóa các công trình trên kênh. Đồng thời, xây dựng thêm một số trạm bơm điện, đập nhỏ bảo đảm tưới chắc cho diện tích 2 vụ lúa và mở rộng diện tích tưới hỗ trợ cho cây mía. Các hoạt động dịch vụ thủy nông đi vào nề nếp, khắc phục cơ bản hiện tượng tranh chấp nước tưới. Có thể nói, trong giai đoạn 1996 - 2000, huyện Ninh Hòa đã cơ bản hoàn thành công tác thủy lợi hóa. Đây là môi trường thuận lợi để đẩy mạnh công tác khuyến nông. Chương trình khuyến nông được triển khai từ năm 1993 nhưng đến năm 1996 mới phát triển thành phong trào rộng khắp, thu hút đông đảo nông dân đang khát khao vươn lên xóa đói, giảm nghèo và làm giàu trên mảnh đất của mình. Qua chương trình, nông dân được đào tạo, rèn luyện và nâng cao kỹ năng, tay nghề, giúp cho họ nắm bắt, cập nhật những kiến thức về khoa học kỹ thuật và công nghệ, những kinh nghiệm về quản lý kinh tế, hiểu được những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, những thông tin về thị trường… Trong 5 năm, toàn huyện tổ chức hàng trăm điểm mô hình trình diễn và lớp bồi dưỡng, tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hướng dẫn nông dân thực hiện quy trình kỹ thuật thâm canh cây trồng, vật nuôi. Kết quả của công tác khuyến nông đã mang lại nhiều thành công. Nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả được nhân rộng như mô hình nâng cấp và nhân giống lúa mới kháng rầy, có năng suất cao chiếm trên 70% diện tích lúa; mô hình cải tạo vườn tạp, mô hình trồng nấm rơm ở nhiều xã, trồng rau ở Ninh Đông, trồng hoa huệ ở Ninh Trung, làm kinh tế trang trại, nuôi tôm thâm canh, nuôi bò lai sind, nuôi heo bằng thức ăn công nghiệp… Bên cạnh đó, cơ giới hóa nông nghiệp cũng phát triển khá mạnh. Từ khâu làm đất, gieo trồng, thu hoạch đến vận chuyển, phần lớn đều có sự hỗ trợ của máy móc. Điện lưới quốc gia được phủ khắp địa bàn nông thôn… tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn. Cùng với chính sách khuyến nông, Nhà nước tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận các nguồn vốn vay của ngân hàng. Năm 2000, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ninh Hòa cho vay trên 22 tỷ đồng, đối tượng vay chủ yếu là hộ gia đình, cá thể. Nhờ nguồn vốn vay mà kinh tế hộ gia đình, cá thể phát triển mạnh, một bộ phận nông dân thoát nghèo và vươn lên khá giả. Thực hiện Nghị định số 77/CP, ngày 29/11/1996 của Chính phủ, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 08-CT/HU, ngày 19/5/1997 về tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng, chỉ đạo thành lập đội kiểm tra liên ngành của huyện và các tổ bảo vệ ở các xã để thường xuyên tuần tra, kiểm soát và xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm pháp luật[18]. Một số tụ điểm buôn bán gỗ lậu ở Ninh Tân, Ninh Sim, Ninh Phụng... bị triệt phá, góp phần làm giảm các vụ khai thác gỗ lậu, nhất là ở vùng thượng nguồn Ba Hồ (Ninh Ích), hồ Đá Bàn (Ninh Sơn)… Đồng thời, đẩy mạnh công tác giao đất, khoán rừng trên 17.200ha cho các tổ chức, đơn vị và hộ gia đình quản lý, bảo vệ và trồng rừng, trong đó có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Ninh Tây.
Những biện pháp đồng bộ nêu trên thúc đẩy nông nghiệp trong giai đoạn 1996 - 2000 có bước phát triển khá mạnh mẽ và toàn diện. Nổi bật là trình độ sản xuất của người lao động, sự hiểu biết, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất được nâng lên một cách rõ rệt, tạo ra bước phát triển về chiều sâu so với sản xuất nông nghiệp các giai đoạn trước. Sản xuất từ chỗ sử dụng lao động thủ công là chính, đến năm 2000 hầu hết các khâu trong quá trình sản xuất đã được thay thế dần bằng lao động máy móc. Năng suất, chất lượng sản lượng và hiệu quả kinh tế đều tăng nhanh. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2000 đạt gần 590 tỷ đồng, tăng gấp 1,7 lần so với năm 1996 (tính theo giá so sánh 1994). Nhiều sản phẩm nông nghiệp có khối lượng lớn tăng nhanh, vượt xa các thời kỳ trước. Mặc dù 3 năm (1996 - 1998) xảy ra lũ lụt, hạn hán trên diện rộng nhưng an ninh lương thực trong huyện vẫn được bảo đảm. Năm 2000, một số sản phẩm chính đạt được và so với 1995, như: Sản lượng lương thực đạt 77.800 tấn, tăng 19.200 tấn; diện tích cây mía với phần lớn là giống mới trên 5.200ha, tăng 2.000ha; sản lượng tôm xuất khẩu gần 2.700 tấn, tăng hơn 10 lần; sản lượng đánh bắt hải sản trên 6.600 tấn, tăng gấp gần 2 lần... Riêng sản lượng muối hạt không ổn định, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Đối với chăn nuôi, đàn bò dao động trong khoảng 26.000 - 30.000 con, đàn heo từ 34.000 - 37.000 con, đàn vịt 800.000 - 1.000.000 con. Về lâm nghiệp, 5 năm (1996 - 2000), toàn huyện trồng rừng theo chương trình PAM và các dự án quốc gia được gần 2.500ha.
Cùng với nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và du lịch có những bước phát triển mạnh. Tháng 9/1996, liên doanh giữa Tập đoàn Hyundai (Hàn Quốc) với Tổng Công ty công nghiệp Tàu thủy Việt Nam[19] để thành lập Nhà máy đóng Tàu biển Hyundai Vinashin. Nhà máy được xây dựng tại xã Ninh Phước trên diện tích gần 100 ha mặt đất và 172ha mặt biển. Năm 1999, Nhà máy đi vào hoạt động kinh doanh sửa chữa, hoán cải tàu biển. Đây là cơ sở công nghiệp lớn nhất, thu hút nhiều lao động trên địa bàn huyện và tỉnh, có ý nghĩa lớn tạo ra động lực mới và mở đầu cho sự phát triển, khai phá tiềm năng to lớn vùng Hòn Khói lịch sử của huyện. Như vậy, trên địa bàn huyện đã và đang hình thành hai cụm công nghiệp: Cụm Ninh Xuân gồm có nhà máy chế biến đường và các cơ sở, xí nghiệp sản xuất gạch ngói quy mô lớn; cụm Hòn Khói gồm có nhà máy sản xuất xi măng, nhà máy sửa chữa tàu biển có vốn nước ngoài, các xí nghiệp và cơ sở sản xuất và chế biến muối, chế biến hải sản. Bên cạnh đó, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện phát triển khá đa dạng với trên 1.300 cơ sở sản xuất cá thể và hộ gia đình, chủ yếu là ngành nghề truyền thống như chế biến đường, mắm cá, mây tre lá, băng buông, chiếu cói, hàng mộc dân dụng, mỹ nghệ, dịch vụ cơ khí… Sau khi chuyển đổi kỹ thuật đốt lò gạch từ củi sang than đá, dưới tác động của kinh tế thị trường, các cơ sở sản xuất gạch ngói tư nhân, gia đình giảm dần, đến năm 2000 còn lại 120 cơ sở nhưng sản phẩm làm ra lại tăng lên, chủ yếu là gạch[20]. Các sản phẩm chính của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng đáng kể với khối lượng lớn như xi măng 20.000 tấn, đường kết tinh 26.800 tấn, gạch 98 triệu viên, ngói 13 triệu viên, nước mắm... Nhờ có yếu tố đầu tư nước ngoài, giá trị tổng sản phẩm toàn ngành tăng đột biến, năm 2000 đạt trên 315 tỷ đồng, tăng hơn 3 lần so với 1996 (tính theo giá so sánh năm 1994). Tuy nhiên các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn và hiện đại cũng để lại hậu quả về môi trường do chất thải chưa được xử lý triệt để như Nhà máy Đường Ninh Hòa, Nhà máy Tàu biển Hyundai Vinashin.
Bên cạnh ngành Nông, Công nghiệp, với tiềm năng và lợi thế tự nhiên, nền kinh tế huyện hình thành dần ngành du lịch - dịch vụ. Ngoài khu du lịch Dốc Lết, nhiều khu du lịch mới ra đời kết nối với du lịch Nha Trang, góp phần tạo nên những tua du lịch sinh thái hấp dẫn như Hòn Thị (Đảo Khỉ), suối Hoa Lan, suối Ba Hồ, suối nước nóng Trường Xuân…
Sự hình thành và phát triển các cụm công nghiệp, các khu du lịch mới trong những năm 1996 - 2000 tác động mạnh đến sự phân bố lại lao động trên địa bàn huyện. Số đông lao động chuyển dần từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Năm 1996, giá trị sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản) chiếm 77,1%; giá trị sản xuất công nghiệp chiếm 22,9% tổng giá trị nông - công nghiệp. Đến năm 2000, giá trị sản xuất nông nghiệp giảm xuống chiếm 66,1%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên chiếm 33,9% tổng giá trị nông - công nghiệp (tính theo giá so sánh năm 1994).
Những kết quả nêu trên là kết quả bước đầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện. Quá trình đó gắn liền với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Trong giai đoạn này, theo sự phân cấp ngân sách địa phương, nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất được để lại cho huyện 100%. Đây là nguồn thu khá lớn, tạo điều kiện cho huyện chủ động xây dựng kết cấu hạ tầng. Đối với việc quản lý và thu thuế cũng có sự đổi mới. Các đội thu thuế theo xã và liên xã được thành lập nên hạn chế được thất thu, nhất là trong hoạt động kinh doanh công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Thu ngân sách trên địa bàn tăng dần lên, đến năm 2000, đạt trên 28 tỷ (tăng 33% so với năm 1996); đã có 12/27 xã, thị trấn tự cân đối được thu, chi thường xuyên. Ngoài ngân sách được hưởng 12 tỷ theo quy định, hàng năm, huyện được tỉnh cấp bổ sung ngân sách, bình quân 8 tỷ - 9 tỷ đồng.
Bằng nguồn vốn ngân sách nêu trên cùng với vốn huy động đóng góp của các hợp tác xã và nhân dân, toàn huyện tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng ở nông thôn, trong đó ưu tiên các công trình điện - đường - trường - trạm. Đây là những hoạt động nổi bật nhất trong xây dựng nông thôn mới 5 năm (1996 - 2000). Trong đó, việc đưa điện về nông thôn được Đảng bộ đặc biệt quan tâm. Trước năm 1996, toàn huyện có 20 xã đã có mạng điện hạ thế được xây dựng theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, chủ yếu là do hợp tác xã, xã và dân đóng góp, do xã quản lý. Tuy nhiên, lưới điện chưa phủ rộng, mới có 40 - 50% hộ dân được sử dụng điện. Phần lớn lưới điện ít an toàn, không đảm bảo quy trình kỹ thuật, chất lượng điện kém, tổn thất điện năng lớn. Trừ khu vực trung tâm xã và gần các trạm hạ thế, còn lại những hộ ở cuối đường dây thì “ăn đèn, ngủ điện” thường xuyên nhưng lại phải trả tiền điện với giá cao nhất. Khắc khục những yếu kém, bất hợp lý đó, năm 1997, thực hiện chương trình phủ điện nông thôn của tỉnh, Điện lực Khánh Hòa cùng với địa phương đã đầu tư cải tạo toàn bộ mạng điện cũ ở nông thôn và xây dựng mới trên 150 km đường dây trung thế, hạ thế, phủ điện đến tất cả các thôn, xã trong toàn huyện. Đến năm 1999, điện vượt qua Hòn Hèo đến xã Ninh Vân, điện đến tận buôn làng xã miền núi Ninh Tây, Ninh Tân… Toàn huyện hoàn thành điện khí hóa nông thôn, 27/27 xã, thị trấn, 167/167 thôn và 93,2% hộ gia đình có điện lưới quốc gia với chất lượng khá ổn định. Sau khi cơ bản hoàn thành chương trình phủ điện nông thôn, mạng lưới điện được bàn giao cho ngành điện quản lý theo chủ trương của tỉnh. Từ năm 2000, tỉnh và huyện tiếp tục đầu tư phủ điện cho các vùng lõm, vùng xa, vùng sâu như Bình Sơn, Xóm Quán (Ninh Thọ), Sông Búng (Ninh Tây), Suối Sâu (Ninh Tân)... Có điện, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được nâng lên, nhân dân phấn khởi sử dụng nguồn điện phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần tạo thêm việc làm, xóa đói giảm nghèo, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho người dân.
Cùng với chương trình phủ điện nông thôn, huyện đẩy mạnh xây dựng giao thông nông thôn. Phong trào được bắt đầu từ năm 1995 - 1996 ở xã Ninh Hà và Ninh Quang. Đến cuối năm 1997, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo xây dựng thành một chương trình, triển khai trong toàn huyện. Để giúp xã chủ động xây dựng chương trình và kế hoạch thực hiện, huyện phân cấp cho ngân sách xã 100% nguồn vốn đấu giá quyền sử dụng đất để ưu tiên xây dựng giao thông nông thôn. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, quá trình làm đường giao thông được các xã gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhân dân được biết, được bàn trong quá trình huy động đóng góp kinh phí, sử dụng kinh phí và xây dựng phương án thiết kế; được kiểm tra giám sát quá trình thi công và nghiệm thu, đánh giá chất lượng công trình. Để khuyến khích các xã tích cực thực hiện chương trình, tùy điều kiện kinh tế - xã hội của từng xã, huyện chia các xã và thị trấn thành 3 loại để hỗ trợ với mức kinh phí theo phương thức đối ứng khác nhau. Loại 1 gồm 16 xã, hỗ trợ 30%; loại 2 gồm 6 xã, hỗ trợ 50%; loại 3 gồm 5 xã, hỗ trợ 90%. Với cách làm đó, vừa hạn chế được tình trạng tiêu cực “xin cho”, vừa tạo điều kiện cho cơ sở chủ động tạo vốn đối ứng xây dựng giao thông bằng cách tích cực khai thác tốt các nguồn thu trên địa bàn, vận động nhân dân ủng hộ, quyên góp bằng nhiều hình thức. Nhiều xã, trên nhiều tuyến đường mở ra, nhân dân không những không nhận tiền đền bù mà còn góp thêm công sức, tiền của để có con đường nông thôn rộng thoáng[21]. Cứ như thế, làm đường giao thông nông thôn trở thành phong trào quần chúng rộng lớn. Các tuyến giao thông liên thôn, liên xã lần lượt được mở rộng và nâng cấp với tổng chiều dài gần 240km. Trong đó, các tuyến chính của 15 xã được rải nhựa bán thâm nhập, phần lớn còn lại là đường cấp phối. Tình trạng ách tắc giao thông, đường sá lầy lội trong mùa mưa lũ trước đây cơ bản được khắc phục. Trừ xã Ninh Vân, 26 xã đều có đường ô tô chạy thông suốt từ xã này đến xã khác. Nhiều xã còn mở rộng đường liên xóm rộng 4m, xây dựng đường giao thông nội đồng kết nối với các trục đường chính trong xã rất thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Việc nâng cấp và mở rộng gần như toàn bộ các tuyến đường giao thông nông thôn cùng với ánh sáng điện trong toàn huyện làm bộ mặt nông thôn sáng bừng lên. Đời sống dân sinh, kinh tế phong phú hơn; giao lưu hàng hóa và sinh hoạt đời sống trên các tuyến Ninh Tân - Ninh Hưng - Ninh Quang - Ninh Bình, tuyến Ninh Phụng - Ninh Thân - Ninh Trung - Ninh Thượng, tuyến Quốc lộ 1A - Lệ Cam (Ninh Phú)… phong phú hẳn lên. Riêng xã Ninh Vân, năm 1998 được đầu tư xây dựng bến cầu tàu, tạo điều kiện vận chuyển hàng hóa từ đất liền ra, nhất là vật liệu xây dựng. Từ đó, nhiều công trình, nhà ngói mọc lên làm thay đổi hẳn bộ mặt làng quê vốn vẫn được coi là một xã đảo nghèo của huyện. Đường Quốc lộ 1 đi qua địa bàn huyện được Nhà nước tu sửa nâng cấp; Quốc lộ 26B nối Quốc lộ 1A đến Nhà máy tàu biển Hyundai Vinashin được xây dựng mới.
Đồng thời với các công trình điện, đường, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội được Huyện ủy quan tâm lãnh đạo đầu tư xây dựng và nâng cấp, đáp ứng nhu cầu cấp thiết đời sống văn hóa của nhân dân. Toàn huyện xây mới 9 trường học và hàng trăm phòng học; nâng cấp Trung tâm Y tế huyện, xây mới 7 trạm y tế xã và tu sửa hầu hết các trạm y tế xã còn lại; xây dựng 18 trung tâm cụm dân số - kế hoạch hóa gia đình. Một số thiết chế văn hóa phục vụ giáo dục truyền thống được hình thành như Nhà Truyền thống huyện, bia tưởng niệm liệt sĩ ở các xã, các bia kỷ niệm chiến thắng như ở Ninh Đông, Ninh Thượng, thị trấn Ninh Hòa… Khu tưởng niệm các liệt sĩ tàu không số tại Ninh Vân được xây dựng năm 1993 cũng được tu bổ lại. Một thiết chế văn hóa mới gắn với hoạt động kinh doanh ở nông thôn được hình thành. Đó là điểm bưu điện văn hóa xã. Đây là nơi mọi người dân đến để đọc sách báo miễn phí, được sử dụng điện thoại, có cơ hội tiếp cận thông tin, mở manghiểu biết, nhất là đối với các xã nghèo, xa thị trấn, nơi người dân chưa có điện thoại như Ninh Vân… Năm 2000, huyện có 9 xã có bưu điện văn hóa. Sau khi nâng cấp đài phát sóng truyền thanh và tiếp hình của huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo hoàn thành mục tiêu hoàn thiện hệ thống đài truyền thanh xã, thị trấn. 9 đài xã được xây dựng mới, những đài xã xuống cấp đều được tu sửa, nâng cấp, nâng độ phủ sóng truyền thanh 4 cấp đến khắp các địa bàn dân cư, kể cả những vùng lõm. Sau khi nâng cấp đạt tiêu chuẩn sân quốc gia, ngày 30/3/1996, sân vận động Ninh Hòa được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đặt tên là sân vân động 16/7. Bên cạnh các công trình điện - đường - trường - trạm, trụ sở làm việc của cơ quan hành chính cũng được quan tâm xây dựng mới. Sau nhiều năm ưu tiên tập trung ngân sách đầu tư cho sản xuất và các công trình phúc lợi công cộng, từ năm 1996, nhiều trụ sở xã được xây mới khang trang, cơ bản đủ văn phòng làm việc cho các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể. Ở thôn thì xây dựng trụ sở, nhà sinh hoạt cộng đồng, chấm dứt dần tình trạng phải mượn nơi để tổ chức sinh hoạt dân. Ở huyện, đầu năm 2000, công trình trụ sở mới Huyện ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện xây dựng hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Những thành công nối tiếp của các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 1996 - 2000 nêu trên thể hiện rõ nét tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đang diễn ra trên địa bàn Ninh Hòa. Những kết quả đó góp phần quan trọng làm cho diện mạo toàn huyện, từ trung tâm huyện lỵ đến từng thôn, xóm thay đổi căn bản, khác xưa cả về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là thành công kết tinh từ sự đồng thuận “ý Đảng, lòng dân’’ Ninh Hòa trong sự nghiệp đổi mới quê hương. Thành công đó tạo điều kiện mới cho các thành phần kinh tế mở rộng giao lưu, hội nhập, đẩy mạnh khai thác tiềm năng, tạo tiền đề quan trọng cho địa phương phát triển.
Từ cuối năm 1995, đầu năm 1996, tất cả các đơn vị kinh tế quốc doanh trên địa bàn huyện chuyển sang đăng ký và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Tuy nhiên, một số đơn vị không đáp ứng những điều kiện do luật định, hoặc do yêu cầu sáp nhập nên phải giải thể như Nông trường Bông Đá Bàn, Nông trường Thuốc lá Dục Mỹ, Công ty Thủy sản Ninh Hòa… Trên địa bàn huyện chỉ còn lại 6 doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và 1 doanh nghiệp công ích, hoạt động không vì lợi nhuận là Lâm trường Ninh Hòa (được chuyển đổi sang doanh nghiệp công ích năm 2000).
Đối với kinh tế tập thể, cuối năm 1996, sau khi hoàn thành công tác điều chỉnh ruộng đất theo Nghị định 64/CP và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 87,8% hộ gia đình sản xuất, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo củng cố hợp tác xã nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã 1996. Huyện chọn 2 hợp tác xã nông nghiệp Ninh Quang 1 và Ninh Quang 2 làm thí điểm chuyển đổi sang hợp tác xã cổ phần. Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết qủa lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung.Hợp tác xã tự quyết định hình thức và cơ cấu tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; tự lựa chọn ngành, nghề, lĩnh vực, quy mô sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và địa bàn hoạt động phù hợp với khả năng của hợp tác xã; được tham gia xuất khẩu, nhập khẩu, liên doanh, liên kết với các tổ chức và cá nhân ở trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Mỗi hợp tác xã có điều lệ riêng; được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi rút kinh nghiệm làm thí điểm, huyện chỉ đạo triển khai thực hiện trong toàn huyện. Đến cuối năm 1999, toàn huyện có 29 hợp tác xã hoàn thành chuyển đổi theo Luật hợp tác xã 1996; có 8 hợp tác xã phải giải thể. Sau chuyển đổi, một số đơn vị làm ăn có hiệu quả, phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất của kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên, do trong tư tưởng chỉ đạo nôn nóng hoàn thành củng cố hợp tác xã nên cách làm có phần gượng ép, trong khi đó chưa đủ điều kiện chuyển đổi theo luật. Vì vậy, sau chuyển đổi, phần lớn các hợp tác xã vẫn lúng túng, khó thích ứng với phương thức làm ăn mới trong cơ chế thị trường. Ngược lại, kinh tế cá thể, tư nhân phát triển khá mạnh, nhất là lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Năm 2000, toàn huyện có trên 1.400 cơ sở cá thể, hộ gia đình; nghề dịch vụ, kinh doanh thương nghiệp có gần 2.000 cơ sở cá thể, tư nhân được cấp giấy phép sản xuất kinh, doanh. Ngoài ra, còn có loại hình kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là Nhà máy tàu biển Hyundai Vinashin, thu hút trên 2.000 lao động.
Như vậy, đến năm 2000, các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện được hình thành bao gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể hợp tác xã và kinh tế hợp tác - là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động với nhau khá đa dạng; kinh tế tư bản nhà nước dưới hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài; kinh tế cá thể, tư nhân. Trong đó, kinh tế ngoài nhà nước, chủ yếu là kinh tế hợp tác dưới hình thức kinh tế hộ gia đình, kinh tế cá thể và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế huyện. Đó cũng là các thành phần kinh tế đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước.
Những kết quả đạt được về phát triển kinh tế, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng điện - đường - trường - trạm trên địa bàn huyện tạo ra tiền đề cho sự phát triển trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Với các phương tiện thông tin đại chúng được củng cố nâng cấp, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tiếp tục đưa thông tin, văn hóa về cơ sở, làm cho đời sống tinh thần ở nông thôn có bước chuyển biến mới về chất lượng. Trong đó, công tác tuyên truyền chú ý phổ biến đậm nét các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, các ngày kỷ niệm lịch sử và sự kiện chính trị lớn gắn liền với việc phát động các phong trào hành động cách mạng của quần chúng; tuyên truyền những nhân tố mới, người tốt việc tốt, những giải pháp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, quản lý, xây dựng đời sống văn hóa, đấu tranh chống tệ nạn xã hội… Nét mới là không ít các xã, cơ quan đơn vị có những sáng tạo tổ chức tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao với nội dung phong phú, hình thức đa dạng. Nhiều phong trào văn hóa, văn nghệ liên tục được phát động, thu hút đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia sôi nổi. Nổi bật nhất là phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Năm 1996, trong huyện đồng thời thực hiện hai cuộc vận động. Đó là cuộc vận động Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa do Bộ Văn hóa và Thông tin phát động và cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc phát động. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Huyện ủy xây dựng Chương trình hành động số 17-CTr/HU, ngày 29/10/1998 và thành lập Ban chỉ đạo Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên cơ sở thống nhất hai ban chỉ đạo hai cuộc vận động nói trên. Kế thừa những kết quả đạt được trong các cuộc vận động trước đó, cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được phát động và nhanh chóng trở thành cuộc vận động mang tính toàn dân, toàn diện, góp phần tạo nên những nét đẹp văn hóa, khơi dậy luồng sinh khí mới trong sinh hoạt tinh thần ở từng gia đình, thôn xóm, cơ quan... Qua đó, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, những giá trị truyền thống tốt đẹp của Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa, nhất là truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, ý chí tự lực, tự cường và những tập quán tốt đẹp của dân tộc, địa phương. Quá trình thực hiện cuộc vận động, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo gắn kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị. Chuẩn bị triển khai xây dựng làng văn hóa, năm 1998, huyện tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho 180 cán bộ văn hóa cơ sở và trưởng thôn. Để đăng ký xây dựng làng văn hóa, trước hết phải xây dựng được bản quy ước làng (hương ước). Quy ước làng do hội đồng làng trực tiếp điều hành và triển khai thực hiện, đặt dưới sự lãnh đạo của chi bộ thôn và chính quyền xã. Qua triển khai làm điểm một số làng, việc xây dựng và thực hiện những quy ước làng và tiêu chí của làng văn hóa cho thấy mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, mang đậm tình làng, nghĩa xóm, đáp ứng được nguyện ước của dân. Việc xây dựng làng văn hóa, cơ quan văn hóa, gia đình văn hóa dần dần lan tỏa, phát triển mạnh và trở thành phong trào rộng lớn. Đến năm 2000, toàn huyện có 43 làng đăng ký xây dựng làng văn hóa, 100% cơ quan đăng ký thực hiện nếp sống văn minh, trên 58% gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa.
Để phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, huyện liên tục tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, nhất là nhân dịp các ngày tết, lễ lớn của dân tộc và các sự kiện chính trị lớn diễn ra. Bên cạnh các hoạt động thường xuyên về văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng, giai đoạn 1996 - 2000 có nhiều hoạt động mới như giao lưu văn hóa, thể thao giữa các làng văn hóa, liên hoan đưa thông tin về cơ sở, liên hoan gia đình văn hóa, phục hồi một số hoạt động mang bản sắc dân tộc như lễ hội đình làng, hội thi múa lân... Nhiều câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa, câu lạc bộ thể dục thể thao và các tụ điểm sinh hoạt văn hóa, thể thao ra đời trong thời gian này. Nổi bật là hoạt động của các câu lạc bộ dưỡng sinh người cao tuổi, tạo nên nét chấm phá đẹp đẽ về cuộc sống yên bình vào mỗi buổi sáng. Qua các hoạt động phong trào, nhiều vận động viên, diễn viên tài năng được phát hiện, tuyển chọn và đào tạo bổ sung cho tỉnh.
Giữ gìn và phát huy những di sản văn hóa, truyền thống địa phương, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đẩy mạnh công tác sưu tầm, biên soạn lịch sử và bảo tồn di tích. Nhiều cuốn lịch sử đã được xuất bản như Lịch sử Lực lượng vũ trang Ninh Hòa thời kỳ 1945 - 1954 và chuẩn bị xuất bản tập 2 thời kỳ 1954 - 1975; lịch sử truyền thống cách mạng xã Ninh Thọ, Ninh Giang, Ninh Hà giai đoạn 1930 - 1975... Ngoài ra, còn có một số ấn phẩm khác như 3 tập sách “Ninh Hòa - Những năm tháng không quên”, ghi lại những gương điển hình, những chiến công nổi bật của quân và dân Ninh Hòa trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; “Hồi ký về Trường Đức Trí”, nơi mà có nhiều cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Ninh Hòa đã từng được học tập và rèn luyện thời niên thiếu... Năm 2000, Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang cho nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân 2 xã Ninh Quang và Ninh Thủy, góp phần tô thắm lịch sử, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa. Nhà Truyền thống huyện được tiếp tục đầu tư, trưng bày thêm nhiều hiện vật lịch sử và một số sa bàn chiến thắng, chân dung các Bà mẹ Việt Nam anh hùng của huyện... thu hút thanh niên, học sinh và nhân dân trong huyện tham quan. Năm 1999, lăng Bà Vú được xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia; năm 2000, Phủ đường Ninh Hòa được xếp hạng là Di tích lịch sử, văn hóa quốc gia. Hàng chục di tích khác được tỉnh công nhận, được quản lý, bảo vệ và tôn tạo[22]. Những nội dung văn hóa, truyền thống kể trên vun đắp lòng tự hào về quê hương, dân tộc được các cấp các ngành từng bước đưa vào nội dung giáo dục truyền thống, nhất là cho thế hệ trẻ.
Đi đôi với đẩy mạnh các phong trào, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động văn hóa, văn nghệ được tăng cường. Thực hiện Nghị định 87/CP-NĐ, ngày 12/12/1995 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng, huyện thành lập các đoàn liên ngành thường xuyên kiểm tra việc cấp phép kinh doanh và nội dung hoạt động dịch vụ văn hóa, truy quét tệ nạn xã hội. Trong 5 năm (1996 - 2000) đã xử lý nghiêm minh hàng trăm vụ vi phạm, góp phần ngăn chặn các hoạt động mua bán, cho thuê băng hình, băng nhạc, văn hóa phẩm đồi trụy và chấn chỉnh kịp thời các biểu hiện không lành mạnh ở một số nhà hàng dịch vụ ăn uống, karaoke; xóa bỏ nhiều tụ điểm mại dâm, xì ke ma túy… Việc cưới hỏi, việc tang, tổ chức lễ hội cũng từng bước đưa vào quy chế của địa phương. Năm 2000, hầu hết các xã đều hình thành tổ chức chăm lo việc tang, nhiều nơi còn vận động đóng góp đầu tư làm xe tang, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình tham gia.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Chương trình hành động số 02-CT/TU, ngày 28/3/1997 của Tỉnh ủy về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tháng 5/1997, Huyện ủy đề ra chương trình hành động thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo đến năm 2000. Trong giai đoạn 1996 - 2000 quy mô học sinh tăng nhanh, năm học 2000 - 2001, toàn huyện có trên 47.800 học sinh phổ thông, tăng 11.000 em (gần 30%) so với năm học 1995 - 1996. Được sự quan tâm đầu tư của tỉnh, huyện tập trung mọi nguồn lực và huy động đóng góp của dân để đầu tư xây mới 9 trường học và 225 phòng học, tu sửa, nâng cấp hàng trăm phòng học khác và ngói hóa 100% trường học, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển về quy mô học sinh. Tuy nhiên vẫn còn 9 trường phổ thông cơ sở chưa tách riêng cấp tiểu học. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên được quan tâm phát triển đảng viên, hàng năm được bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, được đào tạo chuẩn hóa. Năm 2000 gần 50% giáo viên phổ thông đạt chuẩn. Thực hiện xã hội hóa giáo dục, nhà trường, gia đình và xã hội có sự kết hợp chăm lo cho con em học tập và quan tâm động viên đội ngũ nhà giáo tốt hơn. Các đoàn thể đều có kế hoạch giúp đỡ, phân công đoàn viên, hội viên động viên từng học sinh có hoàn cảnh khó khăn, nhất là đối với hệ bổ túc, phổ cập. Hội khuyến học từ huyện đến cơ sở được thành lập, tích cực động viên, giúp đỡ trẻ em nghèo vượt khó, học giỏi bằng các nguồn kinh phí xã hội hóa. Với những cố gắng nêu trên, chất lượng giáo dục thể hiện qua tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp, tỷ lệ lên lớp ở các bậc học, cấp học tăng dần qua các năm, khắc phục đà giảm sút về chất lượng học tập các năm trước. Năm học 1998 - 1999, học sinh thi đỗ tiểu học đạt 97,2%, trung học cơ sở đạt 94,1%, trung học phổ thông đạt 92%; huyện giữ vững chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình giáo dục và đào tạo, trong huyện phát triển nhiều hình thức như mở rộng quy mô học sinh hệ B bậc trung học, hệ bán công, dân lập, tại chức, giáo dục công nghệ, dạy nghề…, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng được học tập phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh và nguyện vọng của mình. Năm 2000, riêng cấp trung học phổ thông, học sinh hệ bán công và hệ B chiếm tỷ lệ trên 33,4%. Đối với bậc học mầm non, năm 1996, các trường mầm non ở xã, thị trấn (trừ xã Ninh Tây) đều chuyển sang loại hình trường dân lập. Trong huyện một số cơ sở giáo dục mầm non và lớp mẫu giáo tư thục đầu tiên được thành lập. Đa dạng hóa các loại hình trường lớp, tuy giảm được một phần áp lực về kinh phí đối với ngân sách nhà nước nhưng chất lượng giáo dục bị phân hóa mạnh. Nhìn chung, chất lượng ở các loại hình ngoài công lập thấp: Đối với giáo dục mầm non, trên 70% giáo viên chưa qua chương trình đào tạo, bồi dưỡng nào; đối với trung học cơ sở và trung học phổ thông, tỷ lệ tốt nghiệp thấp. Tâm lý chung của học sinh và cha mẹ học sinh lo lắng và thấy thiệt thòi, thiếu công bằng khi không được học tại trường công.
Về công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, huyện tập trung tu sửa nâng cấp, mở rộng cơ sở vật chất, tăng cường thêm các trang thiết bị kỹ thuật, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh ở cả tuyến huyện và xã. Năm 1999, Bệnh viện huyện được trang bị một số thiết bị y tế hiện đại như máy siêu âm, X-quang, máy xét nghiệm sinh hóa…; 100% trạm y tế đều được trang bị dụng cụ y tế do UNICEF tài trợ. Công tác quản lý nhà nước ở bệnh viện được cải tiến, nâng cao tinh thần thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ y tế. Đội ngũ y, bác sĩ được thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn. Năm 2000, tại Trung tâm Y tế huyện có 45 bác sĩ, tăng 60,7% so với năm 1995; 40% trạm y tế xã có bác sĩ. Thực hiện đông tây y kết hợp, phương pháp khám, chữa bệnh theo y học cổ truyền bước đầu đưa vào bệnh viện và nhiều trạm y tế xã. Năm 2000, huyện bắt đầu triển khai chương trình y tế thôn, bản. Mạng lưới cán bộ y tế thôn từ đó được hình thành và phát triển, đóng góp không nhỏ trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu của nhân dân. Bên cạnh cơ sở y tế nhà nước, các cơ sở y tế và hiệu thuốc tư nhân tiếp tục phát triển, góp phần giảm tải cho bệnh viện huyện. Các chương trình y tế như tiêm chủng mở rộng, phòng chống các bệnh như sốt rét, lao, bướu cổ, phong, HIV/AIDS… chuyển biến mạnh, có sự phối hợp đồng bộ từ khâu tuyên truyền giáo dục đến triển khai các biện pháp can thiệp y tế. Từ những cố gắng đó, giai đoạn 1996 - 2000 là giai đoạn mà các loại dịch bệnh được khống chế tốt nhất so với trước. Một số dịch bệnh thường xuất hiện trong các năm trước 1995 không còn xảy ra. Riêng bệnh sốt rét, tỷ lệ tử vong giảm hẳn, có năm không xảy ra trường hợp nào.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể kiên trì vận động thực hiện mô hình gia đình ít con, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con. Nhiều mô hình truyền thông, giáo dục tiếp cận đến từng nhóm đối tượng như mô hình câu lạc bộ dân số, gia đình và trẻ em lồng ghép, mô hình can thiệp truyền thông lồng ghép với cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình. Việc cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình ngày càng đáp ứng đầy đủ nhu cầu lựa chọn của người sử dụng, đa dạng hóa chủng loại, an toàn, có chất lượng và thuận tiện. Người sử dụng các biện pháp tránh thai có thể đáp ứng nhu cầu tại bất cứ cơ sở dịch vụ y tế nào của Nhà nước hoặc tư nhân có đủ điều kiện, ở thị trấn hay ở vùng nông thôn. Nhờ đó, năm 2000, kết quả công tác kế hoạch hóa gia đình tiến bộ vượt bậc: Tỉ suất sinh giảm xuống còn 18‰, tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm xuống 19%, tỉ lệ tăng dân số là 1,45%. Bà mẹ mang thai được chăm sóc y tế, các chương trình phục vụ sức khỏe, dinh dưỡng cho trẻ em được quan tâm thực hiện và đạt hiệu quả. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm đáng kể. Thực hiện Chỉ thị số 06/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ tháng 12/1998, huyện triển khai chương trình bảo vệ đặc biệt trẻ em trước tệ nạn xã hội ở tất cả các xã, thị trấn. Trẻ em khuyết tật, mồ côi, con liệt sĩ, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc, giúp đỡ, đỡ đầu. Hầu hết trẻ em sứt môi, hở hàm ếch đã phát hiện đều được phẫu thuật phục hồi chức năng. Các vụ ngược đãi trẻ em, xâm hại tình dục, hiếp dâm trẻ em được xử lý kiên quyết, nghiêm minh.
Quán triệt chiến lược phát triển nhân tố con người của Đảng, Đảng bộ hết sức quan tâm công tác xóa đói, giảm nghèo, coi đây là một cuộc vận động lớn, thường xuyên có ý nghĩa to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội. Huyện ủy chỉ đạo triển khai tích cực, đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo. Trong 5 năm, đã triển khai thực hiện 21 dự án giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho hộ gia đình vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng ngành nghề, làm giàu chính đáng. Cùng với các nguồn vốn từ ngân hàng người nghèo, từ quỹ quốc gia, từ các dự án 327, dự án 773 đã giải quyết cho trên 25 ngàn lượt hộ vay hàng chục tỷ đồng. Đến năm 2000, cơ bản không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,5%[23]; tỷ lệ hộ khá giả và giàu có tăng nhanh, trong đó có nhiều hộ nghèo vươn lên từ cuộc vận động xóa đói giảm nghèo. Đối với các gia đình chính sách, ngày 13/9/1996, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Chỉ thị số 05-CT/HU, phát động phong trào đền ơn đáp nghĩa trong cán bộ, đảng viên và toàn dân. Phong trào nhanh chóng được đông đảo các tầng lớp nhân dân trong huyện tham gia và phát triển thành 5 chương trình tình nghĩa, bao gồm: Xây dựng quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa”; tặng sổ tiết kiệm; xây dựng nhà tình nghĩa; chăm sóc thương binh nặng; chăm sóc bố, mẹ liệt sĩ cô đơn, con liệt sĩ không nơi nương tựa. Ngoài ra, các cấp, các ngành còn đẩy mạnh công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em bị ảnh hưởng chất độc đi-ô-xin. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phong trào đền ơn đáp nghĩa đã góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công, trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa.
Trên cơ sở ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ quan tâm lãnh đạo củng cố quốc phòng - an ninh. Công tác quốc phòng tập trung củng cố, luân phiên lực lượng dân quân tự vệ theo Pháp lệnh Dân quân tự vệ năm 1996, nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống xảy ra. Các xã đều ổn định biên chế tổ chức các đơn vị dân quân cơ động chiến đấu và lực lượng thường trực. Huyện tổ chức, biên chế nhiều đơn vị quân dự bị động viên được huấn luyện thường xuyên. Các kế hoạch phòng thủ sẵn sàng chiến đấu, kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, kế hoạch tác chiến phòng không, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kế hoạch phòng thủ dân sự, các ban hậu cần, tài chính nhân dân từ huyện đến xã, thị trấn… được điều chỉnh, bổ sung hàng năm. Công tác diễn tập phòng thủ cấp huyện, cấp xã thực hiện đúng quy định của cấp trên. Ngày 14 - 15/6/1996, 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh tổ chức thành công cuộc diễn tập cụm liên huyện PT 96, thể hiện sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa các đơn vị trong khu vực phòng thủ phía Bắc tỉnh. Đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, các cấp ủy đảng, chính quyền triển khai lồng ghép vào các hoạt động của thôn, đội và các tổ chức đoàn thể; ở huyện lồng ghép vào chương trình chính khóa của Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện, đưa vào các trường trung học phổ thông, góp phần nâng cao nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, xây dựng tiềm lực chính trị từ cơ sở.
Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 17/12/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về Chiến lược an ninh quốc gia, Ban Thường vụ Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 21-CTr/HU, xác định các nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ an ninh tư tưởng - văn hoá, bảo vệ an ninh kinh tế, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân làm nền tảng vững chắc cho an ninh quốc gia... Ngày 16/7/1999 Ủy ban nhân dân huyện ban hành Kế hoạch số 211/KH-UB về thực hiện Nghị quyết 09/1998/NQ-CP của Chính phủ về chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Huyện phát động phong trào toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Đây được coi là một nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của toàn Đảng bộ. Các tổ chức quần chúng như ban bảo vệ dân phố, tổ an ninh nhân dân, tổ hòa giải, đội thanh niên xung kích và an ninh cơ sở, đội thiếu niên sao đỏ… ở cơ sở được củng cố, tăng cả về chất lượng và số lượng với gần 20.000 người tham gia. Nhiều mô hình mới sáng tạo bảo vệ an ninh xuất hiện như mô hình cụm liên kết an ninh trật tự giữa các cơ quan, đơn vị sản xuất, đơn vị biên phòng với địa phương xã, thị trấn, trường học... Năm 2000, toàn huyện hình thành được 18 cụm liên kết. Các đơn vị trong cụm xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp ngăn ngừa tội phạm trong gia đình, nhà trường và xã hội, tăng cường bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản các cơ quan, xí nghiệp. Những mô hình này không những nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, mà còn tạo ra thế liên hoàn giữa các lực lượng an ninh và nhân dân, đoàn kết gắn bó bảo vệ sự bình yên trên địa bàn huyện. Công tác tổ chức quản lý, giáo dục, cảm hóa những người lầm lỡ, phạm tội được đẩy mạnh tại cộng đồng dân cư. Kết quả, hàng chục đối tượng có lệnh truy nã ra tự thú; hàng trăm đối tượng vi phạm được giáo dục kiểm điểm trước dân có sửa chữa tiến bộ. Lực lượng công an từ huyện đến cơ sở phối hợp với các lực lượng chức năng chủ động liên tục tấn công, trấn áp tội phạm, mở các đợt cao điểm truy quét, triệt phá các băng nhóm chuyên nghiệp và nguy hiểm[24]; kiểm tra và xử lý hàng trăm vụ vi phạm trật tự xã hội, an toàn giao thông. Hàng năm, Nhà máy Tàu biển Hyundai Vinashin có trên dưới 100 tàu nước ngoài cập cảng sửa chữa, các lực lượng chức năng đã phối hợp quản lý chặt chẽ, bảo vệ tốt an ninh, trật tự.
Thực hiện chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cuối năm 1996, Ban Thường vụ thành lập Ban Nội chính Huyện ủy gồm thủ trưởng các cơ quan Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát, Ban Thanh tra, Phòng Tư pháp và Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy do đồng chí Nguyễn Thạch Ngọc, Phó Bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban. Thành lập Ban Nội chính Huyện ủy đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giữa các cơ quan nội chính ở huyện để đề xuất với Ban Thường vụ Huyện ủy và Thường trực Huyện ủy cho chủ trương, định hướng xử lý một số vụ việc, vụ án theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phối hợp với cơ quan tỉnh trong việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ các cơ quan nội chính cấp huyện, bảo đảm phát huy năng lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo pháp luật quy định. Trong 5 năm (1996 - 2000), đã tổ chức thanh tra kinh tế xã hội 40 cuộc; kiểm sát tuân thủ pháp luật trong quản lý hành chính ở 22 đơn vị; điều tra phá án 67% số vụ án kinh tế, đạt 79% vụ phạm pháp hình sự; xét xử đạt 95% tổng số các vụ án thụ lý cơ bản đúng luật, đúng người, đúng tội, hạn chế được án phải cải sửa nghiêm trọng. Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo có chuyển biến rõ nét, đạt 98% vụ việc, bảo đảm quyền dân chủ và lợi ích chính đáng của công dân. Qua các hoạt động nội chính đã phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm minh các sai phạm, phạt thu hồi tài sản trị giá nhiều tỷ. Riêng xử lý hành chính đối với công chức, viên chức vi phạm từ khiển trách đến buộc thôi việc là 37. Những kết quả nêu trên góp phần giữ vững sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, kìm chế được sự gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn xã hội.
Gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế là trọng tâm, Đảng bộ Ninh Hòa chú trọng đổi mới công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tập trung thực hiện một số vấn đề cơ bản và cấp bách về tư tưởng và tổ chức. Đối với công tác tư tưởng, Đảng bộ tăng cường sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động. Đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, tự giác rèn luyện và gương mẫu giữ gìn phẩm chất đạo đức, tư cách đảng viên, thực hiện nghiêm chỉnh Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 về những điều đảng viên không được làm.Tiếp tục đổi mới công tác quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, Huyện ủy đổi mới quy trình xây dựng chương trình hành động sát với thực tiễn địa phương và tổ chức đưa nhanh nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Sau khi dự thảo chương trình hành động của cấp ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt toàn huyện để quán triệt nghị quyết Đảng và thảo luận sâu chương trình hành động, nhất là những vấn đề bức xúc, cấp bách đang đòi hỏi phải giải quyết. Các tổ chức cơ sở đảng xây dựng các chương trình hoặc kế hoạch hành động, xác định những việc cần làm ngay sát với tình hình thực tiễn. Với phương pháp trên đã tạo ra sự hứng thú trong học tập nghị quyết Đảng, tỷ lệ đảng viên tham gia học tập cao, nhất là đảng viên đã nghỉ hưu; số cán bộ, đảng viên các đơn vị hành chính, sự nghiệp cũng khắc phục dần khuyết điểm ngại học tập, tham gia các lớp học nghiêm túc hơn. Qua các đợt học tập nghị quyết, trình độ nhận thức, bản lĩnh chính trị của các cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên nâng cao hơn, nhạy bén hơn. Đặc biệt, tạo ra sự nhất trí cao về tư tưởng và hành động trong Đảng bộ và nhân dân đối với những chủ trương, giải pháp thực hiện do Huyện ủy đề ra. Thực hiện Thông báo số 71-TB/TW ngày 7/6/1997 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên từ huyện đến cơ sở có những chuyển biến tích cực. Đội ngũ báo cáo viên Huyện ủy được kiện toàn, đội ngũ báo cáo viên cơ sở được thành lập. Lực lượng báo cáo viên của Đảng bộ cùng với lực lượng tuyên truyền viên của các ngành, tổ chức đoàn thể tạo nên lực lượng tuyên truyền miệng đông đảo, mạnh mẽ, phủ kín đến địa bàn dân cư. Hoạt động tuyên truyền miệng của Đảng bộ từng bước đi vào nề nếp, đóng góp quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ ương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và định hướng đúng đắn tư tưởng và dư luận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Tiếp tục đổi mới phương thức công tác tư tưởng, các cấp ủy đảng đi sát thực tiễn, nắm bắt diễn biến tư tưởng và chủ động hướng dẫn xử lý thông tin một cách đúng đắn, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái ngay từ cơ sở, góp phần củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, trước tác động tình hình khó khăn trong nước, trong bối cảnh bùng nổ thông tin, nhiều trào lưu tư tưởng mới và luồng thông tin trái chiều xuất hiện, diễn biến tư tưởng trong Đảng bộ và tâm trạng xã hội có những biểu hiện phức tạp. Đáng chú ý là tâm trạng băn khoăn, thiếu tin tưởng về đấu tranh chống tham nhũng, chống các tệ nạn xã hội; lo lắng về sự phân cực giàu nghèo ngày càng lớn trong xã hội… Một số cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng; giảm sút phẩm chất, đạo đức và lối sống. Trước tình hình đó, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 19-CTr/HU, ngày 24/7/1999 về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Chương trình nêu rõ những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu trên 3 lĩnh vực là: Nhận thức chính trị, tư tưởng; đạo đức, lối sống và một số vấn đề về công tác tổ chức. Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng kế hoạch cụ thể, ra quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và hình thành 6 tổ công tác để giúp Ban Thường vụ chỉ đạo trong quá trình triển khai thực hiện. Đảng bộ tiến hành đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình gắn với việc phát động đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân học tập và làm theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp Kỷ niệm 30 nămngày mấtcủa Người (2/9/1969 - 2/9/1999). Thực hiện phương châm cấp trên kiểm điểm trước, cấp dưới kiểm điểm sau, đợt sinh hoạt này được các cấp thực hiện nghiêm túc. Qua kiểm điểm, các đơn vị và cán bộ đảng viên nhận rõ các khuyết điểm, tồn tại, đề ra những biện pháp cụ thể để khắc phục, sửa chữa. Nhiều đơn vị, cá nhân có sự chuyển biến rõ rệt, góp phần củng cố đoàn kết, thống nhất về chính trị tư tưởng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, củng cố niềm tin của nhân dân.
Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TU ngày 1/10/1996 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tháng 4/1997, Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng 6 chức danh cán bộ chủ chốt cấp huyện và cơ sở[25], chức danh trưởng các ban ngành, đoàn thể cấp huyện đến năm 2000 và sau năm 2000. Sau khi có Nghị quyết số 3-NQ/TW, ngày 18/6/1997 của Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Ban Thường vụ Huyện ủy rà soát, bổ sung hoàn chỉnh lại quy hoạch cán bộ. Quy hoạch xác định đội ngũ cán bộ kế cận 6 chức danh chủ chốt cấp huyện có 15 đồng chí, cấp xã và thị trấn 263 đồng chí, các cơ quan, đoàn thể cấp huyện 51 đồng chí. Theo phân cấp quản lý cán bộ, mỗi cơ quan, đơn vị, xã, thị trấn đều tiến hành quy hoạch các chức danh cán bộ chủ chốt của đơn vị mình. Riêng xã, thị trấn còn tiến hành khảo sát lập chương trình củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ thôn. Trên cơ sở quy hoạch mà mỗi cấp, mỗi đơn vị lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ. Theo đó, trong 5 năm (1996 - 2000), huyện đã cử 253 cán bộ đi đào tạo cao cấp, trung cấp lý luận chính trị (trong đó 183 cán bộ có trình độ trung cấp do Trường Đảng tỉnh mở tại huyện), 67 cán bộ đi đào tạo trình độ đại học, trung cấp chuyên môn và hàng chục cán bộ đi bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước và đoàn thể do tỉnh và Trung ương mở. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại huyện được các cấp ủy, chính quyền quan tâm. Ngày 30/3/1996, Ban Thường vụ Huyện ủy quyết định thành lập Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện Ninh Hòa trên cơ sở củng cố, kiện toàn Trường Bồi dưỡng cán bộ huyện theo Quyết định số 100-QĐ/TW, ngày 3/3/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện được đầu tư tu sửa và xây mới một số công trình phục vụ cho việc học tập của học viên. Nhờ đó trong 5 năm, Trung tâm đã mở 71 lớp lý luận phổ thông, bồi dưỡng cấp ủy viên, đối tượng Đảng và các chuyên đề với trên 5.750 lượt học viên. Trung tâm còn tiếp nhận nhiều lớp trung cấp chính trị và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn do tỉnh mở tại địa phương. Đặc biệt, Ban Thường vụ chỉ đạo Trung tâm mạnh dạn liên kết với Trường Cao đẳng Tài chính - Kế toán (trực thuộc Bộ Tài chính, đóng tại Quảng Ngãi)[26] mở tại huyện lớp đào tạo trung cấp kế toán tại chức (74 học viên) nhằm phục vụ cho việc chuẩn hóa đội ngũ kế toán xã. Ngoài ra, quan tâm nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ, ngày 31/12/1996 Ban Thường vụ đề ra Kế hoạch số 05-KH/HU về mở lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ, tạo điều kiện cho các đồng chí là Huyện ủy viên, trưởng phó phòng ban, đoàn thể huyện và tương đương, bí thư, chủ tịch các xã thị trấn chưa tốt nghiệp trung học phổ thông được học tập và tốt nghiệp.
Có thể nói, từ năm 1996 - 2000 là thời gian huyện có số lượng cán bộ được đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ chuyên môn lớn nhất so với các giai đoạn trước. Những kết quả đó góp phần nâng tỷ lệ cán bộ chủ chốt cấp huyện và cơ sở có trình độ lý luận chính trị cao cấp, trung cấp đạt trên 75,4%; hầu hết cán bộ do cơ sở quản lý đều có trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên. Trên cơ sở cán bộ được quy hoạch và đào tạo nâng cao trình độ, từ thực tiễn công tác, Ban Thường vụ Huyện ủy bố trí lại đội ngũ cán bộ chủ chốt ở một số chức danh cho phù hợp. Nhìn chung, sau khi bố trí lại, cán bộ phát huy tác dụng tốt, góp phần quan trọng triển khai thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), vấn đề cốt lõi đặt ra cho Đảng bộ là phải tập trung xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh từ cơ sở. Trong đó, yếu tố quyết định là phải củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá đúng thực trạng, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo vừa tập trung củng cố cơ sở đảng yếu kém, vừa coi trọng xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh bằng các kế hoạch và giải pháp cụ thể, đồng bộ; gắn chặt công tác tư tưởng với công tác cán bộ, củng cố sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Để nắm bắt kịp thời thông tin từ cơ sở, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra đối với hoạt động của cấp uỷ cơ sở, từ tháng 5/1997, Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức giao ban cụm cơ sở xã. Các chi, đảng bộ xã, thị trấn được tổ chức thành lập 4 cụm giao ban; định kỳ hàng tháng tổ chức giao ban 1 lần vào ngày 26. Chế độ giao ban cụm thể hiện sự đổi mới trong phương pháp làm việc. Với cách làm này, việc nắm bắt thực tiễn đầy đủ hơn, có sự trao đổi thông tin giữa cấp trên và cấp dưới, vừa giúp cho cấp trên chỉ đạo sát hơn, khách quan hơn, vừa gợi mở cho cấp dưới tự giải quyết được nhiều vướng mắc ở cơ sở. Công tác phát triển đảng viên có sự chuyển biến mạnh, từ việc phát hiện, bồi dưỡng quần chúng ưu tú đến việc xem xét kết nạp đều thực hiện khá chặt chẽ, đúng quy trình. Đối tượng phát triển là nữ và trí thức được chú ý, nhất là trong ngành giáo dục và y tế. Trong nhiệm kỳ, kết nạp 510 đảng viên mới (trong đó nữ chiếm 37,5%, giáo viên chiếm 35%). Cuối năm 2000, toàn huyện có 62 cơ sở đảng (trong đó đảng bộ là 23) với 2.042 đảng viên. Qua đợt tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và phân tích chất lượng, phân loại năm 2000 cho thấy chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên đều tăng lên đáng kể so với cuối nhiệm kỳ trước: Có 44 cơ sở đạt trong sạch vững mạnh (chiếm gần 71%), 16 cơ sở khá (chiếm 25,8%), 2 cơ sở yếu (chiếm 3,2%); đảng viên loại 1 chiếm 84,4%; đảng viên loại 2 chiếm 14%; đảng viên loại 3 chiếm 1,4%; đảng viên loại 4 chiếm 0,2%.
Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng theo Chỉ thị 29-CT/TW,ngày 14/2/1998 của Bộ Chính trị, Huyện ủy đề ra kế hoạch kiểm tra theo chương trình, trong đó trọng tâm là kiểm tra việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng. Chế độ kiểm tra đối với hoạt động của chính quyền, đoàn thể thông qua các cuộc hội họp, giao ban được duy trì thường xuyên theo quy chế làm việc. Qua kiểm tra, đã kịp thời điều chỉnh, bổ sung những bất hợp lý, đồng thời uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực hiện nghị quyết của Đảng cho phù hợp với thực tiễn, thể hiện rõ vai trò và năng lực lãnh đạo của cấp ủy. Kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng và kiểm tra vụ việc, 5 năm (1996 - 2000) đã xử lý kỷ luật 1 chi ủy cơ sở (khiển trách) và 74 đảng viên (khiển trách 16, cảnh cáo 39, cách chức 4, khai trừ 15).
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, Đảng bộ lãnh đạo gắn công tác xây dựng Đảng với đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp, trọng tâm là tiếp tục củng cố bộ máy, đẩy mạnh cải cách hành chính. Tháng 5/1998, Thường trực Hội đồng nhân dân huyện có sự thay đổi, Hội đồng nhân dân họp kỳ bất thường bầu đồng chí Nguyễn Văn Chiêu, Phó Chủ tịch Hội đồng làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thay đồng chí Nguyễn Hữu Thấu được điều động về tỉnh công tác; bầu đồng chí Lê Văn Chuyển, Huyện ủy viên làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 7/8/1999 của Bộ Chính trị, Huyện ủy tập trung lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999 - 2004. Cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 14/11/1999 đúng pháp luật, an toàn và tiết kiệm. Có 99,9% cử tri đi bầu cử, bầu ra 9 đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại đơn vị Ninh Hòa; bầu 35 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện (khóa VIII), trong đó gần 50% đại biểu là Huyện ủy viên; bầu 592 đại biểu hội đồng nhân dân của 27 xã, thị trấn[27], trong đó đại biểu là đảng viên chiếm trên 70%. Phiên họp đầu tiên, Hội đồng nhân dân huyện bầu các chức danh lãnh đạo Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện: Đồng chí Phạm Đài làm Chủ tịch Hội đồng; đồng chí Lê Văn Chuyển làm Phó Chủ tịch Hội đồng; đồng chí Mai Hữu Thu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân; 2 đồng chí Nguyễn Văn Chiêu và Võ Tấn Thái làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.
Sau khi kiện toàn bộ máy tổ chức, chính quyền huyện và xã, thị trấn tiếp tục cải tiến lề lối làm việc, đổi mới công tác chỉ đạo và điều hành, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền được phân cấp. Đồng thời, đề cao trách nhiệm tham gia cùng chính quyền cấp trên thực hiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn huyện. Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện đề ra chương trình làm việc theo chuyên đề. Nhiều nội dung chuyên đề được khảo sát, xây dựng công phu, có tính khả thi cao nên nhanh chóng đi vào cuộc sống. Điển hình như chương trình phủ điện nông thôn, chương trình giao thông nông thôn, chương trình xóa đói giảm nghèo… Tiến hành bước đầu cải cách hành chính nhà nước, tập trung vào khâu đột phá là cải cách thủ tục hành chính, Ủy ban nhân dân huyện xây dựng kế hoạch thực hiện rà soát, điều chỉnh và giảm bớt những thủ tục không còn phù hợp, nhất là các lĩnh vực trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân như xây dựng, đất đai, thủ tục đăng ký kinh doanh... Cuối năm 1999, huyện chỉ đạo một số cơ quan và ủy ban nhân dân xã xây dựng và thực hiện mô hình cải cách hành chính theo quy chế “một cửa”, giảm tối đa cơ chế xin phép - cho phép trong từng việc. Tại trụ sở làm việc, công khai các quy định về thủ tục hành chính theo hướng dẫn của cấp trên. Các phòng ban tham mưu tiếp tục được kiện toàn, sắp xếp, tinh gọn từ 17 còn 12 phòng ban; bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan hành chính; xây dựng các quy chế làm việc và quy định về mối quan hệ làm việc giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện với các phòng ban, với chính quyền cấp xã, thị trấn. Đối với chính quyền cơ sở, từng bước thực hiện theo quy định của Chính phủ về biên chế và chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn theo Nghị định số 9/1998/NĐ-CP, ngày 23/1/1998 của Chính phủ; triển khai bầu trưởng thôn và ban thanh tra nhân dân. Đội ngũ công chức, viên chức được quan tâm đào tạo, đào tạo lại về nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị gắn với quy hoạch, bố trí và sử dụng hợp lý. Những đổi mới nêu trên tạo được sự chuyển biến mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của chính quyền địa phương.
Thực hiện Chỉ thị 21-CT/TW của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách ở nông thôn, Ban Thường vụ Huyện ủy đề ra Kế hoạch số 08-KH/HU ngày 13/12/1997 và lập các đoàn công tác về làm việc với từng chi, đảng bộ xã, thị trấn. Các xã, thị trấn tiến hành rà soát lại việc huy động sức dân trong và ngoài nghĩa vụ công dân; rà soát năng lực, phẩm chất cán bộ, trước hết là cán bộ phụ trách ở các lĩnh vực tài chính, đất đai, xây dựng cơ bản... Qua đó, khắc phục tình trạng thực hiện chưa nghiêm túc nghĩa vụ công dân theo chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấn chỉnh những hiện tượng vi phạm dân chủ như áp đặt, mệnh lệnh, không đưa ra dân bàn, quyết định theo nguyên tắc tự nguyện trong huy động sức dân ngoài nghĩa vụ công dân (đóng góp xây dựng công trình phúc lợi, giúp đỡ, từ thiện, nhân đạo...); chấn chỉnh tình trạng không lấy ý kiến của dân trước khi quyết định công việc của xã có liên quan đến lợi ích của đông đảo nhân dân… Đồng thời xử lý những cán bộ tham nhũng, tiêu cực, có biểu hiện lạm dụng mà cán bộ và nhân dân có nhiều ý kiến và không tín nhiệm. Nổi lên trở thành “điểm nóng” là vụ việc nhân dân thôn Ngọc Diêm, xã Ninh Ích phản ứng mạnh mẽ trước các quyết định của Ủy ban nhân dân xã thiếu dân chủ, phân chia một số diện tích đìa sai đối tượng là gia đình, người thân của một số cán bộ chủ chốt xã. Ủy ban nhân dân huyện đã ra quyết định hủy các quyết định sai trái đó và kiểm điểm, xử lý kỷ luật đối với một số cán bộ có liên quan.
Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo triển khai gắn với việc thực hiện Chỉ thị 21-CT/TW; chọn xã Ninh Diêm và thị trấn Ninh Hoà làm thí điểm. Sau khi rà soát theo Kế hoạch số 08-KH/HU, các xã, thị trấn tiến hành xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thông qua việc tổ chức thực hiện quy chế dân chủ, hương ước, quy ước…, nhận thức của cán bộ và nhân dân về dân chủ được nâng lên, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy và mở rộng cả trong nhận thức và hành động. Nhân dân được biết và quyết định nhiều hơn trong việc đóng góp xây dựng và giám sát các công trình phúc lợi phục vụ sinh hoạt, đời sống, sản xuất... Nhiều người dân thẳng thắn tham gia đóng góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên, cấp ủy đảng và chính quyền các cấp. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và nhân dân ngày càng gắn bó mật thiết hơn. Quan tâm xây dựng tổ chức đoàn thể quần chúng vững mạnh, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mặt trận, đoàn thể. Chỉ tính riêng 2 năm 1999 - 2000, đã cử 150 cán bộ cấp huyện và cơ sở đi đào tạo các trường, lớp do tỉnh và Trung ương mở; 500 cán bộ cơ sở đi đào tạo trình độ lý luận chính trị sơ cấp và bồi dưỡng nghiệp vụ do huyện mở. Nhờ đó, qua Đại hội nhiệm kỳ của mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, đội ngũ cán bộ được củng cố, kiện toàn tương đối phù hợp; hiệu quả hoạt động tiến bộ rõ nét. Gắn với thực hiện quy chế dân chủ, các đoàn thể tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, phối hợp chặt chẽ theo quy chế, tập hợp được đông đảo hội viên, đoàn viên tham gia, đóng vai trò nòng cốt trong phong trào thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Trong đó có phương thức hoạt động mới gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ của hội viên là hoạt động tín chấp. Một số đoàn thể ở cấp cơ sở như hội phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh... thực hiện vai trò tín chấp đối với ngân hàng và các dự án cho vay, giúp hội viên phát triển sản xuất, tạo việc làm. Nhiều hội viên thoát nghèo, vươn lên khá giả từ vốn do đoàn thể tín chấp. Nhiều phong trào mang đậm dấu ấn của mặt trận và đoàn thể như xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng đời sống văn hóa, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, các phong trào giữ gìn an ninh trật tự, chống các tệ nạn xã hội... Mặt trận phát huy vai trò trung tâm, tập hợp, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng chính quyền, nhất là trong các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X và bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999 - 2004. Các phong trào “nông dân sản xuất giỏi” có bước phát triển mới. Người lao động ở nông thôn được nâng cao kiến thức và trình độ kỹ thuật sản xuất, nhiều mô hình nông dân sản xuất giỏi được nhân rộng, góp phần giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo có hiệu quả. Công đoàn huyện duy trì thường xuyên các phong trào thi đua lao động sáng tạo trong công nhân, công chức viên chức; thực hiện tốt việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Đại hội công nhân viên chức hàng năm được tổ chức công đoàn phối hợp với chính quyền cơ quan, đơn vị thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động phát huy dân chủ tham gia xây dựng kế hoạch sản xuất, quản lý nhà nước, quản lý cơ quan. Hội Phụ nữ huyện triển khai sâu rộng đến cơ sở 2 phong trào lớn: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”; trong nữ công nhân, viên chức có phong trào “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Các phong trào mang lại những lợi ích thiết thực nên được đại đa số phụ nữ ủng hộ và đăng ký tham gia thực hiện sôi nổi. Đoàn Thanh niên với 2 phong trào lớn là “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” tiếp tục được duy trì và phát triển. Lực lượng đoàn viên, thanh niên trong huyện phát huy vai trò xung kích, tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, ngày càng có nhiều điển hình tiên tiến, nhất là trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và tệ nạn xã hội. Với truyền thống tốt đẹp của bộ đội Cụ Hồ, cán bộ, hội viên Hội Cựu chiến binh huyện luôn đoàn kết thống nhất thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng tổ chức hội trong sạch, vững mạnh, hội viên cựu chiến binh gương mẫu, gia đình cựu chiến binh tiến bộ”, thể hiện vai trò nòng cốt trong phong trào bảo vệ an ninh, quốc phòng, tăng cường thực lực chính trị ở địa bàn dân cư.
5 năm (1996 - 2000) là chặng đường chỉ mới bắt đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, nhưng Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa đã khởi động thành công với những bước đi vững chắc. Nền nông nghiệp được quan tâm phát triển toàn diện trong cơ cấu kết hợp giữa nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Lộ trình phát triển kinh tế nông nghiệp cơ bản đã định hình rõ nét trên 4 vùng quy hoạch. Cùng với đó là sự phát triển đúng hướng trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và sự xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa ngày càng lớn và dần dần hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn huyện. Các chương trình điện - đường - trường - trạm, chương trình về văn hóa, y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh đều có sự phát triển gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở đã làm thay đổi một cách cơ bản, rõ rệt diện mạo của huyện từ thị trấn đến nông thôn. Đó chính là kết quả của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với những chương trình phát triển kinh tế - xã hội, công tác đổi mới hệ thống chính trị có những dấu ấn mới với việc triển khai thành công các nghị quyết của Đảng về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị. Nổi bật là không khí dân chủ trong xã hội với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ngày càng thể hiện rõ trong hoạt động của các cấp, các ngành từ huyện đến cơ sở. Cho dù còn có nhiều khuyết điểm, hạn chế, trong đó có những vấn đề bức xúc trong Đảng bộ và xã hội, nhưng những kết quả nêu trên là nguồn động lực to lớn để Đảng bộ và nhân dân toàn huyện vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương.
[1] Trong 168 đại biểu có 158 đại biểu chính thức và 10 đại biểu dự khuyết lên thay 10 đại biểu chính thức vắng mặt.
[2] Báo cáo tình hình và phương hướng, nhiệm vụ tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 13 (vòng 2).
[3] 8 hợp tác xã khá gồm: Ninh Quang 1, Ninh Quang 2, Ninh Hà, thị trấn Ninh Hòa, Ninh Phụng, Ninh Đa, Ninh Đông và Ninh Thân 1.
[4] Năm 1995, tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp huyện đạt 55.545 triệu đồng (theo giá cố định 1994), trong đó doanh nghiệp nhà nước 18.893 triệu đồng, kinh tế ngoài nhà nước 36.652 triệu đồng.
[5] Năm 1993, tiểu học có 4 lớp chọn, trung học cơ sở có 8 lớp chọn.
[6] Báo cáo số 23-BC/HU, ngày 01/6/1995 của Huyện ủy Ninh Hòa về sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa VII); tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[7] Năm 1995, đội ngũ cán bộ y tế có 270 người, trong đó bác sỹ có 30 người; tại Bệnh viện Đa khoa 120 người, trạm xá 91 người.
[8] Trong 3 năm (1993 - 1995), toàn huyện vận động đóng góp được gần 3 tỷ đồng.
[9] Chuẩn hộ đói, nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia tính theo thu nhập quy ra gạo bình quân đầu người/tháng, giai đoạn 1993 - 1995: Hộ đói: dưới 13kg gạo đối với thành thị, dưới 8kg đối với khu vực nông thôn; hộ nghèo: Dưới 15kg đối với nông thôn, dưới 20kg gạo đối với thành thị.
[10] Từ 1992 - 1995, thu gom 866/1.222 quân nhân đào ngũ; năm 1993 xử lý 1234/1836 thanh niên chống khám và 91/108 thanh niên chống lệnh.
[11] Từ năm 1992 - 1995, toàn huyện tặng 800 sổ tiết kiệm trị giá 400 triệu đồng; xây dựng 69 nhà tình nghĩa; quy tập 135 mộ liệt sĩ.
[12] Năm 1995, toàn huyện có 449 tổ an ninh nhân dân với 5.364 tổ viên, 25 đội thanh niên xung kích an ninh và đội dân phòng với 292 đội viên.
[13] Kiểm tra 59 cơ sở đảng, trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 9/1992, có 15 cơ sở bỏ họp từ 2 - 8 kỳ.
[14] Báo cáo số 01-BC/HU, ngày 28/3/1992 sơ kết quý I/1992 của Huyện ủy Ninh Hòa; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[15] Theo Điều lệ Đảng do Đại hội VII của Đảng thông qua, nhiệm kỳ của tổ chức cơ sở đảng là 2 năm rưỡi.
[16] Ngày 26/3/1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng có quyết định chỉ định đồng chí Phạm Đài, Phó bí thư Huyện ủy bổ sung vào Ủy viên chính thức Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh.
[17] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ninh Hòa (khóa XIII) trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 14; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[18] Từ năm 1994 - 1999, toàn huyện đã bắt và xử lý 2.972 vụ vi phạm Luật Bảo vệ rừng, trong đó khởi tố 4 vụ; tịch thu 5.219 m3 gỗ, 1.100 ster củi, 27 tấn than gỗ củi.
[19] Nay là Tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
[20] Sản xuất gạch ngói ngoài quốc doanh: Năm 1995 đạt 61 triệu viên, trong đó có 15 triệu viên ngói; năm 2000 đạt 70 triệu viên, trong đó có 5 triệu viên ngói.
[21] Từ năm 1998 - 2000, toàn huyện đầu tư cho giao thông nông thôn 56 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 17 tỷ đồng.
[22] Tính đến năm 2010, toàn huyện có 53 di tích được công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.
[23] Chuẩn hộ đói, nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia tính theo thu nhập quy ra gạo bình quân đầu người/tháng, giai đoạn 1995 - 2000: Hộ đói: dưới 13kg đối với mọi vùng; hộ nghèo: Dưới 15kg đối với nông thôn miền núi, hải đảo, dưới 20kg đối với nông thôn đồng bằng, trung du, dưới 25kg gạo đối với thành thị.
[24] 1996 -2000, đã mở 14 đợt cao điểm tấn công tội phạm, triệt phá 9 băng nhóm bắt và vận động 145 đối tượng có lệnh truy nã ra tự thú, đưa đi giáo dục 189 đối tượng.
[25] 6 chức danh cán bộ chủ chốt gồm: Bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
[26] Nay là Trường Đại học Tài chính - Kế toán.
[27] Tháng 12/1998, huyện có thêm xã mới là Ninh Sơn theo Nghị định số 98/1998/NĐ-CP.