Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 15, nhiệm kỳ 2000 - 2005
Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 22/5/2000 của Bộ Chính trị và kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng, từ ngày 1 - 3/11/2000, Đảng bộ huyện Ninh Hòa tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ 15, nhiệm kỳ 2000 - 2005 tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện. Về dự Đại hội có 170 đại biểu chính thức đại diện cho trên 2.000 đảng viên và 62 tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ. Đại hội tập trung kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 14; đề ra phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2000 - 2005; đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 9 và Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 14. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XV, nhiệm kỳ 2000 - 2005 gồm 33 ủy viên; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 14 gồm 26 đồng chí. Chiều ngày 3/11/2000, ngay sau khi bế mạc Đại hội, Ban Chấp hành khóa XV họp lần thứ nhất bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí; bầu đồng chí Phạm Đài giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Thạch Ngọc và đồng chí Mai Hữu Thu giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy. Đến ngày 24/11/2000, tại Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy 5 đồng chí và lần đầu tiên bầu trực tiếp Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy.
Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 15, Đại hội khẳng định: “Trong nhiệm kỳ qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã phấn đấu từng bước sử dụng có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của huyện, động viên được nội lực của nhân dân và tranh thủ sự đầu tư của trên để phát triển mạnh kinh tế - văn hóa xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân… Những kết quả đạt được có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo ra sự biến đổi sâu sắc và tích cực bộ mặt nông thôn Ninh Hòa, là tiền đề cơ bản cho sự phát triển trong những năm tiếp theo”[1]. Đại hội thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 1996 - 2000, trong đó nhấn mạnh: Hiệu quả kinh tế trên các vùng sản xuất, nhất là vùng trồng mía, vùng nuôi tôm còn thấp; năng lực lãnh đạo tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, nhiều vấn đề bức xúc trong công tác quản lý kinh tế - xã hội chưa được giải quyết. Công tác xây dựng Đảng, tổ chức bộ máy cán bộ còn bộc lộ những yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. “Sự yếu kém trong quản lý điều hành của một số cơ quan chính quyền, nhất là về quản lý đất đai, xây dựng cơ bản và những thủ tục hành chính chưa được cải cách phù hợp cùng với những biểu hiện thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức trách, quan liêu, cửa quyền, sa sút phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đã làm hạn chế hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, gây bất bình và tạo dư luận không tốt trong nhân dân”[2].
Trên cơ sở kết quả đã đạt được, xuất phát từ những yêu cầu mới, Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2000 - 2005 là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên địa bàn huyện, trọng tâm là nông nghiệp và nông thôn; coi trọng phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ - du lịch; cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững sự ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Mục tiêu lớn đến năm 2005: Tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,5%, tổng sản lượng lương thực đạt 80.000 tấn, diện tích cây mía 5.000ha với năng suất bình quân 60 tấn/ha/năm, sản lượng đánh bắt hải sản 6.000 tấn, diện tích nuôi tôm xuất khẩu 2.000ha; tốc độ phát triển ngành công nghiệp tăng bình quân hàng năm 12%; tốc độ phát triển dịch vụ - du lịch tăng bình quân hàng năm 9%; thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân hàng năm 8%; không còn hộ đói, thu hẹp hộ nghèo còn 3%.
Trong quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, với tinh thần phấn đấu vươn lên, tiếp thu ý kiến hội nghị cán bộ toàn huyện nửa nhiệm kỳ, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ 16 đã ra Nghị quyết số 10-NQ/HU, ngày 15/8/2003 điều chỉnh tăng mức phấn đấu một số mục tiêu quan trọng mà Đại hội XV đã đề ra. Nghị quyết xác định rõ chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ; đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa thị trấn, thị tứ, cụm xã, phấn đấu để đạt được mục tiêu tổng quát là huyện Ninh Hòa trở thành thị xã trực thuộc tỉnh. Đây là những điều chỉnh kịp thời và xác định rõ một hướng đi mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và tiềm năng phát triển của huyện, thể hiện sự năng động, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt thời cơ của Huyện ủy, được toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân đồng tình, ủng hộ.
Đảng bộ lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 15 và các nghị quyết tiếp theo của Huyện ủy trong điều kiện có nhiều thuận lợi cơ bản. Sau 15 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua những khó khăn do tác động của biến động tình hình chính trị, kinh tế thế giới, phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế... làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều, đời sống nhân dân nhiều mặt được cải thiện rõ rệt. Trong tỉnh, nền kinh tế bước vào thời kỳ phát triển cao liên tục, thu ngân sách lớn nên có điều kiện đầu tư thực hiện nhiều chương trình kinh tế - xã hội trên địa bàn toàn tỉnh, tạo cơ hội cho các địa phương phát triển. Bên cạnh những thuận lợi đó cũng gặp không ít khó khăn. Bước vào thế kỷ 21, tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là sau sự kiện khủng bố ở Mỹ ngày 11/9/2001. Trong nước, các thế lực thù địch tăng cường chống phá ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây ra 2 vụ bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường và hậu quả do biến đổi khí hậu… tác động trực tiếp đến tình hình trong nước gây ra nhiều khó khăn mới.
Trong điều kiện thuận lợi và khó khăn đó, phát huy tinh thần đoàn kết nhất trí và sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, với những thành tựu đã đạt được và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị từ các năm trước, Đảng bộ huyện lãnh đạo nhân dân từng bước tháo gỡ khó khăn, nắm bắt thời cơ, ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XV đã đề ra.
Đổi mới đồng bộ và toàn diện, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa trên địa bàn huyện
Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 14, Huyện ủy lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 15 bằng nhiều chương trình hành động cụ thể trên từng lĩnh vực kinh tế - xã hội. Các chương trình đều tập trung thực hiện những mục tiêu cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đảng bộ huyện coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu và xuyên suốt trong nhiệm kỳ 2000 - 2005. Đối với sản xuất nông nghiệp, tiếp tục chuyển mạnh theo hướng tập trung, thâm canh, gắn với thị trường và công nghiệp chế biến. Đảng bộ tập trung lãnh đạo thực hiện tốt 2 biện pháp then chốt là nâng cao chất lượng công tác khuyến nông và chất lượng dịch vụ thủy nông. Căn cứ Quyết định số 66/2000/QĐ-TTg,ngày 13/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ, Hội nghị Huyện ủy lần thứ 3, ngày 5/2/2001 thống nhất một số chủ trương lãnh đạo thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương từ năm 2001 đến 2010. Mục tiêu là hoàn thành cơ bản kiên cố hóa kênh mương từ cấp I đến III của các công trình thủy lợi trên địa bàn huyện, trong đó kênh cấp III thuộc trách nhiệm của huyện. Đây là chương trình có ý nghĩa lớn trong sản xuất nông nghiệp nhằm ổn định, tiết kiệm nguồn nước tưới, tiết kiệm công sức, tiền của nạo vét kênh mương hàng năm... Tuy nhiên, thời gian đầu tiến độ thực hiện kiên cố hóa kênh mương loại III chậm, chủ yếu là do nguồn vốn đối ứng của các xã, hợp tác xã thấp. Ngày 9/4/2001, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Chỉ thị số 06-CT/HU tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với chương trình kiên cố hóa kênh mương. Các nguồn vốn gồm cả vốn đối ứng, vốn vay, vốn của tỉnh, của Trung ương được huyện điều chỉnh cân đối lại và xây dựng kế hoạch vay, trả nợ cụ thể có tính khả thi cao. Cách làm đó được tỉnh đồng tình và quan tâm chỉ đạo thực hiện. Mặt khác, Công ty Khai thác các công trình thủy lợi Bắc Khánh Hòa tích cực trợ giúp, sản xuất vật liệu xây dựng mương đúc sẵn (tấm bê tông chữ U), tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ kiên cố hóa kênh mương cấp III. Đến năm 2005, toàn huyện đã đầu tư gần 50 tỷ đồng thực hiện 369 tuyến kênh cấp III với chiều dài trên 260km. Kết quả của chương trình kiên cố hóa kênh mương mang lại hiệu quả thiết thực, đặc biệt là rút ngắn thời gian cấp nước, tăng diện tích tưới, thuận lợi trong quản lý, khai thác, sử dụng nguồn nước phục vụ tưới, tiêu khoa học. Kết hợp kiên cố hóa kênh mương, các xã đẩy mạnh cải tạo đồng ruộng, phát triển giao thông nội đồng tạo điều kiện cơ giới hóa hầu hết diện tích trồng lúa trong khâu làm đất và vận chuyển vật tư, sản phẩm; nhiều nơi sử dụng máy sạ bán cơ khí trong khâu gieo sạ lúa và thu hoạch lúa bằng máy gặt. Trên những cánh đồng Ninh Hòa hiếm khi bắt gặp cảnh gồng gánh tất bật của người nông dân khi vào vụ như những năm trước đây. Những kết quả về thủy lợi hóa, cơ giới hóa nêu trên tạo ra thuận lợi cho việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Thực hiện Chương trình hành động số 10-CTr/TU, ngày 28/10/2002 của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đề ra Kế hoạch số 18-KH/HU thực hiện Kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về khoa học - công nghệ đến năm 2010. Theo đó, công tác khuyến nông được các cấp ủy đảng, chính quyền coi trọng đẩy mạnh phục vụ chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn huyện nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích. Bên cạnh việc tuyên truyền, hướng dẫn, trình diễn mô hình…, công tác khuyến nông chú trọng tổ chức chuyển giao các tiến bộ khoa học - công nghệ về quy trình thâm canh, đưa các loại giống mới cây trồng, vật nuôi vào sản xuất, trong đó tập trung cho cây lúa, mía, chăn nuôi bò, heo và nâng cao chất lượng tôm giống. Năm 2000, huyện chỉ đạo thực hiện chương trình nâng cấp giống lúa ở 19 xã có diện tích thuần 2 vụ lúa và có chủ trương: Đối với người dân sản xuất lúa giống sẽ được huyện hỗ trợ 25%, xã hỗ trợ 25% chi phí; hợp tác xã thì được huyện tạo điều kiện giúp đỡ thực hiện. Điển hình là Hợp tác xã Nông nghiệp thị trấn Ninh Hòa, huyện mạnh dạn ứng trước 100 triệu đồng để làm vốn đầu tư mua máy sấy và sàng lúa giống. Kết quả, Hợp tác xã đã sản xuất và cung cấp mỗi năm trên 300 tấn lúa giống cho nông dân trong huyện. Nhiều hộ nông dân hưởng ứng chủ trương của huyện cũng thực hiện đạt kết quả khá tốt. Phần lớn lúa giống sản xuất ra có độ thuần chủng cao, phù hợp với đất đai, khí hậu ở Ninh Hòa; số lượng không những đáp ứng nhu cầu trong huyện mà còn đủ dự phòng để chủ động khi gặp thiên tai, lũ lụt. Đối với cây công nghiệp chủ lực là mía được Nhà máy Đường quan tâm giúp nông dân cơ cấu một số giống mới có năng suất cao. Một số giống cây ăn quả cũng được đưa về trồng thử nghiệm rải rác ở một số hộ gia đình, vườn rừng hoặc trang trại. Tuy nhiên, trừ một số cây truyền thống như xoài, bưởi… còn lại phần lớn không thành công hoặc không nhân rộng được do hiệu quả kinh tế không cao. Đối với lĩnh vực chăn nuôi, từ năm 2001 - 2005 huyện thực hiện các dự án lai tạo đàn bò, chủ yếu là giống bò lai sind, bò lai brahman. Nhiều giống mới gia súc, gia cầm khác có năng suất cao tiếp tục được đưa đến với nông dân như giống heo landrrac, yorkshin, giống gà Tam Hoàng, Lương Phượng, giống vịt siêu trứng… Năm 2003, huyện tạo điều kiện và phối hợp với Tổng Công ty Khánh Việt (Khatoco) khảo sát, quy hoạch khu vực xây dựng và phát triển chăn nuôi đà điểu tại 3 xã Ninh Phụng, Ninh Xuân, Ninh Thân. Năm 2004, Trung tâm Giống đà điểu Khatoco Ninh Hòa được thành lập tại xã Ninh Phụng. Đây là một loại vật nuôi mới có giá trị kinh tế cao, lần đầu tiên được nuôi ở huyện với quy mô lớn nhất tỉnh.
Bên cạnh các giải pháp kỹ thuật, công tác quản lý của các hợp tác xã nông nghiệp được coi trọng đổi mới. Thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2003, tất cả các loại hình hợp tác xã gồm 21 hợp tác xã nông nghiệp, 3 hợp tác xã muối và 6 hợp tác xã kinh doanh ngành nghề khác trong huyện tiến hành chuyển đổi theo theo mô hình mới. Trong quá trình chuyển đổi, Ban Thường vụ Huyện ủy có sáng kiến vận động một số hợp tác xã ở những loại hình khác nhau, hoạt động hiệu quả liên kết với nhau để tổ chức kinh doanh nhằm tạo ra sức mạnh sản xuất mới hỗ trợ cho nhau, phù hợp với luật mới và điều kiện cụ thể của huyện. Tháng 5/2003, huyện đề nghị và được tỉnh đồng ý cho thành lập mô hình liên doanh mới bao gồm các loại hình hợp tác xã. Cuối năm 2003, Liên hiệp Hợp tác xã sản xuất kinh doanh, dịch vụ tổng hợp Ninh Hòa ra đời gồm 7 thành viên cổ đông là: 4 hợp tác xã nông nghiệp (Ninh Quang 1, thị trấn Ninh Hòa, Ninh Giang và Ninh Đa), 2 hợp tác xã muối (1/5 Ninh Diêm và Ninh Thủy) và Hợp tác xã Thủ công mỹ nghệ Vĩnh Phước. Ủy ban nhân dân huyện giao Nhà khách huyện 131 Trần Quý Cáp, thị trấn Ninh Hòa[3] cho Liên hiệp để làm văn phòng giao dịch. Bước đầu, Liên hiệp hoạt động có hiệu quả, giải quyết được một số khó khăn về vốn và lao động. Số lao động nông nhàn của các hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang làm gia công sản phẩm cho Hợp tác xã Vĩnh Phước. Với số vốn lưu động đóng góp tương đối lớn, trên 1,1 tỷ đồng nên góp phần giúp các thành viên cung ứng tốt hơn vật tư và một số dịch vụ khác cho hộ gia đình sản xuất. Liên hiệp còn đầu tư dây chuyền sản xuất nước uống tinh khiết phục vụ nhu cầu thị trường trên địa bàn huyện. Ngoài các hợp tác xã liên doanh trong Liên hiệp, sau khi chuyển đổi theo luật mới, phần lớn hợp tác xã nông nghiệp hoạt động cầm chừng. Trên 40% hợp tác xã hoạt động chỉ đơn thuần hợp đồng với Công ty Khai thác công trình Thủy lợi Bắc Khánh Hòa để làm dịch vụ thủy lợi và thu thủy lợi phí; một số hợp tác xã tổ chức thêm các dịch vụ xã hội như dịch vụ đám tang, đám cưới; một số hợp tác xã khác ngừng hoạt động chờ giải thể. Trong khi kinh tế tập thể gặp khó khăn, chựng lại thì mô hình kinh tế trang trại phát triển rất nhanh. Năm 2005, toàn huyện có trên 1.000 trang trại gồm hơn 470 trang trại nông - lâm nghiệp, 530 trang trại nuôi trồng thủy sản. Đối với trang trại sản xuất nông - lâm, phần lớn là kết hợp trồng mía, chăn nuôi bò. Mô hình kinh tế trang trại là kết quả của quá trình chuyển đổi từ kinh tế hộ nông dân sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Mô hình này giải quyết được nhiều việc làm và mang lại thu nhập đáng kể cho một bộ phận nhân dân.
Những biện pháp tích cực nêu trên góp phần quan trọng thúc đẩy nông nghiệp phát triển và ổn định. Mặc dù năm 2005, huyện bị hạn hán nặng nề, diện tích gieo trồng và năng suất lúa vụ hè - thu giảm sút trên 60% so với cùng vụ các năm trước, sản lượng lương thực chỉ đạt trên 48.000 tấn nhưng bình quân 5 năm (2001 - 2005) sản lượng vẫn đạt gần 80.000 tấn. Năm 2003 đạt cao nhất, trên 88.600 tấn. An ninh lương thực trên địa bàn huyện được bảo đảm. Diện tích, sản lượng nhiều cây công nghiệp hàng năm, cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả năm 2005 so với năm 2000 tăng nhanh, như: Mía có trên 7.800ha, tăng trên 51%; đào lộn hột gần 800ha, tăng gấp 2,6 lần; xoài trên 1.800ha, tăng gấp 3 lần… Tiếp tục giao đất khoán rừng cho dân, 5 năm, toàn huyện trồng được gần 1.700ha rừng. Đối với chăn nuôi, tổng đàn gia súc, gia cầm đều không tăng về số lượng, đàn bò dao động trên dưới 20.000 con, đàn heo dao động trên dưới 30.000 con nhưng chất lượng đàn được nâng lên rõ rệt. Đàn bò có tỷ lệ bò lai chiếm trên 50% tổng đàn, đàn heo có tỷ lệ heo siêu thịt chiếm trên 60% tổng đàn nên sản lượng thịt hàng năm vẫn tăng khá.
Triển khai thực hiện chương trình kinh tế biển của Tỉnh ủy, ngày 15/8/2003, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 11-NQ/HU về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phát triển nuôi trồng thủy sản. Các vùng nuôi trồng thủy sản và trồng rừng ngập mặn được quy hoạch lại. Một số vùng nuôi tôm có diện tích lớn tiến hành cải tạo hoặc xây dựng mới hệ thống kênh cấp và tiêu nước chính. Quá trình quy hoạch tạo điều kiện phát triển thêm gần 250 ha đìa, tập trung ở Ninh Phú, Ninh Thọ, Ninh Phước... Mặc dù nhiều vùng nuôi được quy hoạch lại, diện tích nuôi tôm tăng, kỹ thuật nuôi tôm tiếp cận được phương pháp nuôi công nghiệp, tiên tiến nhưng sản lượng tôm nuôi hàng năm vẫn không ổn định. Thời gian này, nghề nuôi tôm thiếu sự hướng dẫn của các ngành chức năng; thiếu sự liên kết, hợp tác giữa những người nuôi, mạnh ai nấy làm, nhất là về thời vụ, phòng trừ dịch bệnh, sử dụng hóa chất... Đây là một trong những nguyên nhân góp phần dẫn đến môi trường bị ô nhiễm nặng, dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên diện rộng. Vì vậy, yếu tố may rủi thường xảy ra với đa phần người nuôi tôm. Có năm, có vụ được mùa như năm 2003, toàn huyện đạt sản lượng cao nhất trên 2.800 tấn. Nhưng 2 năm sau (2004 - 2005) liên tiếp mất mùa, sản lượng giảm gần 50% so với trước, phần lớn người nuôi tôm bị thua lỗ. Trên 200 trại sản xuất tôm giống cũng rơi vào tình trạng thua lỗ, trên 70% số trại phải ngừng hoạt động. Ngoài tôm sú, trong huyện xuất hiện thêm sản phẩm nuôi trồng mới là vẹm xanh. Năm 2001, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh phối hợp với Viện Hải dương học Nha Trang xây dựng mô hình nuôi vẹm xanh ở biển đầm Nha Phu, tại thôn Tân Thành và Ngọc Diêm, xã Ninh Ích. Con giống được lấy từ đầm Lăng Cô (Thừa Thiên Huế). Từ kết quả nuôi thử nghiệm thành công, huyện nhân rộng mô hình đến hộ gia đình. Lúc đầu chỉ có trên 20 hộ nuôi với 3.000 cọc nuôi, đến năm 2005 đã có hàng trăm hộ nuôi ở các xã xung quanh đầm như Ninh Ích, Ninh Lộc, Ninh Phú. Số lượng lên tới hàng vạn cọc, mỗi hộ ít nhất cũng có 2.000 cọc, nhiều hộ trên 20.000 cọc. Năng suất trung bình mỗi cọc trên 10kg. Ninh Ích là xã có nhiều hộ nuôi vẹm, trên 300 hộ. Ngoài ra, tại khu vực biển đầm Nha Phu còn có mô hình khai thác và ương giống tôm hùm tự nhiên cung cấp cho các địa phương trong tỉnh. Hai mô hình nuôi trồng mới nêu trên vừa giúp cho hàng trăm hộ nông dân chuyển đổi ngành nghề, xóa đói giảm nghèo, vươn lên có cuộc sống khá giả, vừa phục hồi các nguồn lợi ven biển vốn có trước đây ở đầm Nha Phu. Về đánh bắt hải sản, số lượng tàu thuyền tiếp tục tăng. Cuối năm 2005, toàn huyện có trên 2.000 tàu thuyền đánh bắt hải sản, trong đó có 850 tàu thuyền máy, tổng công suất trên 15.000 CV, trong đó có 8 tàu đánh bắt xa bờ. Năm 2005, sản lượng đánh bắt hải sản đạt trên 7.000 tấn. Đối với sản xuất muối hạt, sản lượng hàng năm không ổn định do thời tiết và giá muối thấp. Năm 2000 mưa nhiều, riêng khu vực kinh tế ngoài nhà nước sản lượng chỉ đạt gần 7.000 tấn; năm 2005 nắng hạn nên được mùa, đạt trên 54.000 tấn.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ luôn chú ý quan tâm lãnh đạo tốt công tác quản lý ruộng đất. Đây là vấn đề quan trọng không những đối với phát triển kinh tế - xã hội mà còn là yếu tố góp phần bảo đảm an ninh nông thôn. Từ năm 1995, huyện đã tập trung xây dựng hồ sơ quy hoạch sử dụng đất phục vụ công tác quản lý đất đai cho từng xã, thị trấn giai đoạn 1996 đến 2010. Trên cơ sở đó, tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân và tổ chức sử dụng đất theo chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, quá trình quản lý và thực hiện theo quy hoạch có nhiều hạn chế, khuyết điểm. Trong nhiều năm liền, dân ở nhiều xã không được cấp đất xây dựng nhà ở, gây ra bức xúc ở nông thôn. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền cơ sở buông lỏng công tác quản lý đất đai… Vì vậy, tình trạng lấn chiếm làm nhà ở, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái pháp luật, không theo quy hoạch xảy ra khá phổ biến. Tình trạng tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, đòi lại đất cũ diễn ra ở nhiều nơi, nhất là đất nuôi trồng thủy sản, có nơi gay gắt như ở Ninh Ích, Ninh Thọ, Ninh Phước… Trước tình hình đó, để lập lại trật tự, kỷ cương trong quản lý sử dụng đất, Ban Thường vụ Huyện uỷ ra Nghị quyết số 06-NQ/HU, ngày 10/7/2002 về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện. Tiếp theo sau đó, Huyện ủy ban hành Chương trình hành động số 11-CTr/HU, ngày 7/8/2003 thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể hóa nghị quyết và chương trình hành động của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện ban hành kế hoạch và nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện. Theo hướng dẫn của huyện, các xã, thị trấn tiến hành điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, có kế hoạch sử dụng đất hàng năm, trong đó được bố trí một phần quỹ đất để tổ chức bán đấu giá nhằm tạo vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Huyện ban hành các quy định cụ thể để giải quyết các trường hợp sử dụng đất chưa đúng, chưa đủ thủ tục, chưa có hồ sơ pháp lý; công khai trình tự thủ tục kê khai, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng… Đồng thời, giải quyết thỏa đáng phần lớn các trường hợp khiếu kiện, tố cáo, tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít trường hợp khiếu kiện kéo dài. Công tác kiểm tra, thanh tra cũng được tăng cường. Qua đó, chấn chỉnh những sai sót trong công tác quản lý đất đai, nhất là ở cơ sở và xử lý nghiêm minh một số vụ việc vi phạm Luật Đất đai. Tháng 12/2005, Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện được thành lập, huyện đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện quy chế một cửa để giải quyết hồ sơ địa chính. Những đổi mới nêu trên góp phần tích cực khắc phục cơ bản những yếu kém và lập lại kỷ cương, trật tự trong quản lý đất đai. Tính đến năm 2005, số hộ, tổ chức, cá nhân sử dụng đất trong toàn huyện đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt trên 85% tổng số đối tượng được cấp. Nhiều khu dân cư hình thành tự phát trước đây từng bước được hợp thức hóa đất ở theo hướng dẫn của Ủy ban nhân dân tỉnh. Đội ngũ cán bộ địa chính xã được kiện toàn, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Năm 2004, có 30% cán bộ được đi học đại học quản lý đất đai hệ tại chức, góp phần làm tốt công tác quản lý đất đai ở cơ sở.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện tiếp tục tăng trưởng cao, bình quân hàng năm 19%. Năm 2005, toàn huyện có 1.275 cơ sở sản xuất, thu hút trên 11.000 lao động, trong đó: Khu vực nhà nước có 4 cơ sở; khu vực kinh tế tập thể có 5 cơ sở (kể cả 2 hợp tác xã vận tải); khu vực kinh tế tư nhân, cá thể có 1.261 cơ sở; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có 5 cơ sở. Trong khu vực kinh tế nhà nước, ngoài Nhà máy Đường, còn lại 3 cơ sở đều đã thực hiện cổ phần hóa. Sau khi cổ phần hóa, các doanh nghiệp hoạt động năng động, có hiệu quả hơn trước, như: Xí nghiệp Gạch ngói Ninh Hòa tự chế tạo máy cắt gạch, không những phục vụ trong đơn vị mà còn sản xuất ra cung cấp theo đơn đặt hàng của một số đơn vị trong nước; Công ty cổ phần Xi măng Hòn Khói đổi mới công nghệ hệ thống gối đỡ trong dây chuyền nghiền và phương pháp xử lý lò nung… tăng nhanh năng suất, sản lượng và giá trị sản phẩm. Trong khu vực kinh tế tập thể, kinh doanh có hiệu quả nổi bật là Hợp tác xã Thủ công mỹ nghệ Vĩnh Phước. Đây là một trong rất ít hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp trong tỉnh còn tồn tại và hoạt động hiệu quả. Hợp tác xã năng động tìm ra các giải pháp xúc tiến tìm kiếm khách hàng, thị trường mới, đổi mới công nghệ, lao động sáng tạo, luôn có những sản phẩm mới với chất lượng uy tín, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của thị trường nhiều nước trên thế giới. Từ đó, tạo việc làm có thu nhập ổn định cho trên 1.000 xã viên của Hợp tác xã và gần 2.000 lao động nông nhàn gia công sản phẩm cho Hợp tác xã. Năm 2005, Hợp tác xã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Những chuyển biến nêu trên góp phần vào kết quả sản xuất của toàn ngành công nghiệp, hàng năm đều đạt mức tăng trưởng khá. Tính theo giá so sánh năm 1994, tổng giá trị sản xuất toàn ngành năm 2005 đạt trên 1.200 tỷ, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2000, trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 83,3%. Bên cạnh mặt tích cực của sự phát triển công nghiệp, mặt tiêu cực gây bức xúc trong nhân dân là dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường như do chất thải hạt nix của Nhà máy Tàu biển Hyundai Vinashin diễn ra nhiều năm nay; hoặc hủy hoại môi trường như do nạn khai thác trái phép sỏi cát, đất nguyên liệu làm gạch…
Trên lĩnh vực dịch vụ, huyện tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, chủ yếu là các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Trong giai đoạn 2001 - 2005, số cơ sở kinh doanh dịch vụ tăng nhanh, bình quân mỗi năm trên 140 cơ sở, chủ yếu là cá thể, đến năm 2005, toàn huyện có 4.663 cơ sở[4]. Trên địa bàn huyện có một doanh nghiệp công ích là Công ty Quản lý đô thị và công trình công cộng Ninh Hòa. Công ty thành lập đầu năm 2001, đến năm 2005 được cổ phần hóa, đổi tên là Công ty Cổ phần Đô thị Ninh Hòa. Là một địa phương có tiềm năng du lịch, nhưng trong giai đoạn này mới bước đầu được mở rộng khai thác. Ngoài các khu du lịch Dốc Lết (Ninh Hải), Ba Hồ (Ninh Ích), suối nước nóng Trường Xuân (Ninh Tây), du lịch sinh thái biển đảo bắt đầu được chú ý khai thác như đảo khỉ (Hòn Thị, Ninh Ích), suối Hoa Lan (Ninh Phú)… thu hút ngày càng đông du khách trong nước và quốc tế. Đặc biệt, tại xã Ninh Vân có khu du lịch cao cấp 5 sao đầu tiên là Six Senses Ninh Vân Bay do Công ty cổ phần Hồng Hải (Nha Trang) khởi công xây dựng từ năm 2002. Về sau, công ty liên kết với một số công ty trở thành Công ty Cổ phần Bất động sản Du lịch Ninh Vân Bay. Khu du lịch Six Senses Ninh Vân Bay ra đời đã đánh thức tiềm năng du lịch to lớn ở một vùng Hòn Hèo lịch sử, sơn thủy hữu tình.
Các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển nhanh đã tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện khá rõ nét theo hướng tích cực. Đến năm 2005, tỷ trọng công nghiệp tăng dần chiếm 54,7%, nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp, thủy sản) giảm dần chiếm 28,3%, ngành dịch vụ chiếm 17% tổng giá trị sản phẩm xã hội trên địa bàn huyện. Đó là kết quả bước đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế trên địa bàn huyện.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn thể hiện qua kết quả xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế, văn hóa - xã hội. Sau nhiều năm ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các xã, từ năm 2001, Ban Thường vụ Huyện ủy chủ trương điều chỉnh cơ cấu đầu tư, dồn sức xây dựng các công trình trên địa bàn thị trấn. Ngoài tranh thủ nguồn vốn tỉnh và Trung ương hỗ trợ, huyện khai thác mọi nguồn vốn trong huyện, nhất là nguồn vốn từ bán đấu giá quyền sử dụng đất. Qua 5 năm (2001 - 2005), tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên 320 tỷ đồng, trong đó vốn tỉnh và Trung ương chiếm 52%, vốn ngân sách huyện và xã chiếm 48%. Với số vốn đó, huyện tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó tập trung xây dựng, chỉnh trang đô thị ở thị trấn. Nhiều công trình được nâng cấp và xây mới như: Nâng cấp các tuyến đường Trần Quý Cáp, Nguyễn Trường Tộ, Võ Tánh…; xây dựng đường nội bộ khu dân cư Bắc thị trấn, hệ thống đèn đường chiếu sáng các trục đường chính nội thị, tượng đài 16/7/1930; cải tạo môi trường và xây dựng đường Sông Cạn, hệ thống thoát nước bẩn thị trấn... Sau khi khu vực Nhà hát ngoài trời và công viên thiếu nhi của thị trấn được quy hoạch cải tạo lại, tại đây khởi công xây dựng các công trình khu trung tâm văn hóa huyện gồm Nhà Văn hóa đa năng, Thư viện huyện, Nhà Truyền thống, khu công viên thiếu nhi, Nhà Thiếu nhi huyện… Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng từ năm 1979 trong khuôn viên quy hoạch trụ sở các cơ quan hành chính huyện được di dời và xây dựng trang trọng tại vị trí mới. Trụ sở của nhiều cơ quan được xây mới như liên cơ quan Mặt trận - đoàn thể huyện, Chi Cục thuế, Kho Bạc, Trung tâm Giáo dục thường xuyên, Tòa án, Trung tâm Dạy nghề, Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh - Cơ sở Ninh Hòa… Ở nông thôn, hầu hết trụ sở làm việc của xã, của thôn (gồm các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể) đều được xây dựng mới. Trung tâm xã có các công trình phục vụ hoạt động văn hóa, tụ điểm vui chơi cho thiếu nhi, đài tưởng niệm liệt sĩ... Đặc biệt, chương trình giao thông nông thôn được đẩy mạnh theo hướng nâng cao chất lượng. Những trục đường chính được rải nhựa bán thâm nhập, bê tông hóa hoặc cấp phối. Nhiều con đường được nâng cấp mở rộng như đường đi Suối Trầu (Ninh Xuân), Tân Phong (Ninh Xuân), Đống Đa, Đồng Mía (Ninh Sim), Buôn Sim và Mỏ Quạ (Ninh Tây), cầu Tráng kênh chính Tây (Ninh Sơn), Đồi đỏ (Ninh Thượng )… Giao thông nội đồng cũng được quan tâm xây dựng, mở rộng, nhất là ở vùng trồng mía, vùng nuôi trồng thủy sản. Tính đến năm 2005, toàn huyện đã đầu tư xây dựng gần 200 km đường nhựa, đường bê tông và đường cấp phối. Đường giao thông chính đến trung tâm tất cả các xã (trừ Ninh Vân) đều là đường nhựa. Mạng lưới giao thông nông thôn trên 800km được hoàn thiện một bước quan trọng theo quy hoạch, góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện nâng cao chất lượng đời sống ở nông thôn.
Những kết quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tạo ra thế và lực mới cho huyện. Nhận thấy đã đủ điều kiện để tiếp tục phát triển đưa huyện lên tầm cao mới, ngày 5/1/2005, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Nghị quyết số 16-NQ/HU về tăng cường sự lãnh đạo đối với nhiệm vụ phát triển đô thị giai đoạn 2005 - 2015. Nghị quyết xác định những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đẩy nhanh hơn nữa tốc độ phát triển đô thị, tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ, theo đúng tiêu chuẩn từng loại đô thị, nhất là về giao thông, điện, cấp thoát nước, nhà ở, cảnh quan, vệ sinh môi trường đô thị và chú ý nâng cao chất lượng công tác quản lý đô thị, từng bước đưa huyện trở thành thị xã. Để chuẩn bị cho bước phát triển đô thị hóa, nắm bắt thời cơ sau khi Chính phủ phê duyệt quy hoạch Khu Kinh tế Vân Phong, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện tiến hành điều chỉnh quy hoạch thị trấn và quy hoạch các xã; hoàn chỉnh các thủ tục chuẩn bị đầu tư tiếp cho các công trình, tập trung ở thị trấn và ở Khu Kinh tế Vân Phong trên địa bàn. Đồng thời, toàn huyện dồn sức hoàn thành đưa vào sử dụng các công trình đang xây dựng trong giai đoạn đầu tư 2001 - 2005, nhất là cụm các công trình tại trung tâm huyện lỵ, góp phần làm cho thị trấn Ninh Hòa từng bước thể hiện dáng dấp của một đô thị mới.
Gắn với từng bước tăng trưởng kinh tế, Đảng bộ huyện quan tâm lãnh đạo phát triển văn hóa, tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Vượt qua đà giảm sút sau khi xóa bỏ bao cấp, trong giai đoạn 2001 - 2005, hoạt động trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội đều hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng phục vụ. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, toàn huyện đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa. Trong quá trình thực hiện vận động, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể coi trọng lồng ghép nội dung phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội như xóa đói giảm nghèo với thực hiện kế hoạch hóa gia đình, làm giàu chính đáng với thực hiện nghĩa vụ công dân... Đến năm 2005, trên 80% hộ gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, 117/177 thôn đăng ký xây dựng làng văn hóa. Bước đầu các thôn xây dựng và ban hành hương ước, được nhân dân đồng lòng thực hiện. Hàng năm, có hơn 35% số thôn, 80% số cơ quan, 60% hộ gia đình được các cấp công nhận đạt tiêu chuẩn các danh hiệu văn hóa[5]. Cuộc vận động thực sự đi vào cuộc sống, tạo thành các phong trào quần chúng rộng lớn và đều khắp. Thông qua đó, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái... được nuôi dưỡng và nâng cao, các giá trị đạo đức văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát huy. Đáng chú ý là công tác giáo dục truyền thống được các cấp, các ngành, đoàn thể thường xuyên quan tâm. Hướng về cội nguồn, về cách mạng, tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ, nhiều cơ quan, đơn vị tổ chức các đoàn thăm lại chiến trường xưa Đá Bàn, Hòn Hèo, Hòn Lớn... Sôi nổi nhất là tổ chức các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc và của địa phương như kỷ niệm 350 năm thành lập tỉnh Khánh Hòa. Ngày 27/12/2002, Hội đồng nhân dân tỉnh (khóa III) đã thông qua nghị quyết lấy ngày 16/7/1930 - ngày biểu tình của nhân dân huyện Tân Định (nay là huyện Ninh Hòa) dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Tân Định làm ngày truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Ngày 16/7/2005, lần đầu tiên tỉnh tổ chức lễ hội kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống 16/7 tại huyện Ninh Hòa. Đây là niềm tự hào và động lực cho Đảng bộ và nhân dân toàn huyện tiếp tục phấn đấu vươn lên. Niềm tự hào đó được nhân lên khi huyện có thêm 7 đơn vị được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là các xã Ninh Đông, Ninh Phước, Ninh Phụng, Ninh Hưng (vào năm 2003), Ninh Phú, Ninh Hà và thị trấn Ninh Hòa (vào năm 2005). Nhân dịp kỷ niệm các ngày lịch sử trọng đại của đất nước, quê hương, trên cơ sở các cuốn sơ thảo Lịch sử Đảng bộ huyện qua từng giai đoạn từ 1930 đến 1975 đã xuất bản trước năm 1996, Ban Thường vụ Huyện ủy đã hiệu chỉnh, bổ sung và xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Ninh Hòa 1930 - 1975.
Để phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và công tác giáo dục, tuyên truyền, đội thông tin cổ động huyện, các đội văn nghệ quần chúng cùng với hàng trăm câu lạc bộ thuộc các loại hình văn hóa, thể thao trong cộng đồng dân cư được củng cố, phát triển. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao… từ huyện đến cơ sở đều được xã hội hóa. Nhờ đó, ngoài ngân sách, huyện và cơ sở có thêm kinh phí duy trì theo định kỳ tổ chức tốt đại hội thể dục thể thao, hội diễn văn nghệ quần chúng; hàng năm tổ chức được nhiều giải thể thao, hội thi, liên hoan, giao lưu văn hóa như hội thi “Thôn nữ giỏi giang, duyên dáng”, “tuyên truyền viên dân số giỏi”, hội thi văn nghệ quần chúng “Toàn dân phòng chống ma túy”, hội thi thông tin cổ động… Phong trào thể dục thể thao cũng phát triển tương đối rộng khắp. Số người tham gia luyện tập thường xuyên ngày càng tăng. Tham gia các giải thể thao và hội thi văn hóa, văn nghệ cấp tỉnh, huyện đều giành được nhiều giải cao. Qua đó cung cấp nhiều vận động viên, nhiều diễn viên cho tỉnh, thể hiện Ninh Hòa luôn là một trong những địa phương trong tỉnh mạnh về phong trào văn hóa - thể thao. Đó cũng là lợi thế nên hầu hết các đoàn nghệ thuật trong nước về tỉnh lưu diễn đều đến Ninh Hòa biểu diễn, tạo điều kiện cho nhân dân được thưởng thức và giao lưu với nhiều loại hình văn hóa của các vùng miền trong cả nước. Bên cạnh đó, chương trình phủ điện nông thôn thực hiện thành công, góp phần quan trọng trong việc nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Cũng nhờ có điện nên các thiết chế văn hóa ở cơ sở có điều kiện phát huy hoạt động tốt. Mạng lưới truyền thanh - truyền hình ngày càng được mở rộng, chất lượng tốt hơn. Sau khi thử nghiệm thành công đài truyền thanh không dây (đài truyền thanh FM) ở thị trấn và một số xã, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tập trung đầu tư chuyển nhanh Đài truyền thanh xã sang đài không dây. Đến năm 2005, có 23/27 xã, thị trấn sử dụng thiết bị phát sóng FM. Đài Truyền thanh - Tiếp hình huyện cũng được đầu tư nâng công suất của Đài truyền thanh lên 150w, đài tiếp hình lên 300w. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có 3 đài tiếp sóng truyền hình do tỉnh xây dựng. Nhờ đó, phần lớn địa bàn dân cư dược phủ sóng phát thanh, truyền hình, nhân dân nghe được thông tin qua truyền thanh 4 cấp, được hưởng thụ đầy đủ các chương trình của đài VTV1, VTV3, KTV. Tuy nhiên, một số xã biển như Ninh Vân, Ninh Phước và vùng lõm xã Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Tây… vẫn chưa tiếp được hoặc chất lượng tiếp sóng FM và VTV3 không ổn định. Ngoài ra, hệ thống thông tin viễn thông trên địa bàn được phủ sóng rộng khắp, giúp cho nhân dân sử dụng phương tiện cá nhân nắm bắt được nhiều thông tin trên mọi lĩnh vực.
Cùng với phát triển, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa theo tinh thần Thông báo Kết luận số 94-TB/TW, ngày 30/12/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nhiệm vụ đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Huyện thường xuyên giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiều người đã tự giác nộp những băng đĩa hình, đĩa nhạc, tranh ảnh, sách báo có nội dung không lành mạnh; tự giác khắc phục những sai phạm không đúng với giấy phép đăng ký kinh doanh. Đồng thời, thành lập nhiều đoàn phối hợp liên ngành, tiến hành kiểm tra hàng trăm cuộc đối với các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, phòng trọ…; xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm và triệt phá hầu hết các tụ điểm mại dâm, buôn bán và sử dụng ma túy ở khu vực Nhà máy tàu biển Hyundai Vinashin, thị trấn…, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Trên lĩnh vực công tác giáo dục và đào tạo, ngày 21/11/2002 Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 09-CTr/HU thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục - đào tạo 2002 - 2005, đến năm 2010. Chương trình xác định cần tập trung đầu tư nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, tạo bước phát triển mới về chất lượng dạy và học. Đặc điểm trong giai đoạn 2001 - 2005 có một số điểm khác là quy mô học sinh không tăng nhanh như các giai đoạn trước, bình quân mỗi năm tăng trên 1,1%. Riêng học sinh tiểu học và trung học cơ sở có chiều hướng giảm dần. Từ năm học 2002 - 2003, 100% học sinh tốt nghiệp tiểu học được tuyển vào lớp 6 công lập, xóa bỏ hệ bán công trung học cơ sở. Do quy mô học sinh chững lại nên huyện điều chỉnh cơ cấu đầu tư sang đầu tư chiều sâu, xây mới và nâng cấp cơ sở vật chất theo trường chuẩn quốc gia. Đến năm 2005, mạng lưới trường lớp phân bổ tương đối đều trên địa bàn huyện. Hệ mẫu giáo, mầm non có 30 trường với trên 6.500 cháu, trong đó 6 trường công lập, 24 trường dân lập. Hệ giáo dục phổ thông có 55 trường[6], trên 50.500 học sinh, trong đó 54 trường công lập, 1 trường bán công. Thiết bị trường học được tăng cường, cơ bản đủ theo yêu cầu dạy và học. 100% trường học được trang bị máy vi tính phục vụ công tác quản lý, văn phòng. Các trường trung học phổ thông và nhiều trường trung học cơ sở được trang bị máy vi tính phục vụ giảng dạy và học tập. Đội ngũ giáo viên được bồi dưỡng, đào tạo, chuẩn hóa cho trên 90% giáo viên tiểu học và gần 100% giáo viên trung học cơ sở. Ngành giáo dục tích cực tìm các biện pháp củng cố, xây dựng nề nếp dạy và học, thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy để thu hút học sinh hứng thú, say mê học tập. Trong nhà trường luôn có các phong trào thi đua sôi nổi dạy tốt, học tốt, sinh hoạt tổ chuyên môn, thao giảng, dự giờ…
Ngày 14/2/2001, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 02-CT/HU thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2001 - 2005 theo tinh thần Chỉ thị số 61-CT/TW, ngày 28/12/2000 của Bộ Chính trị. Mục tiêu của chương trình là làm cho hầu hết công dân trong huyện đến tuổi 18 đều đạt trình độ học vấn trung học cơ sở. Ban chỉ đạo chương trình được thành lập từ huyện đến xã, thị trấn. Ngành giáo dục phối hợp chặt chẽ với xã nhanh chóng hoàn thành công tác điều tra, khảo sát trình độ văn hóa của nhân dân, phân loại học viên, tổ chức lớp học… Đối với người học đều có chính sách khuyến khích học tập như cho gia đình vay vốn xóa đói giảm nghèo, miễn giảm học phí… Tuy nhiên, thực hiện tốt chính sách đó cũng tạo ra mặt trái, nhiều học sinh trung học cơ sở chính quy bỏ học, chuyển sang học phổ cập để được hưởng chính sách, nhất là các năm 2002 - 2003, gây áp lực lớn cho công tác phổ cập. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo cả hệ thống chính trị đều vào cuộc thực hiện chương trình. Các đoàn thể quần chúng dành rất nhiều công sức, vừa vận động chống bỏ học, vừa vận động, đỡ đầu những em có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ từng em đi học, đi thi. Xã nào cũng quan tâm xây dựng phong trào toàn dân quan tâm tạo môi trường thuận lợi cho con em học tập. Đặc biệt, đội ngũ giáo viên dạy phổ cập chịu nhiều thiệt thòi, vượt qua khó khăn, gian khổ hoàn thành nhiệm vụ. Nhờ cố gắng, kiên trì, đến năm 2005, cùng với việc giữ vững đơn vị đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, huyện được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, về trước 5 năm so với mục tiêu Chỉ thị số 61-CT/TW đề ra đến năm 2010. Phát huy kết quả đạt được, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo triển khai thực hiện ngay chương trình phổ cập trung học phổ thông trong năm 2005. Mục tiêu là hầu hết công dân đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đến hết tuổi 21 đều đạt trình độ học vấn bậc trung học. Đây là chủ trương đúng đắn, nhạy bén, thể hiện quyết tâm chính trị rất cao trong việc nâng cao mặt bằng dân trí của Huyện ủy. Chủ trương đó được các cấp, các ngành và nhân dân đồng tình, hưởng ứng nên đến cuối năm 2005 đã vận động mở 29 lớp, trên 1.250 học viên tham gia học lớp 10 phổ cập. Kết quả công tác bổ túc văn hóa cùng với việc Cơ sở Ninh Hòa - Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh đưa vào hoạt động tạo ra cơ hội, điều kiện thuận lợi cho cán bộ và nhân dân Ninh Hòa tiếp tục được học tập nâng cao trình độ học vấn.
Thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 24/8/1999 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội khuyến học Việt Nam, năm 2001, Hội Khuyến học Ninh Hòa được thành lập. Sau gần 2 năm hoạt động dưới danh nghĩa Ban Chấp hành lâm thời, tháng 8/2003, Hội Khuyến học huyện tiến hành Đại hội lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2003 - 2008. Đến năm 2004, ở tất cả xã, thị trấn, trường học và nhiều cơ quan, doanh nghiệp đều có hội khuyến học cơ sở. Hàng năm, hội cơ sở tổ chức biểu dương, khen thưởng cho các em học sinh học giỏi, thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học. Thời gian này, một thiết chế giáo dục thường xuyên được tổ chức trên địa bàn xã, thị trấn là trung tâm học cộng đồng. Mục đích của trung tâm là phục vụ nhu cầu học tập suốt đời theo theo phương châm “cần gì học nấy” của nhân dân, nhất là những người nghèo, người ít có cơ hội hoặc không có điều kiện tới trường chính quy học tập. Đến năm 2005, tất cả các xã, thị trấn đã có trung tâm học tập cộng đồng. Tuy nhiên, trừ một số hoạt động hiệu quả như Trung tâm Học tập cộng đồng xã Ninh Giang, Ninh Quang…, còn phần lớn trung tâm là hình thức do gặp khó khăn về kinh phí, nội dung học tập, cơ sở vật chất… Cùng với các thiết chế giáo dục nêu trên, huyện có thêm một cơ sở đào tạo nghề. Ngày 17/7/2001, Ủy ban nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập Trung tâm Dạy nghề Ninh Hòa trực thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Khánh Hòa. Trung tâm được xây dựng tại khu dân cư phía Bắc thị trấn (nay là Tổ dân phố 17, phường Ninh Hiệp), hoạt động từ tháng 9/2003, đến tháng 6/2005 nâng cấp lên thành Trường Dạy nghề Ninh Hòa. Thực hiện chương trình đào tạo nghề, trong hơn 2 năm, Trường tuyển sinh hơn 1.600 học viên, đào tạo 15 ngành nghề. Trên 1000 học viên đã tốt nghiệp, phần lớn có việc làm ngay, chủ yếu tại Nhà máy tàu biển Hyundai Vinashin.
Những cố gắng nêu trên tạo được nhiều khởi sắc trong giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, thời điểm này, nhất là từ năm 2005, ngành giáo dục trong cả nước đang nổi cộm hai vấn đề là tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích. Bộ giáo dục chủ trương siết chặt kỷ cương dạy và học, thi cử đúng thực chất nên trong kỳ thi tốt nghiệp năm 2005, học sinh trung học cơ sở đỗ 61,9%; trung học phổ thông đỗ 75,%. Cũng do bệnh thành tích, nhiều hội khuyến học cơ sở, nhiều trung tâm học tập cộng đồng nhanh chóng được lập ra theo chủ trương chung nhưng chỉ là hình thức. Đó là những vấn đề không dễ giải quyết, nó đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền và ngành giáo dục phải có giải pháp quyết liệt với sự chỉ đạo hướng dẫn thống nhất của tỉnh và Trung ương mới có thể khắc phục được.
Quán triệt Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 22/1/2002 của Ban Bí thư về củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đầu tư đồng bộ cho y tế tuyến huyện và xã, cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cán bộ… Trong 5 năm (2001 - 2006), trên 50% trạm y tế xã được sửa chữa nâng cấp hoặc xây dựng mới. Hầu hết các trạm y tế đều được các tổ chức của Liên hiệp quốc như Quỹ Dân số (UNFPA), Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICFF)… tài trợ trang bị các dụng cụ y tế cơ bản và thiết yếu phục vụ chăm sóc nâng cao sức khỏe sinh sản, bảo vệ trẻ em.Hàng tuần, Trung tâm Y tế huyện tăng cường bác sĩ về trạm y tế xã khám, chữa bệnh cho dân. Cuối năm 2002, huyện triển khai thực hiện 10 chuẩn quốc gia về y tế xã theo Quyết định số 370/2002/QĐ-BYT, ngày 7/2/2002 của Bộ trưởng Y tế ban hành “Chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001 - 2010”. Ở tuyến huyện, Bệnh viện huyện và các phòng khám khu vực Ninh Sim, Ninh Diêm được nâng cấp, trang bị thêm một số thiết bị y tế hiện đại. Nâng cao chất lượng chuyên môn, ngành y tế luân phiên cử hàng chục cán bộ đi đào tạo trình độ đại học, đặc biệt có 22 bác sĩ đào tạo sau đại học. Nhờ đó, chất lượng dịch vụ y tế ở cả tuyến huyện, xã đều được cải thiện đáng kể. Bệnh viện huyện có điều kiện thực hiện một số dịch vụ y tế chất lượng cao. Đối với người nghèo, Nhà nước có chính sách hỗ trợ khi ốm đau, bệnh tật đến bệnh viện điều trị. Năm 2003, huyện lập quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo, đến năm 2005 thì chuyển sang cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí, trên 6.100 người. Ngoài ra, Bệnh viện huyện còn tổ chức bếp ăn tình thương cho bệnh nhân nghèo, triển khai chương trình thầy thuốc về làng khám chữa bệnh miễn phí… Cuối năm 2005, Bệnh viện thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, bộ máy, biên chế; thực hiện cơ chế, chính sách tài chính mới, tự cân đối thu, chi thường xuyên dựa trên bảo hiểm y tế và thu một phần viện phí. Những cố gắng nêu trên góp phần nâng cao chất lượng khám và điều trị tại các cơ sở y tế. Các bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán; các bệnh thường xảy ra hàng năm như thương hàn, dịch tả, sốt xuất huyết và một số dịch bệnh mới nổi như cúm A/H5N1... được khống chế và giám sát chặt chẽ. Đó cũng là những kết quả đổi mới trên lĩnh vực y tế, đáp ứng với sự biến đổi của cơ cấu bệnh tật trên địa bàn huyện, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau khi Pháp lệnh Dân số 2003 ra đời, một bộ phận nhân dân và cán bộ đảng viên nhận thức chưa đúng về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình nên tỷ suất sinh có xu hướng gia tăng trở lại. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo hướng trọng tâm của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình là vận động giảm sinh con thứ 3. Công tác tuyên truyền được đẩy lên thành nhiều chiến dịch. Nội dung tuyên truyền tập trung ở cả ba mũi gồm tuyên truyền vận động thực hiện chính sách, truyền thông chuyển đổi hành vi và truyền thông huy động cộng đồng, tạo nên sự đồng thuận của toàn xã hội. Lực lượng tuyên truyền có sự phối hợp liên ngành khá chặt chẽ và đồng bộ, nòng cốt là đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên của tất cả các cấp, các ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở. Ở tất cả các xã, thị trấn đều thành lập nhiều câu lạc bộ không sinh con thứ 3. Các dịch vụ sinh đẻ có kế hoạch được mở rộng sâu đến địa bàn dân cư, chủng loại đa dạng, thuận tiện, an toàn, cơ bản đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Tại trung tâm y tế huyện, trạm y tế xã và những cơ sở y tế tư nhân có đủ điều kiện đều được trang bị phương tiện, thuốc... phục vụ cho việc thực hiện dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Kết quả của những nỗ lực đó đã mang lại hiệu quả cao. Bình quân, mỗi năm tỷ suất sinh giảm 0,8‰. Đến năm 2005, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm xuống 11,2%, tổng tỷ suất sinh đạt 2,1 con/phụ nữ trong độ tuổi, xấp xỉ đạt mức sinh thay thế, tỷ lệ tăng dân số 1,1%.
Thực hiện Kế hoạch số 34-KH/TU của Tỉnh ủy triển khai Chỉ thị số 55-CT/TW, ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Ban Thường vụ Huyện ủy ra chỉ thị cho các cấp ủy đảng cơ sở trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác trẻ em ở đơn vị, địa phương mình. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. Trong công tác tuyên truyền, hình thức tư vấn cộng đồng được coi trọng… Đây là cách làm có hiệu quả cao trong việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm, trước hết là của gia đình trong việc chăm sóc, tạo điều kiện cho trẻ học tập, bảo vệ trẻ không bị xâm hại và rơi vào tệ nạn xã hội… Các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, doanh nghiệp có nhiều hoạt động vì trẻ em như tổ chức hoạt động vui chơi mỗi dịp ngày quốc tế thiếu nhi 1/6, rằm trung thu; nhận đỡ đầu, hỗ trợ học bổng, tặng xe đạp cho trẻ nghèo, cấp xe lăn cho trẻ khuyết tật… Riêng trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số từ mẫu giáo đến bậc trung học còn được trợ cấp tiền hoặc gạo hàng tháng từ ngân sách theo chính sách của tỉnh. Nhiều mô hình về công tác gia đình - trẻ em, trong đó phổ biến là mô hình câu lạc bộ “Ông bà - Cháu”, mô hình bảo vệ trẻ em dựa vào gia đình và cộng đồng, điển hình như ở xã Ninh Bình, Ninh Hải… Các chương trình về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được các cấp phối hợp thực hiện đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm mạnh, từ 32% (năm 2000) xuống còn 22,3% (năm 2005). Số trẻ trong độ tuổi được tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ cao, đặc biệt trẻ dưới 1 tuổi đạt từ 90 - 98% nên các bệnh có vắcxin bảo vệ đều giảm hẳn. Hàng chục em được phẫu thuật chữa bệnh tim bẩm sinh và phẫu thuật đem lại nụ cười cho trẻ em sứt môi, hở hàm ếch. Từ năm 2005, việc khám chữa bệnh miễn phí đối với trẻ dưới 6 tuổi được chuyển sang hình thức cấp thẻ bảo hiểm y tế. Hầu hết trẻ em trong độ tuổi trên địa bàn huyện đều được đi học; hàng năm gần 100% trẻ em 6 tuổi được huy động ra lớp 1…
Một trong các vấn đề về an sinh xã hội được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo thực hiện là giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Tại hội nghị ngày 5/7/2005, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo khẩn trương xây dựng và thực hiện chương trình xoá nhà tranh tre, nhà dột nát cho hộ nghèo theo Chỉ thị 29-CT/TU, ngày 5/4/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đồng thời ra quyết định thành lập Ban Chỉ đạo chương trình do đồng chí Võ Tấn Thái, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Trưởng ban; chủ trương mở một cuộc vận động quyên góp quỹ hỗ trợ xây dựng nhà cho người nghèo. Từ huyện đến xã, thôn đều thành lập ban vận động và phát động phong trào. Sau khi khảo sát và phân loại, xác định toàn huyện có trên 550 nhà tranh tre, dột nát cần hỗ trợ xây dựng mới hoặc sửa chữa, huyện giao cho xã, thị trấn chủ động kế hoạch vận động nguồn lực hỗ trợ của cộng đồng và xây dựng, sửa chữa nhà cho các đối tượng ở đơn vị mình. Cách làm đó, tạo động lực thi đua giữa các đơn vị. Cuộc vận động quyên góp quỹ phát triển nhanh và sâu rộng, động viên được sự quan tâm giúp đỡ thiết thực của toàn xã hội, nhất là bà con, dòng tộc của đối tượng. Chỉ trong thời gian ngắn vài tháng cuối năm 2005, cuộc vận động thu được trên 2,4 tỷ đồng. Cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn của tỉnh, toàn huyện xây mới được 234 nhà và sửa chữa hàng chục nhà. Về giải quyết việc làm, trong giai đoạn 2001 - 2005, huyện triển khai hàng chục dự án tạo việc làm, thực hiện nhiều giải pháp như đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, giải quyết vốn vay phát triển sản xuất theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP, ngày 4/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách… Mỗi năm, bình quân tạo thêm việc làm mới cho hơn 3.000 lao động, góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo[7], năm 2005 chiếm 2,9% so với tổng số hộ.
Đối với miền núi, năm 2001, trên 130 hộ đồng bào dân tộc thiểu số cuối cùng còn du canh, du cư đã được định canh, định cư, ổn định đời sống. Đầu năm 2003, các hộ ở buôn Suối Mít được chuyển về nhập vào buôn Sông Búng. Từ đây, đồng bào 2 dân tộc thiểu số Ê Đê, Raglai sinh sống ổn định ở 6 buôn, xã Ninh Tây và ở 1 thôn, xã Ninh Tân. Ngoài ra ở Ninh Tân còn có vài chục hộ dân tộc Mường di cư từ vùng núi các tỉnh phía Bắc vào. Ngày 7/8/2003, Huyện ủy ban hành Chương trình hành động số 13-CTr/HU thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân tộc. Huyện tiếp tục triển khai các dự án đầu tư khai hoang hàng chục ha; điều chỉnh qui hoạch sử dụng đất của Lâm trường Ninh Hòa, Nông trường Bò giống miền Trung… để giao thêm đất cho đồng bào sản xuất; mở rộng thêm diện tích trồng lúa nước; nâng cấp và làm mới các tuyến đường vào khu dân cư và khu vực sản xuất. Nhiều tổ công tác của huyện phối hợp với xã hướng dẫn chuyển giao cho đồng bào dân tộc thiểu số kỹ thuật nuôi heo, thâm canh lúa nước, trồng mía, trồng cây ăn quả, làm vườn nhà, vườn rừng...; các công trình điện, đường, trường, trạm… được tu sửa, nâng cấp. Các hộ nghèo dân tộc thiểu số được cấp bò để nuôi, được trợ giá, trợ cước lúa giống, ngô giống, phân bón, được cấp nhà ở xây dựng từ kinh phí của tỉnh[8], được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Ngoài chế độ Trung ương quy định, tất cả học sinh dân tộc thiểu số từ tiểu học đến trung học được hỗ trợ thêm kinh phí từ ngân sách tỉnh[9]. Những kết quả của các chương trình phát triển kinh tế- xã hội miền núi giai đoạn 2000 - 2005 góp phần làm thay đổi bộ mặt miền núi tiến bộ, văn minh. Đời sống đồng bào ổn định, nhiều gia đình biết cách làm ăn, có đời sống khá giả. Phần lớn gia đình có ti vi, nhiều người có xe máy… Bên cạnh những kết quả đó vẫn còn nhiều hạn chế, nổi lên là hiệu quả đầu tư chưa cao; trình độ dân trí còn thấp; ý chí vươn lên thoát nghèo và làm giàu chưa chuyển biến tích cực; đời sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Kết hợp chặt chẽ 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ xác định rõ nhiệm vụ quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 1/10/2001 của Tỉnh ủy (khóa XIV) về nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới, Huyện ủy ra Nghị quyết số 4-NQ/HU, ngày 14/12/2001 về xây dựng huyện thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc. Triển khai các nhiệm vụ quân sự, Ban Thường vụ chỉ đạo tập trung công tác tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng; xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ, dự bị động viên; bảo đảm chỉ tiêu tuyển quân hàng năm. Huyện quan tâm bồi dưỡng, đào tạo chuẩn hoá đội ngũ cán bộ xã đội, đến năm 2005, 100% xã đội trưởng là đảng viên, có trình độ trung cấp quân sự xã. Hàng năm có 25 - 30% số xã, thị trấn và huyện tổ chức diễn tập theo các phương án: Tác chiến phòng thủ ở cấp huyện, chiến đấu trị an ở cấp xã (phương án A); bảo vệ an ninh chính trị (phương án A2), bảo đảm hậu cần (phương án A3); phòng tránh, đánh trả địch tập kích đường không (phương án A4). Các cuộc diễn tập thể hiện rõ cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý điều hành, cơ quan quân sự, công an làm tham mưu, phối hợp với ban, ngành, mặt trận, đoàn thể thực hiện. Từ 17/6 đến 12/7/2002, tại khu vực Bắc Dốc Lết (nay thuộc phường Ninh Hải) diễn ra cuộc diễn tập PT02 theo phương án A4 kết hợp với phương án A tỉnh Khánh Hòa do Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chỉ đạo. Đây là một cuộc diễn tập thực binh 16 ngày với quy mô lớn, có sự tham gia của hầu hết lực lượng dân quân tự vệ các xã và quân dự bị động viên huyện Ninh Hòa. Qua đó, trình độ chỉ huy tác chiến, hiệp đồng chiến đấu của các lực lượng vũ trang được nâng cao; rút kinh nghiệm để tiếp tục bổ sung, điều chỉnh các phương án phòng, chống hoạt động gây bạo loạn chính trị và các kế hoạch tác chiến, phòng thủ sát với tình hình thực tế của địa phương.
Về công tác an ninh, trong giai đoạn 2001 - 2005, Ban Thường vụ Huyện ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm là bảo đảm an ninh nông thôn, giải quyết kịp thời các vụ việc, không để xảy ra “điểm nóng” phức tạp. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tăng cường. Từ huyện đến cơ sở đều thành lập hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật diễn ra liên tục với nhiều hình thức, thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, hội thi “Chủ tịch xã với kiến thức pháp luật”, “Hộ tịch viên giỏi”, “Hòa giải viên giỏi”... Để làm chỗ dựa vững chắc cho phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, các xã, thị trấn củng cố nâng cao chất lượng ban công an, hội đồng bảo vệ an ninh trật tự, tổ an ninh nhân dân, đội thanh niên xung kích, an ninh cơ sở, tổ dân phòng, ban bảo vệ dân phố… Thực hiện Quyết định số 107/2003/QĐ-TTg ngày 2/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, các lực lượng công an, quân sự, biên phòng phối hợp liên tục mở các đợt phòng ngừa, trấn áp các loại tội phạm. Bên cạnh đó, Công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật có nhiều tiến bộ, đúng pháp luật. Nhờ đó, các vụ phạm pháp hình sự giảm dần, năm 2005 chỉ xảy ra 75 vụ hình sự, giảm gần 50% so với năm 2001.
Từ năm 2002, đơn thư khiếu nại gia tăng, đặc biệt là về đền bù, bồi thường giải tỏa giải phóng mặt bằng của các dự án trong khu vực kinh tế Vân Phong và xây dựng, mở rộng các trục đường giao thông chính ở thị trấn… Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy thành lập Ban Chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; chỉ đạo tập trung giải quyết tốt đơn thư ở cơ sở; thường xuyên kiểm tra trách nhiệm giải quyết đơn thư đối với cơ quan chức năng và những đơn vị, cơ sở có đơn thư khiếu tố. Cách làm đó đã giải quyết được phần lớn đơn thư của công dân[10]. Công tác tiếp công dân cũng đi vào nề nếp, riêng Ủy ban nhân dân huyện mỗi tuần có 2 buổi tiếp dân. Nhiều vụ việc do dân trực tiếp phản ánh, đề nghị được chỉ đạo giải quyết kịp thời, tránh được tình hình phức tạp có thể xảy ra, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là an ninh nông thôn, không có “điểm nóng” xảy ra.
Riêng đối với an ninh miền núi, sau khi ở Tây Nguyên xảy ra vụ bạo loạn ngày 2/2/2001 do bọn phản động Fulro bên ngoài cấu kết với bên trong gây ra, Ban Thường vụ Huyện ủy đề ra Kế hoạch số 03-KH/HU, ngày 8/9/2001 phát động quần chúng ngăn chặn hoạt động móc nối của Fulro, bảo vệ vững chắc an ninh miền núi. Huyện thành lập Ban Chỉ đạo, lập đoàn công tác miền núi, tuyên truyền làm cho đồng bào dân tộc thiểu số thấy rõ bản chất của tình hình và âm mưu của các thế lực thù địch; tiến hành rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ từ xã đến buôn. Các đoàn công tác tổ chức tập huấn cho lực lượng quần chúng nòng cốt ở các buôn làng Ninh Tây, Ninh Tân về phòng chống Fulrô móc nối, ngăn ngừa những phần tử lợi dụng tôn giáo hoạt động trái phép. Cùng với những kết quả phát triển kinh tế - xã hội, những biện pháp trên góp phần củng cố thực lực chính trị ở cơ sở, củng cố lòng tin của nhân dân miền núi, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng và Nhà nước, làm thất bại những hoạt động tuyên truyền móc nối vào địa bàn miền núi Ninh Hòa của Fulro và các thế lực thù địch.
Gắn liền với phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Đảng bộ huyện coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ. Giải pháp có tính chất đột phá là đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất là từ năm 2003. Thời gian này, Thường trực Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện đều có một số thay đổi. Tháng 3/2003, Tỉnh ủy luân chuyển đồng chí Nguyễn Phùng Mỹ, Tỉnh ủy viên, Chánh Văn Phòng Tỉnh ủy về giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Thạch Ngọc, Phó Bí thư Huyện ủy được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện thay đồng chí Phạm Đài chuyển công tác về tỉnh. Từ tháng 2/2004 cho đến hết nhiệm kỳ Ủy ban nhân dân huyện (khóa VIII), đồng chí Võ Tấn Thái, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch làm Quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thay đồng chí Mai Hữu Thu chuyển công tác về tỉnh.
Sau hội nghị cán bộ toàn huyện nửa nhiệm kỳ tháng 8/2003, Ban Thường vụ Huyện ủy điều chỉnh, bổ sung quy chế làm việc và chương trình hoạt động toàn khóa của cấp ủy cho sát với thực tiễn. Đặc biệt là quy chế làm việc và mối quan hệ công tác giữa Ban Thường vụ Huyện ủy với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện; giữa các ban đảng của Huyện ủy. Công tác nắm bắt thông tin được củng cố theo hướng bám sát, nắm chắc tình hình cơ sở. Thường trực Huyện ủy thực hiện nghiêm túc chế độ làm việc định kỳ với các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò của cấp ủy viên và cán bộ phụ trách địa bàn cơ sở. Trong điều hành công việc có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho tập thể, cá nhân; có cơ chế kiểm tra, đánh giá việc thực hiện một cách nghiêm túc. Đổi mới chế độ hội họp, phần lớn các kết luận hội nghị được văn bản hóa, thể hiện rõ ý chí lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề mà từ trước, trừ hội nghị Ban Thường vụ Huyện ủy, các cuộc họp khác như sơ, tổng kết… chưa thực hiện. Những đổi mới nêu trên thể hiện Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy thực hiện đúng đắn, nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, nói đi đôi với làm, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị. Từ đó, tạo chuyển biến tích cực trong đội ngũ cán bộ về phong cách làm việc sát người, sát việc, sát thực tế và hiệu quả. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là điểm nổi bật trong nhiệm kỳ 2001 - 2005.
Về công tác tư tưởng, sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16, tình hình tư tưởng và tâm trạng xã hội nhìn chung ổn định. Phần đông cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực, cũng còn một số biểu hiện đáng quan tâm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện dao động về con đường xã hội chủ nghĩa, sa sút sức chiến đấu, thiếu rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; buông lỏng kỷ cương, nguyên tắc Điều lệ Đảng. Nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên lâu năm băn khoăn lo lắng về nguy cơ về tình trạng quan liêu, tham nhũng có chiều hướng phát triển rất phức tạp trên phạm vi cả nước. Trước tình hình đó, ngày 15/10/2002, Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 07-CTr/HU thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Theo đó, Đảng bộ tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng; nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và niềm tin vào sự nghiệp đổi mới. Đây là 2 nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của công tác tư tưởng trong suốt nhiệm kỳ. Ngoài việc thường xuyên học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, từ năm 2003 - 2005, Đảng bộ huyện tập trung nghiên cứu, học tập 10 chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp tục đổi mới phương thức công tác tư tưởng, Ban Thường vụ Huyện ủy chủ động, mạnh dạn chỉ đạo thành lập và ban hành Quy định tạm thời số 04-QĐ/HU, ngày 5/4/2004 về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ban Tuyên giáo xã, thị trấn. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu công tác ở cơ sở, thể hiện sự năng động, nhạy bén của Ban Thường vụ Huyện ủy Ninh Hòa trong lãnh đạo chỉ đạo công tác tư tưởng. Đến năm 2005, phần lớn các xã đã thành lập ban tuyên giáo đảng ủy. Các ban tuyên giáo cơ sở hoạt động có hiệu quả, góp phần tích cực trong việc triển khai học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt nghị quyết Đảng theo từng đối tượng, sát hợp với điều kiện thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị. Qua học tập tạo được sự chuyển biến bước đầu của mỗi người, của các cấp, các ngành, các đơn vị trong việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và nghị quyết Đảng để giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra của địa phương, đơn vị. Đồng thời, tạo được một số chuyển biến về ý thức rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng; đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống âm mưu diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa theo tinh thần Thông báo Kết luận 94-TB/TW, ngày 30/12/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đáng chú ý là sau khi nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ủy nghiêm túc đánh giá thực trạng phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ; tiến hành nhận diện một số biểu hiện tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, vi phạm chức trách công chức, công vụ theo Nghị quyết số 17-NQ/TU, ngày 6/10/2004 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Qua nhận diện, nhận thấy: Tuy với mức độ khác nhau nhưng ở cấp xã và huyện đều có những biểu hiện cụ thể về tham nhũng, lãng phí, thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm chức trách công chức, công vụ của cán bộ, đảng viên trong quản lý, đầu tư xây dựng cơ bản, nhà đất, quản lý và sử dụng ngân sách… Tình hình đó có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện, tu dưỡng; do công tác giáo dục, quản lý, kiểm tra của các cấp ủy đảng và chính quyền yếu kém; do kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm minh. Nghiêm túc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế đó, các cấp ủy đảng đề ra nhiều giải pháp sát hợp, có hiệu quả. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được tăng cường, hầu hết các xã, thị trấn có quy định về sự giám sát của nhân dân đối với các công trình xây dựng cơ bản ở địa phương; các cơ quan hành chính sự nghiệp có quy chế, quy định công khai quản lý kinh phí, sử dụng, mua sắm tài sản, tiết kiệm, chống lãng phí... Các tổ chức đảng cơ quan, doanh nghiệp giới thiệu đảng viên đang công tác ở đơn vị về sinh hoạt giữ mối liên hệ và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú theo Quy định 76-QĐ/TW, ngày 15/6/2000 của Bộ Chính trị. Các đảng viên giới thiệu về sinh hoạt nơi cư trú được tổ chức thành nhóm theo địa bàn dân cư, sinh hoạt mỗi năm 2 kỳ (gọi tắt là sinh hoạt nhóm 76). Hàng năm, cấp ủy nơi cư trú có phiếu nhận xét đảng viên gửi về cho cấp ủy nơi đảng viên công tác để làm cơ sở phân loại đảng viên. Bước đầu, việc sinh hoạt nhóm 76 có tác dụng tích cực rèn luyện, quản lý đảng viên, tạo điều kiện cho đảng viên gần gũi nhân dân, khắc phục dần những biểu hiện sống xa dân, thiếu trách nhiệm công dân nơi cư trú, góp phần củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Đồng thời, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhân dân nơi cư trú được tham gia giám sát đảng viên cơ quan thực hiện trách nhiệm công dân, thực hiện Quy định số 19-QĐ/TW[11], ngày 3/1/2001 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Nhờ đó,“ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng lên, thái độ tác phong, cử chỉ, hành động của cán bộ, công chức khi tiếp xúc với nhân dân có chuyển biến tốt hơn…”[12]. Tuy nhiên vẫn còn một số cán bộ, công chức chậm chuyển biến, thậm chí vi phạm kỷ luật. Kiểm tra thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TU, cấp huyện đã xử lý kỷ luật đảng 1 tập thể (khiển trách) và 10 cá nhân (trong đó khai trừ 2), chủ yếu là do thiếu tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý về tài chính, đất đai, nhũng nhiễu, vi phạm tư cách đạo đức.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII), đầu năm 2002, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo khảo sát về trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức viên chức các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể. Trên cơ sở tiến hành xây dựng quy hoạch, kế hoạch về công tác cán bộ. Qua khảo sát, toàn huyện có 724 cán bộ, công chức, viên chức ở 3 khối, như sau: Một là, khối Đảng, đoàn thể cấp huyện có 66 người (bao gồm cả cán bộ tăng cường): Trình độ chuyên môn có 16,6% cao đẳng, đại học, 34% trung cấp; trình độ lý luận chính trị có 69% trung, cao cấp. Riêng cán bộ lãnh đạo, trên 22,2% có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học, 93,6% có trình độ lý luận chính trị trung, cao cấp. Hai là, khối hành chính nhà nước cấp huyện có 101 người, trình độ chuyên môn có 24,7% cao đẳng, đại học, 28,7% trung cấp; trình độ lý luận chính trị có 30,6% trung, cao cấp. Riêng cán bộ lãnh đạo có trên 83% có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học, 62% có trình độ lý luận chính trị trung, cao cấp. Ba là, khối xã, thị trấn có 557 người, trình độ văn hóa vẫn còn trên 50% cán bộ chưa tốt nghiệp trung học phổ thông; phần lớn cán bộ mới được đào tạo trình độ sơ cấp lý luận chính trị và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn qua các lớp ngắn ngày; gần 14% có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, 13,6% có trình độ lý luận chính trị trung, cao cấp. Riêng cán bộ chủ chốt (bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân) trên 52% có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, 56% có trình độ lý luận chính trị trung, cao cấp. Đối với 7 chức danh chuyên môn cấp xã[13], gần 65% chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh bộ máy hành chính, các đơn vị sự nghiệp của huyện có trên 2.000 cán bộ, viên chức, hầu hết có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, trong đó đại học chiếm trên 7%. Kết quả khảo sát so với mục tiêu chuẩn hóa cán bộ có khoảng cách khá xa, đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Ngày 19/4/2002, Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 03-CTr/HU đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đến năm 2010 và sau năm 2010. Quy hoạch các chức danh chủ chốt giai đoạn 2005 - 2010 được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình, có tính khả thi cao hơn[14]. Thời điểm này, cán bộ có ý thức tự giác đi đào tạo, bồi dưỡng cả về lý luận chính trị, văn hóa và chuyên môn. Vì vậy, số lượng cán bộ huyện cử đi đào tạo, bồi dưỡng tập trung, tại chức do trường Trung ương, tỉnh mở đều vượt chỉ tiêu kế hoạch. Đối với cấp xã, huyện lấy chương trình trung cấp chính trị, hành chính làm nội dung cơ bản để đào tạo cán bộ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ đi học, huyện tạo điều kiện cho Trường Chính trị tỉnh mở các lớp đào tạo tại Trung tâm Bồi dưỡng chính trị. Bên cạnh đó, Trung tâm liên tục mở các lớp sơ cấp lý luận chính trị, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn về quản lý nhà nước, công tác đoàn thể, mặt trận… Các cơ sở đào tạo tin học của tỉnh mở tại huyện nhiều lớp, giúp cho phần lớn công chức, viên chức nâng cao khả năng sử dụng máy vi tính. Giai đoạn này, huyện bắt đầu tiếp nhận sinh viên mới tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trung cấp tình nguyện về xã, thị trấn công tác, đến năm 2005, đã có 29 người nhận công tác. Gắn với quy hoạch cán bộ, huyện luân chuyển 16 cán bộ (8 cán bộ huyện về xã, 8 cán bộ xã về huyện). Đa số cán bộ luân chuyển đều cố gắng rèn luyện, nâng cao năng lực thực tiễn, trưởng thành nhanh hơn, vững vàng hơn, góp phần tạo được chuyển biến tốt của đơn vị mới. Ngoài ra, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo mở các lớp học bổ túc văn hóa cho những cán bộ cấp huyện, cấp xã chưa đủ chuẩn văn hóa để hoàn thành tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, năm 2004 có 116 cán bộ tham gia các lớp học ban đêm.
Với những cố gắng đó, giai đoạn 2001 - 2005, đã đào tạo 1.584 cán bộ, công chức, viên chức (bao gồm cả y tế, giáo dục). Trong đó, 397 người có trình độ trung cấp, cao cấp lý luận chính trị; 527 người trình độ chuyên môn sau đại học, đại học và cao đẳng; 530 người hoàn chỉnh trình độ trung học; 130 cán bộ trung cấp chuyên ngành thuộc 7 chức danh chuyên môn ở xã, thị trấn. Ở cơ sở, hàng trăm người được bồi dưỡng nâng cao kiến thức quản lý nhà nước, nghiệp vụ chuyên môn... Sau khi được bồi dưỡng, đào tạo, thông qua thực tiễn công tác, đội ngũ cán bộ, công chức từ huyện đến cơ sở thể hiện rõ năng lực công tác được nâng lên đáng kể, hoàn thành nhiệm vụ ngày càng tốt hơn, góp phần tạo nên nhiều chuyển biến quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, Đảng bộ thường xuyên củng cố tổ chức đảng bằng nhiều biện pháp đồng bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các cấp ủy cơ sở rà soát, điều chỉnh bổ sung quy chế hoạt động của cấp ủy; tiếp tục cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh phù hợp với từng loại hình cơ sở. Đối với các tổ chức đảng yếu kém, Thường trực Huyện ủy và các cơ quan liên quan làm việc với tập thể cấp ủy, trực tiếp chỉ đạo, giải quyết những vấn đề nổi cộm, giúp cơ sở tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Có nơi phải kiện toàn, bố trí lại cán bộ chủ chốt; có nơi cần xử lý nghiêm minh những trường hợp sai phạm, nhất là đối với cán bộ chủ chốt... Việc tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình hàng năm trong Đảng cũng đổi mới về nội dung, phương pháp. Trước khi các cấp ủy cơ sở tổ chức kiểm điểm năm 2004, sau khi kiểm tra, rà soát, cân nhắc, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Thông báo Kết luận số 19-TB/HU, ngày 17/1/2005 gợi ý nội kiểm điểm đối với 13/72 tập thể cấp ủy và cá nhân là cán bộ lãnh đạo, quản lý có vấn đề cần kiểm điểm sâu. Đây là lần đầu tiên thực hiện cách làm này, nhưng có tác dụng thiết thực. Sau kiểm điểm, biện pháp xử lý, khắc phục khuyết điểm rõ ràng, cụ thể nên có hiệu quả. Từ đó về sau được duy trì thực hiện và bổ sung hoàn thiện trở thành nề nếp trong Đảng bộ. Kết hợp nhiều biện pháp củng cố nêu trên, hầu hết cơ sở đảng có những chuyển biến tiến bộ, rõ nét là khắc phục đáng kể tình trạng ôm đồm công việc, bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng; cải tiến quy trình ra nghị quyết, quyết định phù hợp với từng nơi, sát thực tiễn, có tính khả thi cao. Nhiều đơn vị yếu kém khắc phục khuyết điểm vươn lên rõ nét như Ninh Sơn, Ninh Ích, Ninh Phước, Ninh Hà, Ninh Thượng… Tuy nhiên, nhiều tổ chức đảng, nhất là cơ quan hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp còn lúng túng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, chưa thể hiện rõ vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong đơn vị…
Năm 2005, Đảng bộ huyện có 72 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 29 đảng bộ cơ sở[15]. Phân loại, có 56 cơ sở đạt trong sạch vững mạnh, chiếm 77,8%, trong đó 27,8% đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu; 14 cơ sở đạt mức hoàn thành nhiệm vụ, chiếm 19,4%; 2 cơ sở yếu kém, chiếm 2,8% tổng số cơ sở đảng. Phát triển đảng viên trong 5 năm (2001 - 2005) được 844 đồng chí, nâng tổng số đảng viên lên 2748. Huyện không còn “vùng trắng” đảng viên ở thôn, buôn làng, trạm y tế, trường học. Đánh giá chất lượng đảng viên cuối năm 2005 có 14,2% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 57,5% hoàn thành tốt nhiệm vụ, 11% hoàn thành nhiệm vụ, 16,5% hoàn thành nhiệm vụ nhưng có mặt hạn chế và 0,8% vi phạm tư cách đảng viên. Qua 5 đợt đổi và phát thẻ đảng viên theo Chỉ thị 29-CT/TW, ngày 17/10/2003 của Ban Bí thư, gần 90% đảng viên đủ tiêu chuẩn và điều kiện được nhận thẻ Đảng. Đến năm 2005, toàn Đảng bộ có 230 đảng viên 40 năm, 50 năm được trao tặng Huy hiệu Đảng. Kết quả nêu trên thể hiện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo chính trị ở cơ sở.
Về công tác kiểm tra, bên cạnh việc thường xuyên thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đảng viên chấp hành điều lệ Đảng, kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm và giải quyết đơn tố cáo, trong nhiệm kỳ 2001 - 2005, Đảng bộ tăng cường kiểm tra các cấp ủy, chính quyền cơ sở tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chương trình hành động của Huyện ủy về phát triển kinh tế - xã hội. Qua kiểm tra đã phát hiện những thiếu sót, khuyết điểm, kịp thời điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội phù hợp tình hình địa phương. Đồng thời, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời tình trạng nói không đi đôi với làm, những biểu hiện lệch lạc ở một số đơn vị, góp phần ngăn ngừa vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước. Một số trường hợp vi phạm xảy ra được xử lý nghiêm minh. Trong nhiệm kỳ, đã xử lý kỷ luật khiển trách tập thể chi ủy ở 2 đảng bộ cơ sở; kỷ luật 73 đảng viên (khiển trách 26, cảnh cáo 28, cách chức 7, khai trừ 12 đảng viên).
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước,ngày 18/7/2001, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ 5 đề ra một số chủ trương về xây dựng đề án sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế. Do bộ máy và biên chế các cơ quan của Huyện ủy, Ủy ban Mặt trận và các đoàn thể huyện khá ổn định nên đề án tập trung củng cố bộ máy chính quyền. Năm 2000, mô hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cấp huyện từ 17 phòng ban được tinh gọn còn 12 phòng ban chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân. Năm 2002 sắp xếp lại còn 10 phòng ban theo Nghị định số 12/2001/NĐ-CP, ngày 27/3/2001 của Chính phủ. Ngày 25/4/2004, Đảng bộ lãnh đạo thành công cuộc bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp, nhiệm kỳ 2004 - 2009 đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm. Quá trình chuẩn bị cuộc bầu cử được các cấp ủy lãnh đạo chặt chẽ, bảo đảm dân chủ. Công tác nhân sự có sự đồng thuận cao, nhất là trong quá trình hiệp thương, giới thiệu ứng cử viên đại biểu hội đồng nhân dân.Kết quả, bầu đủ 40 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện khóa IX, trong đó 20% đại biểu là người ngoài Đảng, 40% đại biểu là Huyện ủy viên. Ngày 18/5/2004, tại kỳ họp lần thứ nhất, Hội đồng nhân dân huyện (khóa IX) bầu các đồng chí: Nguyễn Thạch Ngọc, Phó Bí thư Huyện ủy làm Chủ tịch Hội đồng; Lê Văn Chuyển, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm Phó Chủ tịch Hội đồng; Trần Thị Cúc, Huyện ủy viên làm Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân; đồng chí Võ Tấn Thái, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy (đến ngày 25/6/2004 là Phó Bí thư) làm Chủ tịch; đồng chí Trần Công Hoán, Huyện ủy viên và Trần Văn Minh, Huyện ủy viên làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; bầu 2 ban Hội đồng nhân dân huyện và 11 thành viên Ủy ban nhân dân huyện. Đối với bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân xã, thị trấn, đã bầu ra 721 đại biểu, trong đó 51% đại biểu là người ngoài Đảng. Trong kỳ họp lần thứ nhất của hội đồng nhân dân xã, thị trấn đều bầu các đồng chí đại biểu là bí thư hoặc Phó Bí thư đảng ủy làm chủ tịch hội đồng nhân dân. Riêng xã Ninh Hà, huyện chọn làm thí điểm mô hình chủ tịch ủy ban nhân dân xã đồng thời là bí thư đảng ủy xã theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương cơ sở. Mô hình này được đánh giá là có hiệu quả, tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau, cần có thời gian thử nghiệm.
Sau bầu cử, bộ máy hành chính cấp huyện tiếp tục được củng cố, tinh giản biên chế theo Nghị định 172/2004/NĐ-CP, ngày 29/9/2004 của Chính phủ. Sau khi sắp xếp lại, cuối năm 2005, số lượng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện là 12 phòng ban[16], so với năm 2002 thì tăng thêm 2 cơ quan nhưng số lượng cán bộ, công chức giảm từ 101 xuống còn 78 người. Đồng thời với tinh gọn bộ máy, các cơ quan hành chính cả ở 2 cấp huyện và xã được đầu tư trang thiết bị máy móc ứng dụng công nghệ thông tin. Năm 2005, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện cơ bản hoàn thiện hệ thống mạng và máy chủ, kết nối đến tất cả các phòng ban tham mưu. Hệ thống mạng vi tính Ủy ban nhân dân huyện tuy chưa kết nối được với các xã trong huyện nhưng đã kết nối thông suốt với mạng CPNET của Chính phủ, có thể khai thác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên toàn quốc.
Cùng với quá trình sắp xếp bộ máy tổ chức, tinh giản biên chế, Đảng bộ tập trung lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính nhà nước theo tinh thần Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg, ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ gắn với với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Huyện ủy và các cấp ủy đảng cơ sở. Đây là nội dung trọng tâm của nhiệm vụ xây dựng chính quyền nhân dân trong giai đoạn 2001 - 2005. Triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính nhà nước, Huyện ủy chỉ đạo các cấp chính quyền cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước của từng cấp theo luật định bằng những quy định, quy chế, chế độ làm việc…; phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy hành chính Ủy ban nhân dân huyện và xã, thị trấn; rà soát và xác định rõ các mối quan hệ làm việc giữa các cơ quan, đơn vị và nhiệm vụ cụ thể của từng chức danh công chức. Khâu đột phá trong cải cách hành chính là cải cách thủ tục hành chính, loại bỏ những thủ tục rườm rà, gây khó khăn, phiền hà cho dân. Ủy ban nhân dân huyện tiến hành rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành, loại bỏ những quy định không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lắp... Quá trình sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế, cải cách hành chính được gắn với việc bổ nhiệm và bổ nhiệm lại các chức danh chủ chốt; bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục và rèn luyện đội ngũ công chức; uốn nắn, chấn chỉnh, xử lý kịp thời các biểu hiện sai phạm thông qua tự phê bình và phê bình. Đối với bộ máy xã, thị trấn, năm 2003 đánh dấu một bước đổi mới quan trọng trong cải cách hành chính. Nổi bật là Đảng và Nhà nước xác định rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của cán bộ xã - là cán bộ, công chức nhà nước thực thi công vụ ở cấp xã. Đội ngũ cán bộ cấp xã được phân định cụ thể gồm cán bộ chuyên trách, cán bộ không chuyên trách và cán bộ sự nghiệp, dịch vụ công[17]. Thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo sát việc kiện toàn đội ngũ cán bộ xã theo các chức danh chuyên trách và không chuyên trách; tiến hành chuyển xếp lương cho cán bộ từ chế độ sinh hoạt phí sang chế độ công chức cấp xã. Sau khi kiện toàn, cuối năm 2004, bộ máy của xã có số lượng cán bộ chuyên trách thấp nhất là 17 (xã Ninh Tây), cao nhất là 23 (thị trấn Ninh Hòa). Cán bộ chuyên trách cấp xã có chế độ làm việc và hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước như chế độ lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc, chế độ hưu trí… Chính sách đãi ngộ trên đáp ứng lòng mong đợi từ lâu của cán bộ cấp xã, tạo ra động lực phát triển mới. Đội ngũ cán bộ nhận thức và thực hiện đầy đủ hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Kỷ cương hành chính được bảo đảm; phong cách, ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc của cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở cơ sở chuyển biến tiến bộ, có trách nhiệm với dân hơn, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2005 đạt được một số kết quả, từng bước khắc phục dần tình trạng chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành, tham mưu. Giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp xây dựng mối quan hệ làm việc chặt chẽ. Rõ nét ở cấp huyện, quan hệ giữa Thường trực Hội đồng nhân dân với Thường trực Ủy ban nhân dân luôn thể hiện đoàn kết, gắn bó. Quan hệ giữa chính quyền với Ủy ban Mặt trận, các đoàn thể huyện được tăng cường, phối hợp công tác có hiệu quả như tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri, giải quyết các kiến nghị của cử tri… Dân chủ trong sinh hoạt của hội đồng nhân dân được được tôn trọng, mở rộng; hoạt động giám sát, thảo luận, ra nghị quyết… trong các kỳ họp của hội đồng các cấp có chất lượng hơn. Ủy ban nhân dân các cấp tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm túc các nghị quyết của hội đồng nhân dân nên tạo được sự thống nhất, đồng thuận cao trong quá trình quản lý, điều hành và chỉ đạo giải quyết những vụ việc phát sinh. Nhờ đó, phát huy được hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng… Bên cạnh một số tiến bộ, bộ máy hành chính từ huyện đến cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Năng lực cụ thể hóa nghị quyết của Đảng còn yếu, nhất là ở cơ sở. Thủ tục hành chính còn rườm rà, nặng nề. Một số công chức hạn chế về năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm, một số cán bộ lãnh đạo thiếu nhạy bén, lúng túng trong xử lý tình huống phức tạp…
Tiến hành đồng thời với nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước, cấp ủy đảng các cấp tiếp tục chỉ đạo mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân đổi mới nội dung, phương thức hoạt động,thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân. Trong từng thời điểm, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, mặt trận và các tổ chức đoàn thể xác định nội dung hoạt động của từng loại đối tượng, phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Hoạt động đáng chú ý là từ năm 2004, mặt trận và các đoàn thể các cấp tham gia xây dựng, sửa đổi, bổ sung và giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo Nghị định số79/2003/NĐ-CP,ngày 7/7/2003của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Hầu hết các công trình xây dựng có sự đóng góp sức dân như giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương… đều có sự tham gia giám sát của dân thông qua các tổ chức quần chúng như Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân… Nhờ đó, các công trình bảo đảm chất lượng hơn. Mỗi đoàn thể đều có những phong trào phù hợp với đặc điểm của đoàn thể mình nhưng đều hướng đến mục tiêu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Mặt trận Tổ quốc huyện tập trung đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với thực hiện quy chế dân chủ. Liên đoàn Lao động thực hiện 2 phong trào “Lao động giỏi với năng suất, chất lượng, hiệu quả và thực hành tiết kiệm” và “xanh, sạch, đẹp, đơn vị văn hóa, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động”. Hội Nông dân hướng các phong trào vào nội dung trọng tâm là sản xuất, kinh doanh giỏi, xóa đói giảm nghèo. Tiếp tục 2 phong trào lớn của Đoàn, Huyện đoàn phát động các phong trào thi đua với khẩu hiệu “Tuổi trẻ Ninh Hòa xung kích, sáng tạo, chủ động lập thân, tình nguyện vì nước”. Hội Liên hiệp Phụ nữ có 6 chương trình công tác trọng tâm[18], trong đó tập trung xây dựng gia đình theo chuẩn mực “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Hội Cựu chiến binh với phong trào “Cựu chiến binh gương mẫu”, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, giúp nhau làm kinh tế gia đình, giữ gìn an ninh trật tự xã hội... Qua các phong trào thi đua, mỗi đoàn thể củng cố tổ chức, tập hợp, giáo dục, phát triển đoàn hội viên. Tuy nhiên, nhiều hoạt động của mặt trận và các đoàn thể nhân dân vẫn mang nặng hình thức, đề cao lợi ích chung mà chưa chú ý gắn với lợi ích cá nhân đoàn viên, hội viên nên thiếu sức thu hút. Một số cấp ủy đảng thiếu quan tâm lãnh đạo công tác vận động quần chúng.
Mặc dù còn nhiều khuyết điểm, hạn chế, nhưng kết quả đạt được trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân trong nhiệm kỳ 2001 - 2005 đã tạo ra bước chuyển biến tiến bộ mới của toàn bộ hệ thống chính trị huyện vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Kết quả đó thể hiện nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc phát huy được sức mạnh nội lực tổng hợp, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội.
Sau gần 20 năm đổi mới (1986 - 2005), cùng với cả nước, cả tỉnh, nhân dân Ninh Hòa đạt được nhiều thành tựu quan trọng, làm cho quê hương thay đổi cơ bản và toàn diện. Trong suốt quá trình đổi mới, toàn huyện luôn giữ vững ổn định chính trị và đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng bộ huy động được nhiều nguồn lực trong và ngoài huyện phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Cơ cấu kinh tế huyện chuyển dịch theo hướng tích cực, phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế. Nổi bật là nông nghiệp phát triển từng bước một cách vững chắc, toàn diện, bước đầu chuyển hướng phát triển theo chiều sâu; bảo đảm an ninh lương thực, ổn định nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu. Tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh, đóng góp tích cực vào việc tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới. Với lợi thế về địa lý kinh tế và có nhiều loại sản phẩm hàng hóa, huyện từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế với các địa phương, đơn vị ngoài huyện. Việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn trong nước đạt nhiều kết quả, tạo ra bước đột phá về phát triển kinh tế huyện. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển khá cân đối với tăng trưởng kinh tế. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” làm chuyển biến rõ nét nếp sống văn hóa mới, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có những chuyển biến tích cực trong các bậc học, ngành học; hệ thống giáo dục phổ thông phủ đều khắp trên địa bàn huyện; công tác phổ cập giáo dục đạt kết quả cao. Việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; công tác phòng chống bệnh dịch, phát triển và hoàn thiện mạng lưới y tế, chính sách miễn giảm viện phí cho người nghèo, cho trẻ em dưới 6 tuổi, chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình… được quan tâm thực hiện tốt. Công tác đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm… thể hiện truyền thống, bản sắc và đạo đức tốt đẹp của con người, quê hương Ninh Hòa.
Tuy nhiên, huyện cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế phát triển chủ yếu vẫn theo chiều rộng, dựa vào vốn, lao động, đất đai và tài nguyên là chính nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Một số vấn đề xã hội bức xúc, phức tạp như tình hình khiếu kiện về đất đai, bồi thường giải tỏa, tội phạm và các tệ nạn xã hội… có xu hướng gia tăng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ còn nhiều mặt chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, ra sức khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, Đảng bộ và nhân dân toàn huyện vững vàng bước vào giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm tiếp theo.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16, nhiệm kỳ 2005 - 2010
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 6/12/2004 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 66- KH/TU, ngày 16/2/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2005 - 2010, từ ngày 6 - 8/9/2005, tại Hội trường Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 16, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Về dự Đại hội có 200 đại biểu chính thức, thay mặt cho 72 tổ chức cơ sở đảng và hơn 2.700 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội thảo luận, góp ý các dự thảo văn kiện trình Đại hội X của Đảng, dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XV Đảng bộ tỉnh; kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 15 và đề ra phương hướng nhiệm vụ 5 năm (2005 - 2010). Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVI, nhiệm kỳ 2005 - 2010 gồm 39 ủy viên; bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 15 gồm 26 đồng chí. Ngày 8/9/2005, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành khóa XVI bầu Ban Thường vụ huyện ủy gồm 11 đồng chí; bầu đồng chí Nguyễn Thạch Ngọc làm Bí thư Huyện ủy; bầu 2 đồng chí Võ Đình Chinh và Võ Tấn Thái làm Phó Bí thư Huyện ủy; bầu Ủy ban Kiểm tra gồm 5 đồng chí và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy.
Đánh giá kết quả 5 năm (2001 - 2005), Đại hội khẳng định: “Thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ vừa qua hết sức quan trọng, tạo được tiền đề và sức bật mới cho những năm tiếp theo, đó là: Các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng đảng đều thể hiện sự tiến bộ rõ nét, kết quả năm sau cao hơn năm trước… Sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, vai trò, năng lực lãnh đạo của các cấp ủy cơ sở được nâng lên. Giữ vững ổn định chính trị xã hội. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện một bước. Nội bộ đoàn kết, thống nhất”[19]. Đại hội chỉ ra những khuyết điểm hạn chế, trong đó nhấn mạnh: Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của huyện; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm; các thành phần kinh tế ngoài nhà nước chưa phát huy hết năng lực hiện có trong dân. Ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong lĩnh vực đất đai, trật tự giao thông, bảo vệ môi trường... của một bộ phận nhân dân và doanh nghiệp chưa cao. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng có mặt thiếu chiều sâu; bộ máy và đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể còn một số hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ… Khuyết điểm trên có nhiều nguyên nhân, trong đó Đại hội nhấn mạnh nguyên nhân chủ yếu là do chưa phát huy hết vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng và quản lý, điều hành của chính quyền các cấp.
Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung trong giai đoạn 2005 - 2010 là: “Phát huy cao độ mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, tập trung khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của huyện để phát triển theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thông qua đó, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Không ngừng tăng cường, củng cố tiềm lực quốc phòng - an ninh ngày càng vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ngay từ địa bàn cơ sở… Hoàn thành giai đoạn đầu việc đầu tư xây dựng thị xã Ninh Hòa theo quy hoạch”[20]. Với tinh thần không ngừng phấn đấu vươn lên, đến giữa nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ra Nghị quyết số 10-NQ/HU, ngày 1/9/2008 chủ trương đặt mức phấn đấu cao để thực hiện các mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ (2005 - 2010). Nghị quyết nêu rõ quyết tâm của toàn Đảng bộ lãnh đạo “Hoàn thành việc nâng cấp đô thị Ninh Hòa lên đô thị loại IV và chia tách huyện, thành lập 2 đơn vị hành chính mới (thị xã và huyện) theo nghị quyết của Tỉnh ủy”.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16 thành công “có ý nghĩa to lớn, là bước ngoặt mở ra một giai đoạn phát triển mới, hướng đến một thị xã Ninh Hòa trong tương lai gần”[21]. Với niềm tin đó, Đảng bộ và nhân dân triển khai Nghị quyết Đại hội XVI một cách khẩn trương, vững chắc trong điều kiện có nhiều thuận lợi đan xen với nhiều khó khăn, phức tạp. Thuận lợi cơ bản nhất là sau 20 năm đổi mới, đất nước nói chung và tỉnh, huyện nói riêng mạnh lên cả thế và lực, quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở; nước ta tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế về kinh tế, văn hóa - xã hội, đặc biệt gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Những thành tựu đó tạo ra môi trường thuận lợi và động lực mới cho sự phát triển chung của các địa phương. Việc Thủ tướng Chính phủ ra Quyết địnhsố 51/2005/QĐ-TTg, ngày 11/3/2005 phê duyệt Quy hoạch Khu Kinh tế vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 thành một trung tâm kinh tế quan trọng của cả nước tạo ra nhiều thuận lợi mới cho sự phát triển về mọi mặt của huyện. Đặc biệt, lần đầu tiên, tỉnh thực hiện phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách; quy định tỷ lệ phân chia ngân sách cho các cấp. Đây là điều kiện cơ bản để huyện chủ động và chịu trách nhiệm bố trí, điều chỉnh cơ cấu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Bên cạnh những thuận lợi cũng gặp không ít khó khăn. Tình hình kinh tế thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu. Mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo… diễn ra ở nhiều nơi và ngày càng phức tạp. Tranh chấp trên biển Đông có xu hướng diễn biến phức tạp, nhất là từ khi Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp nhằm ngụy tạo cơ sở pháp lý của yêu sách “đường lưỡi bò”. Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng các hoạt động “diễn biến hòa bình”, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước. 20 năm đổi mới đất nước đạt nhiều thành tựu, đồng thời cũng làm xuất hiện nhiều vấn đề mới rất phức tạp nhưng chưa được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Tình hình kinh tế trong tỉnh có xu hướng chững lại, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm. Những khó khăn đó tác động trực tiếp đến tình hình trong huyện, gây nhiều khó khăn nhất là đối với các lĩnh vực kinh tế, tư tưởng - văn hóa.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 15, Đảng bộ huyện thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, lãnh đạo nhân dân đoàn kết vượt qua khó khăn, tranh thủ thời cơ, tiếp tục giành nhiều thắng lợi quan trọng trong giai đoạn cách mạng mới.
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoàn thành mục tiêu huyện Ninh Hòa trở thành thị xã
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 16, Hội nghị Huyện ủy lần thứ 6 (khóa XVI) ra Nghị quyết số 04-NQ/HU, ngày 30/10/2006 về các mục tiêu, giải pháp thực hiện chương trình phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi, hải đảo; chương trình chuyển đổi cơ cấu giống, cây trồng vật nuôi giai đoạn 2006 - 2010. Đây là những vấn đề lớn về sản xuất xuyên suốt giai đoạn này. Trong quá trình thực hiện, Ban Thường vụ Huyện ủy có sự điều chỉnh về mục tiêu cho phù hợp với thực tiễn; chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện cụ thể hóa nghị quyết bằng các chương trình, đề án, kế hoạch hàng năm.
Tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 05-CTr/HU thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010, ngày 25/10/2008, Huyện ủy bổ sung Kế hoạch số 52-KH/HU thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn (còn gọi là “tam nông”), trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Huyện tiếp tục đầu tư cho thủy lợi, nâng cao năng lực tưới tiêu. Sau khi thủy điện Ea Krong Rou đưa vào hoạt động, hệ thống tưới sau thủy điện gồm 2 kênh chính Bắc và Nam được khởi công xây dựng; năm 2010 bắt đầu khai thác 13 km kênh đầu tiên của hệ thống kênh chính Bắc. Tuy nhiên do lượng nước ít nên công trình chưa phát huy tốt tác dụng, mới tưới được trên 140 ha so với thiết kế 1.800 ha của kênh Bắc. Ngày 25/7/2007, hồ chứa nước Tiên Du (xã Ninh Phú) được khởi công xây dựng. Hồ nằm ở độ cao trên 310m so với mực nước biển, có dung tích trên 7 triệu m3 nước. Sau khi hoàn thành, hồ sẽ cấp nước cho khu công nghiệp Ninh Thủy, khu dân cư Ninh Thủy, Ninh Long và tưới cho 150ha đất canh tác. Như vậy, đến năm 2010, hệ thống thủy lợi trên địa bàn huyện khá hoàn chỉnh gồm 33 công trình, trong đó có 5 hồ chứa[22], 14 đập dâng. Hệ thống kênh mương được kiên cố hóa trên 67% kênh cấp I, II và trên 57% kênh mương cấp III so với tổng chiều dài từng loại kênh[23], tưới ổn định cho trên 7.500ha lúa 2 vụ. Kết hợp giao thông với thủy lợi, giao thông nội đồng trên nhiều cánh đồng được “cứng hóa”; một số tuyến đường giao thông phục vụ vùng nguyên liệu mía Ninh Tây, Ninh Sim được nâng cấp, mở rộng. Bên cạnh đó, cơ giới hóa, điện khí hóa nông thôn cũng cơ bản hoàn thành. Đây là những điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở cây trồng, vật nuôi đã được xác định ổn định cho từng vùng, Đảng bộ lãnh đạo tập trung chuyển hướng sang phát triển sản xuất theo chiều sâu, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích. Các địa phương cơ sở và hộ gia đình thực hiện đồng bộ các giải pháp như ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, thâm canh tăng năng suất, đặc biệt là chú trọng chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng tốt và tiếp cận được thị trường tiêu thụ. Công tác khuyến nông, khuyến ngư tăng cường phổ biến, đưa những tiến bộ về khoa học và công nghệ vào sản xuất. Hàng năm, toàn huyện mở hàng chục lớp tập huấn, huấn luyện kỹ thuật đối với các loại giống cây trồng, vật nuôi mới; xây dựng và chuyển giao nhiều mô hình trình diễn cho nông dân. Sau nhiều năm kiên trì thử nghiệm, đến năm 2010, một số mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao được nhân rộng như mô hình sản xuất lúa “3 giảm 3 tăng”; mô hình nâng cấp giống lúa “1 phải 5 giảm”[24]; mô hình nâng cao thu nhập từ cây màu trên đất 2 vụ lúa; mô hình trồng cây lập vườn keo lai, điều ghép, xoài ghép, tre lấy măng... Một số cây trồng được nông dân trồng tập trung trở thành thương hiệu như tỏi Ninh Phước, Ninh Vân, dừa xiêm Ninh Đa… Khai thác triệt để nguồn nước tưới, huyện tiếp tục chuyển một số diện tích đất lúa 1 vụ sang 2 vụ hoặc trồng cây rau, màu có hiệu quả hơn. Từ năm 2007 - 2010, vùng lúa 2 vụ luôn giữ trên dưới 7.500 ha, ổn định sản lượng lương thực hàng năm từ 90.000 - 95.000 tấn, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực trên địa bàn huyện. Vùng mía, mặc dù có lúc thăng trầm do biến động giá cả thị trường, do yếu kém trong công tác quản lý và nhiều nguyên nhân khác gây khó khăn và bức xúc đối với nông dân nhưng qua thực tiễn, có thể khẳng định: Cây mía là cây phù hợp và có hiệu quả trên vùng đất phía Tây huyện, chưa có cây trồng nào thay thế được. Vì vậy, diện tích mía luôn được giữ ổn định và tăng dần hàng năm, đến năm 2010, toàn huyện có trên 9.000 ha. Đối với ngành chăn nuôi, luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là dịch bệnh và giá cả thị trường biến động thất thường nên thiếu ổn định. Đàn bò sau khi nỗ lực tăng từ 23.000 con (2005) lên hơn 40.000 con (2006) thì từ năm 2007 lại bắt đầu giảm dần xuống, đến năm 2010 còn 25.000 con. Tuy nhiên chất lượng đàn được cải thiện rõ rệt, giống bò lai chiếm trên 90% tổng đàn, chủ yếu là bò thịt. Đàn trâu có xu hướng giảm dần, chỉ còn trên 1.000 con. Đàn heo dao động từ 21.000 - 30.000 con, phần lớn là giống heo Landrace, Yorshire, Duroc, Pietrain, heo lai 2 máu, 3 máu. Trên địa bàn huyện có một số trại chăn nuôi heo hiện đại với quy mô lớn. Năm 2006, Công ty Cổ phần Khánh Tân (Khatoco) xây dựng trại chuyên chăn nuôi và kinh doanh heo chất lượng cao bằng công nghệ tiên tiến tại xã Ninh Tây, quy mô rộng 150 ha, 1.300 nái đẻ. Năm 2008, Công ty thành lập thêm trại nuôi heo tại xã Ninh Thân trên diện tích rộng 5 ha, 700 nái đẻ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp tư nhân Việt Thắng có trại nuôi heo tại xã Ninh Ích, chủ yếu là nuôi heo thịt. Đáng chú ý là Khatoco mở rộng quy mô nuôi đà điểu không những ở xã Ninh Phụng mà còn xây dựng thêm trại nuôi ở xã Ninh Thân và Ninh Tây. Mô hình trình diễn nuôi đà điểu thương phẩm bước đầu chuyển giao cho nông dân, nhiều hộ tham gia nuôi, trong đó đa số nuôi theo hình thức gia công cho doanh nghiệp. Trong đó, một số doanh nhân đầu tư lập trang trại với quy mô 200 - 500 con. Từ mô hình này, đà điểu có triển vọng được nhân rộng nuôi rộng rãi trong huyện. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn xuất hiện thêm vật nuôi mới là cá sấu. Năm 2008, Khatoco dời trại cá sấu Yang Bay (xã Khánh Phú, huyện Khánh Vĩnh) về xã Ninh Ích. Tuy lợi ích kinh tế cao nhưng ngoài Khatoco, chưa có doanh nghiệp và hộ gia đình nào được cấp phép nuôi cá sấu trên địa bàn huyện.
Đối với 2 xã miền núi Ninh Tây và Ninh Tân, huyện tiếp tục đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Nhiều công trình được đầu tư nâng cấp, xây mới như: Bê tông hóa 2 hệ thống kênh mương đập Buôn Đung và Buôn Tương; xây dựng đường nội vùng các khu dân cư Suối Tre, khu C3 (Ninh Tây), Suối Sâu (xã Ninh Tân); nâng cấp các tuyến đường bảo đảm cho ô tô lưu thông từ các buôn đến trung tâm xã. Các buôn đều có điện lưới, có nhà sinh hoạt cộng đồng, có lớp mẫu giáo. Huyện tiếp tục điều chỉnh và thu hồi đất sản xuất của Công ty Cổ phần Bò giống miền Trung để cấp cho hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống gặp nhiều khó khăn để sản xuất, trồng mía. Hàng năm, vẫn tiếp tục cấp phát hàng trăm con bò, nhiều tấn giống và vật tư nông nghiệp, mở các lớp huấn luyện kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi cho đồng bào. Nhiều hộ có ý thức vươn lên đã thoát nghèo, đời sống ổn định, nâng cao.
Về lâm nghiệp, nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, bảo vệ rừng và trồng rừng. Bình quân mỗi năm, toàn huyện trồng trên 300 ha rừng tập trung, tuy nhiên tỷ lệ che phủ rừng không tăng lên được do nạn chặt phá, đốt rừng làm rẫy và khai thác lâm sản trái phép chưa giảm, năm 2006 bắt và xử lý trên 240 vụ. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo quyết liệt công tác quản lý, bảo vệ rừng. Huyện thành lập đoàn kiểm tra liên ngành, tổ kiểm lâm cơ động phối hợp với các trạm kiểm lâm địa bàn và các xã tăng cường kiểm tra, nhất là các khu vực rừng trọng yếu; ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Luật Bảo vệ rừng và các phương án bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng. Việc thành lập và duy trì thường xuyên hoạt động của tổ kiểm lâm cơ động là một biện pháp mang lại hiệu quả cao. Riêng vùng rừng Hòn Hèo, năm 2009, huyện thỏa thuận bàn giao cho Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ. Đây là giải pháp tích cực và phù hợp nhằm bảo vệ tốt hơn rừng và động vật hoang dã ở Hòn Hèo. Từ năm 2009, số vụ vi phạm Luật Bảo vệ rừng trên địa bàn huyện giảm hẳn; không xảy ra cháy rừng gây thiệt hại lớn. Năm 2010 bắt và xử lý hơn 90 vụ - đây là số lượng thấp nhất so với các năm trước đây.
Về thuỷ sản, đứng trước khó khăn do tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi gây ra, đa số các hộ gia đình chuyển sang hình thức nuôi bán thâm canh hoặc quảng canh cải tiến và đa dạng hóa đối tượng nuôi. Qua nuôi thử nghiệm thành công tôm thẻ chân trắng và ốc hương thương phẩm, từ năm 2007, thả nuôi 2 loại mới này lan rộng ra toàn huyện. Đây là sự chuyển hướng nhanh nhạy của người nông dân. Nhờ đó, mặc dù chưa ổn định và còn nhiều may rủi nhưng nghề nuôi trồng thủy sản được phục hồi. Riêng các trại sản xuất tôm sú giống giảm dần chỉ còn lại vài chục trại; một số ít trại được cấp phép sản xuất tôm thẻ giống; nhiều trại sản xuất ốc hương giống xuất hiện. Năm 2010, toàn huyện thả nuôi trên 2.400ha, trong đó diện tích tôm sú gần 500ha, tôm thẻ trên 1.200ha, ốc hương và các loại khác 700ha. Sản lượng nuôi trồng thu hoạch trên 3.200 tấn, trong đó sản lượng tôm trên 2.200 tấn. Riêng sản lượng vẹm xanh nuôi ở biển đầm Nha Phu bình quân mỗi năm đạt trên 2.000 tấn. Như vậy, nghề nuôi trồng thủy sản ở huyện đã dần xác định được các đối tượng nuôi chính là tôm sú, tôm thẻ chân trắng, ốc hương và nuôi vẹm xanh ở biển vùng đầm Nha Phu, ngoài ra còn có một số đối tượng nuôi khác như hầu, cá bóp, cá mú, rong biển, cua, ghẹ...
Cơ cấu nuôi đa dạng, thích ứng với sự thay đổi của môi trường là đặc điểm thể hiện sự sáng tạo và trình độ kỹ thuật được nâng lên rõ rệt của nghề nuôi trồng thủy sản ở Ninh Hòa. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất vẫn là chưa quản lý tốt môi trường nuôi ở cục bộ từng vùng và trên phạm vi toàn huyện, tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thường xảy ra. Bên cạnh đó, thời tiết thay đổi dị thường, chất lượng con giống trước khi thả nuôi chưa bảo đảm, cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng còn nhiều hạn chế, bất cập... Vì vậy, nghề nuôi trồng, kể cả nuôi vẹm xanh còn thiếu ổn định và phải đối mặt với rủi ro mức độ cao, như năm 2009, do ô nhiễm môi trường nên vẹm chết xảy ra trên diện rộng. Về đánh bắt hải sản, do nguồn lợi ngư trường gần bờ cạn kiệt dần, số lượng tàu thuyền đánh bắt xa bờ tăng không đáng kể nên sản lượng khai thác hàng năm tăng chậm. Năm 2008, thực hiện Quyết định 289/QĐ-TTg, ngày 18/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh hỗ trợ dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản nên thúc đẩy ngư dân bám biển, sản lượng đánh bắt tăng khá, đạt trên 8.500 tấn. Năm 2010 đạt trên 10.000 tấn. Sản xuất muối cũng có đổi mới công nghệ. Năm 2010, Cục Chế biến Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đầu tư dự án hỗ trợ sản xuất muối theo phương pháp kết tinh trên ô trải bạt, tại xã Ninh Thủy - đơn vị đầu tiên trong tỉnh được thụ hưởng dự án. Đây là biện pháp công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất muối. Kết quả thử nghiệm cho thấy muối trắng, sạch, năng suất cao gấp đôi so với phương pháp truyền thống. Kết quả này mở ra hướng mới để chuyển đổi sản xuất muối sang phương pháp kết tinh trên ô trải bạt ở phạm vi đại trà, đáp ứng thị hiếu của thị trường. Đây cũng là bước chuyển đổi tất yếu nhằm nâng cao đời sống của diêm dân Ninh Hòa.
Trong giai đoạn 2005 - 2010, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tiếp tục tăng trưởng. Về số lượng, 5 năm cơ sở sản xuất thành lập mới tăng 9,4%. Năm 2010, trên địa bàn huyện có 53 doanh nghiệp (6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), 5 hợp tác xã, gần 1.300 hộ gia đình, cá thể tư nhân. Sau khi cổ phần hóa, đến năm 2009, không còn doanh nghiệp nào thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Tuy số lượng tăng không nhiều nhưng hầu hết các cơ sở công nghiệp lớn đều đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc, mở rộng quy mô sản xuất. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tàu biển Hyundai Vinashin, từ tháng 11/2008, bắt đầu chuyển sang đóng mới tàu hàng, tăng nhanh giá trị sản phẩm, đồng thời hạn chế ô nhiễm môi trường hạt nix gây ra. Công ty Cổ phần Xi măng Hòn Khói đầu tư hệ thống đóng bao và máy in phun tự động (in ký hiệu trên vỏ bao), trang bị dây chuyền sản xuất mới, hiện đại phục vụ nghiền xi măng gia công cho Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn, quy mô 170 nghìn tấn/năm. Công ty Cổ phần Đường Ninh Hòa đầu tư nâng cao dần công suất của nhà máy, đến năm 2010 đạt 3.000 tấn mía/ngày… Đáng chú ý là ngành công nghiệp có thêm sản phẩm mới là thủy điện. Sau hơn 2 năm xây dựng, tháng 5/2007, Nhà máy Thủy điện Ea Krông Rou có công suất 28MW (tại xã Ninh Tây) đưa vào sản xuất và hòa lướiđiện quốc gia. Ngoài sản xuất điện, Nhà máy còn mở ra khả năng xây dựng hệ thống tưới sau thuỷ điện với tổng diện tích có thể lên tới 2.800ha, trong đó phần lớn là diện tích trồng mía; cấp bổ sung nước cho hồ Suối Sim, nước sinh hoạt cho nhân dân. Nhờ đó, mặc dù gặp khó khăn do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bùng phát vào năm 2008, nhưng sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vẫn tiếp tục tăng khá. Năm 2010, các sản phẩm chính tăng đáng kể so với năm 2005, như đường kết tinh trên 25.000 tấn, tăng gấp 2 lần, xi măng 74.000 tấn gấp hơn 2,3 lần, gạch ngói gần 200 triệu viên, tăng 15%...; giá trị tổng sản lượng toàn ngành (tính theo giá so sánh 1994) tăng khá, bình quân mỗi năm tăng 15,2%.
Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phát triển kéo theo ngành dịch vụ phát triển mạnh. Số lượng cơ sở kinh doanh tăng đáng kể, năm 2010, trên địa bàn huyện có 8.460 cơ sở, tăng gấp 1,8 lần so với năm 2005. Trong đó có 186 doanh nghiệp, còn lại chủ yếu là kinh tế cá thể, hộ gia đình. Bình quân mỗi năm thành lập mới trên 760 cơ sở. Đây là số lượng tăng cao nhất so với các giai đoạn trước năm 2005, đặc biệt là dịch vụ thương mại, ăn uống, nhà nghỉ. Với lợi thế về địa kinh tế, ngày 9/12/2007, tại đảo Mỹ Giang, xã Ninh Phước Công ty Liên doanh trách nhiệm hữu hạn Kho xăng dầu ngoại quan Vân Phong khởi công xây dựng kho xăng dầu, sức chứa 1 triệu m3; xây dựng một cầu tàu có khả năng tiếp nhận tàu 150.000DWT; các cầu cảng xuất hàng cho tàu từ 500DWT đến 60.000DWT. Về dịch vụ du lịch, số lượng doanh nghiệp kinh doanh năm 2010 tăng lên 11 đơn vị, tập trung khai thác tiềm năng du lịch ở Ninh Vân, Ninh Phước, Ninh Thủy, Ninh Hải, Ninh Phú, Ninh Ích… Nhiều tua, nhiều điểm du lịch, nghỉ dưỡng trở thành thương hiệu là điểm đến không thể thiếu được khi đến Ninh Hòa như Dốc Lết, đảo khỉ - suối Hoa Lan... Điểm đến được nhiều khách, nhất là khách nước ngoài ưa thích lựa chọn là khu du lịch, nghỉ dưỡng cao cấp 5 sao Six Senses Ninh Vân Bay. Đây là một trong những resort đầu tiên của Việt Nam nhận được nhiều giải thưởng danh giá nhất của các hiệp hội du lịch Việt Nam và thế giới. Số lượng khách đến du lịch, nghỉ dưỡng và số ngày khách lưu trú trên địa bàn huyện ngày càng tăng nhanh, năm 2010 có gần 75.000 lượt khách, tăng gấp hơn 1,5 lần so với 2005, trong đó khách nước ngoài gần 10.000 người, tăng gấp hơn 2 lần.
Tuy ngành dịch vụ tăng mạnh về số lượng nhưng về giá trị doanh thu tăng chậm, bình quân mỗi năm tăng 8%. Năm 2010, tỷ trọng giá trị sản lượng công nghiệp chiếm 63,4%, nông nghiệp 22,4% và dịch vụ 14,2% (tính theo giá so sánh 1994). Trong giai đoạn tiếp theo, khi phát huy đầy đủ năng lực dịch vụ, nhất là hoàn thành đưa vào sử dụng Kho xăng dầu ngoại quan Vân Phong sẽ góp phần tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản lượng dịch vụ trong nền kinh tế huyện, đẩy nhanh xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện từ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Đây là xu thế phát triển tích cực, phù hợp với tiềm năng của huyện và quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc của tỉnh.
Sau khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết địnhsố 51/2005/QĐ-TTg, ngày 11/3/2005 phê duyệt quy hoạch Khu Kinh tế Vân phong, quán triệt thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 27/10/2006 Tỉnh ủy về chương trình phát triển hệ thống đô thị tỉnh Khánh Hòa đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng: Điều chỉnh bổ sung quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 1997 - 2010; xây dựng kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010; điều chỉnh quy hoạch xây dựng đô thị Ninh Hòa đến năm 2020; quy hoạch xây dựng các khu dân cư thị tứ như Lạc An (Ninh An - Ninh Thọ), Dục Mỹ (Ninh Sim), các khu dân cư đô thị Ninh Hà, Ninh Diêm… Năm 2006 - 2010 là giai đoạn có số lượng dự án được cấp phép đầu tư nhiều nhất. Đây cũng chính là thời cơ để huyện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nắm bắt thời cơ đó, huyện chủ động tiến hành công tác đền bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng, tạo môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư của tỉnh, trung ương và các doanh nghiệp vào địa bàn huyện, nhất là các dự án trong khu kinh tế tổng hợp Nam Vân Phong. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể phối hợp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, thực hiện công khai, dân chủ và công bằng mức đền bù, hỗ trợ cho các đối tượng giải tỏa. Đồng thời kiên quyết xử lý những trường hợp cố tình dây dưa. Trong quá trình thực hiện, có nhiều đơn thư phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại của dân…, có lúc, có nơi diễn ra căng thẳng, gay gắt. Tất cả đơn thư đều được các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết hợp với lòng dân nên nhìn chung nhân dân chấp hành theo quy định của Nhà nước. Nhờ đó, trên địa bàn huyện không xảy ra điểm nóng. Tuy nhiên, sau khi được đền bù giải tỏa, một bộ phận nhân dân gặp khó khăn về việc làm, nhất là đối với người phải chuyển đổi nghề khi đến nơi ở mới, đời sống sau nhiều năm di dời trở nên chật vật hơn trước đây. Có khu tái định cư chưa được đầu tư đồng bộ, kịp thời về cơ sở hạ tầng nên các hộ dân bị giải tỏa chưa có đất tái định cư kịp thời theo quy định của Nhà nước, làm trở ngại đến công tác giải phóng mặt bằng.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy (khóa XVI) và của Hội đồng nhân dân huyện (khóa IX) về phát triển đô thị Ninh Hòa từ năm 2005 đến 2015, Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hòa cụ thể hóa bằng kế hoạch 5 năm (2005 - 2010) và kế hoạch hàng năm. Từ nhiều nguồn vốn như đầu tư của Trung ương, tỉnh, huyện, vốn của các doanh nghiệp và đóng góp của dân, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa - xã hội trên địa bàn huyện phát triển khá đồng bộ. Các công trình được bố trí đầu tư vừa có trọng điểm, vừa cân đối theo vùng, từ thị trấn đến nông thôn, từ miền biển đến đồng bằng, miền núi. Huyện tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng hiện có. Trong đó, ưu tiên cho các công trình điện, đường, trường, trạm… như: Nhựa hóa, bê tông hóa giao thông nông thôn; phủ điện những “vùng lõm”, xa trung tâm; kiên cố hóa trường học, xây dựng mới nhiều trường trung học cơ sở, 2 trường trung học phổ thông Trần Cao Vân và Tôn Đức Thắng; tu sửa và xây mới lại trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, xây mới Bệnh viện huyện và Bệnh viện Đa khoa khu vực Ninh Diêm; tu sửa chợ cũ Ninh Hòa, các chợ nông thôn. Hệ thống cấp nước sạch cho thị trấn và các khu vực nông thôn được nâng cấp mở rộng. Đến năm 2010, thị trấn có hệ thống cấp nước tập trung do nhà máy nước cung cấp 4.000m3/ngày đêm; các xã có 11 hệ thống cấp nước tập trung và nhiều hệ thống nước nối mạng nhỏ cấp nước sinh hoạt cho dân. Tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh trên 85%… Cùng với nâng cấp những công trình cũ, huyện dồn sức đầu tư xây mới và hoàn thành đưa vào sử dụng nhiều công trình, trọng tâm là trên địa bàn thị trấn. Công trình kè bảo vệ hai bờ sông Dinh dài trên 4,3 km được chia làm 3 giai đoạn để triển khai thực hiện: Năm 2006 hoàn thành giai đoạn 1, đoạn bờ phải sông Dinh từ cầu đường sắt (xã Ninh Đông) tới cầu Mới (xã Ninh Giang); năm 2007 hoàn thành giai đoạn 2, đoạn bờ trái từ cầu đường sắt tới cầu Mới; năm 2009, hoàn thành giai đoạn 3, đoạn gồm cả 2 bờ sông thuộc 2 xã Ninh Giang và Ninh Phú. Tuy nhiên, để bảo đảm sự bền vững của công trình, năm 2008, huyện lập thêm và được tỉnh phê duyệt dự án “Đê kè chống xói lở hai bờ sông Dinh”. Năm 2010, dự án tiến hành đền bù giải tỏa. Sau khi hoàn thành, dự án sẽ góp phần tăng cường khả năng chống xói lở bờ sông mỗi khi lũ lụt về và tạo mỹ quan cho huyện. Năm 2007, đường Trần Quốc Tuấn (về sau đổi thành đường Nguyễn Thị Ngọc Oanh), đường K10 (về sau đổi thành đường Đinh Tiên Hoàng) hoàn thành, đưa vào sử dụng. Năm 2009, xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng khu dân cư thôn 1 và khu dân cư Bắc thị trấn Ninh Hòa. Sau 2 năm xây dựng, ngày 30/1/2010, cầu Dinh 2 được khánh thành. Cầu có chiều dài trên 103m, mặt cầu rộng 20m, lề bộ hành mỗi bên 2,5m.Cầu Dinh 2 nối giữa 2 đường Trần Quý Cáp - Nguyễn Trường Tộ và đi vào trung tâm thị trấn Ninh Hòa. Cầu Dinh 2 hoàn thành mở ra hướng quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông trong thị trấn, tạo tiền đề triển khai giai đoạn 1 xây dựng trục đường Bắc - Nam, thị trấn Ninh Hòa. Bên cạnh các công trình đã đưa vào sử dụng, đến năm 2010, một số công trình đang tiếp tục triển khai thi công như kết cấu hạ tầng khu dân cư đường Nguyễn Thị Ngọc Oanh, khu neo đậu tàu thuyền tránh bão tại thôn Bình Tây, xã Ninh Hải… Đặc biệt tuyến đường nối liền Ninh Phước với Ninh Vân (khởi công năm 2007), dài 11km, rộng 3,5m đang bước vào giai đoạn cuối cùng. Công trình sau khi hoàn thành sẽ chấm dứt sự cô lập về đường bộ đến xã Ninh Vân, góp phần mở ra hướng khai thác tiềm năng kinh tế, nhất là về du lịch, làm đổi thay một vùng nghèo khó thuộc địa danh lịch sử cách mạng.
Nhờ bố trí đầu tư hợp lý, tăng cường công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước, được nhân dân đồng tình ủng hộ nên hầu hết các công trình được nâng cấp và xây dựng mới triển khai thuận lợi, an toàn, bảo đảm tiến độ. Nhiều công trình ngay khi đưa vào sử dụng đã phát huy tốt hiệu quả. Hệ thống kết cấu hạ tầng tăng thêm năng lực, mở rộng thêm diện phục vụ đến các cơ sở sản xuất, khu dân cư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân với chất lượng dịch vụ cao hơn, điều kiện tiếp cận thuận lợi hơn. Diện mạo của huyện thay đổi nhanh chóng, ngày một văn minh, khang trang. Ngày 30/6/2009, Bộ Xây dựng ra Quyết định713/QĐ-BXD công nhậnthị trấn Ninh Hòa là đô thị loại IV; Ủy ban nhân tỉnh công nhận 3 xã là đô thị loại V, gồm Ninh Hà (tháng 6/2010), Ninh Diêm và Ninh Đa (tháng 9/2010).
Cùng với lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ quan tâm lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội, chăm lo nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Trước tác động nhiều chiều trong đời sống xã hội bởi sự bùng nổ thông tin trên các phương tiện thông tin hiện đại, nhất là mạng internet, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tăng cường các giải pháp định hướng thông tin trên các lĩnh vực thông tin, văn hóa, văn nghệ…, trọng tâm là nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Cuộc vận động này, trước năm 2006, ở cơ sở lập ra nhiều ban chỉ đạo nên chồng chéo nhau về số một số nhiệm vụ. Thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT/MTTW-BVHTT, ngày 23/6/2006 giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Trung ương và Bộ Văn hóa - Thông tin, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thống nhất các ban chỉ đạo như sau: Ở xã, thị trấn thống nhất ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và ban vận động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” thành một ban gọi là ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hosa”. Trưởng ban chỉ đạo là bí thư đảng ủy hoặc Phó Bí thư, chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn; đồng chí chủ tịch ủy ban mặt trận Tổ quốc làm Phó Trưởng ban thường trực. Ở khu dân cư (thôn, bản, tổ dân phố) thống nhất các ban vận động hiện gồm ban vận động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, ban vận động xây dựng nếp sống văn hóa, ban vận động xây dựng gia đình văn hóa... thành một ban gọi là ban vận động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” do ban công tác mặt trận trực tiếp chủ trì.Từ đó, mới thống nhất, không lẫn lộn tên gọi giữa cuộc vận động và phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gọi là phong trào; “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gọi là cuộc vận động. Việc thống nhất các đầu mối chỉ đạo nêu trên tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh các phong trào xây dựng đời sống văn hóa lên một bước mới, trọng tâm là xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, cơ quan, trường học văn hóa. Mục tiêu chung cơ bản là đoàn kết, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng; giữ gìn và xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, môi trường xanh, sạch, đẹp; sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật. Mặc dù trong việc bình chọn, xét và công nhận các danh hiệu đối với đơn vị, gia đình đạt tiêu chí về văn hóa còn nặng về thành tích, đánh giá có phần chủ quan, quá cao về chất lượng nhưng thực sự phong trào đã bắt rễ sâu vào cuộc sống, có sức sống lan tỏa đến mọi hoạt động xã hội, góp phần làm lành mạnh hóa đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân[25]. Trên cơ sở đó, từ năm 2007, theo hướng dẫn của tỉnh, huyện bắt đầu xây dựng phong trào xã văn hóa. 4 xã đầu tiên đăng ký là Ninh Hà, Ninh Sim, Ninh Xuân và Ninh Quang. Đến năm 2010, toàn huyện có 13 xã đăng ký phấn đấu trở thành xã văn hóa. Tuy nhiên, kết quả bước đầu đạt được còn nhiều hạn chế nhưng qua đó rút ra được nhiều kinh nghiệm để tổ chức phong trào xây dựng xã văn hóa gắn với tiêu chí xây dựng nông thôn mới trong những năm tiếp theo. Tăng cường công tác thông tin, huyện chỉ đạo tập trung nâng cấp 100% đài truyền thanh xã, được trang bị thiết bị FM đủ công suất phủ sóng đến các “vùng lõm” dân cư. Các đài đổi mới nội dung, tăng thời lượng thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là của địa phương. Năm 2010, hầu hết các hộ gia đình trong toàn huyện đều có ti vi. Nhờ đó, mọi thông tin định hướng thông qua sóng phát thanh và truyền hình đều đến với nhân dân. Tiếp tục phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa đã được xây dựng từ huyện đến cơ sở, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra khá đa dạng và phong phú trong nhiều không gian rộng hẹp và mức độ sôi nổi theo từng thời điểm khác nhau. Trong đó tâm điểm là ở Trung tâm Văn hóa huyện, Nhà Thiếu nhi, Nhà Truyền thống cách mạng, Sân vận động 16/7... Phong trào bao giờ cũng được đẩy lên cao trào vào dịp những ngày kỷ niệm lớn, ngày Tết cổ truyền, sự kiện chính trị quan trọng của quê hương, đất nước. Trên phạm vi toàn huyện, việc tổ chức các hội thi, hội diễn như liên hoan các làng văn hóa, hội diễn nghệ thuật quần chúng, hội thi thông tin cổ động, đại hội thể dục thể thao, tổ chức các giải thể thao cấp huyện, đón tiếp và giao lưu văn hóa với các đoàn nghệ thuật ngoài huyện… được duy trì thường xuyên với sự tham gia của hầu hết các xã, thị trấn. Một xu thế sinh hoạt văn hóa - thể thao lành mạnh, bổ ích được các cấp ủy, chính quyền khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi phát triển là sinh hoạt theo sở thích dưới hình thức câu lạc bộ. Trong nhiều loại hình câu lạc bộ, đáng chú ý là các câu lạc bộ văn học, nghệ thuật. Đến năm 2010, trên địa bàn huyện có trên 20 câu lạc bộ loại hình này hoạt động thường xuyên. Đây chính là nơi góp phần giữ gìn và phát huy vốn quý văn hóa dân tộc và “hồn quê” Ninh Hòa. Điển hình như Câu lạc bộ Đờn ca tài tử Quê hương; Câu lạc bộ Trăng quê, xã Ninh Phụng; Câu lạc bộ Dân ca, nhạc, cổ và thơ Trăng quê, xã Ninh Giang; Câu lạc bộ Hò bá trạo, xã Ninh Phước; Câu lạc bộ Thơ, thị trấn Ninh Hòa... Mỗi câu lạc bộ thu hút từ 15 - 20 người tham gia, trong đó có một số câu lạc bộ hình thành từ nhiều năm trước đây. Từ các câu lạc bộ, các hoạt động sưu tầm, sáng tác văn học - nghệ thuật ngày càng phong phú. Hầu hết nội dung trong các hội thi thông tin cổ động, hội diễn văn nghệ quần chúng và nhiều hội thi do các ngành tổ chức đều do lực lượng làm công tác văn hóa ở địa phương sáng tác, sưu tầm khôi phục vốn cổ truyền hoặc cải biên và dàn dựng thành những tác phẩm đáp ứng yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị. Nhiều tác phẩm được xuất bản thành các tập san với nhiều chủ đề, ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ… Trong đó có tập Bóng Quê xuất bản ra ngoài tỉnh được nhiều độc giả đón nhận. Ngoài ra, được sự hỗ trợ một phần kinh phí của ngân sách tỉnh, công tác sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn lịch sử cách mạng của xã, thị trấn được đẩy mạnh. Đến cuối năm 2010, có 3 đơn vị[26] đã xuất bản cuốn lịch sử đảng bộ giai đoạn từ 1930 - 2005; 7 xã khác đang trong quá trình biên soạn. Tất cả các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao… diễn ra với sự tham gia, ủng hộ của đông đảo nhân dân đều thể hiện tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, các ngành chức năng tăng cường công tác đấu tranh chống ảnh hưởng văn hóa phẩm độc hại; thường xuyên kiểm tra và xử lý nghiêm minh những trường hợp kinh doanh dịch vụ văn hóa, khách sạn, nhà hàng… vi phạm pháp luật, không để các tụ điểm mại dâm, ma túy, cờ bạc… tồn tại gây bức xúc dư luận xã hội. Nhờ đó, trong xu thế hội nhập và tác động nhiều chiều của kinh tế thị trường, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Ninh Hòa diễn ra lành mạnh, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương, dân tộc.
Hưởng ứng Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” do Bộ Giáo dục - Đào tạo phát động vào tháng 7/2006 (gọi tắt là cuộc vận động “hai không”), Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể tạo điều kiện cho ngành giáo dục triển khai thực hiện 2 nội dung trong năm học 2006 - 2007 là chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích. Sang năm học 2007 - 2008, cuộc vận động “hai không” thêm 2 nội dung là nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và ngồi nhầm lớp. Cuộc vận động góp phần làm thay đổi nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, tạo được sự chuyển biến tích cực, xây dựng được nề nếp dạy thật, học thật, thi thật và kết quả thật, được xã hội đồng tình, ủng hộ. Với quyết tâm nâng cao chất lượng thật của giáo dục, ngành chủ động đề ra nhiều biện pháp thực hiện. Trong đó, tập trung đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh, tăng cường kiểm tra chuyên môn; coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Những nơi có nhu cầu học thêm, nhà trường tổ chức và quản lý dạy thêm theo Quyết định 60/2008/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh. Đội ngũ giáo viên đề cao đạo đức nghề nghiệp, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy hiệu quả thiết bị trường học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, khắc phục tình trạng “dạy chay”.Đa số học sinh xác định được động cơ, thái độ học tập, tích cực, chủ động trong học tập. Các trường học gắn cuộc vận động “hai không” với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Kỷ cương nền nếp được củng cố; dân chủ cơ sở được phát huy; các phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, xây dựng nhà trường văn hóa, “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” được đẩy mạnh. Công tác xét hoàn thành chương trình tiểu học, xét tốt nghiệp trung học cơ sở[27], thi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc.
Cùng với sự đổi mới nghiêm túc trong công tác quản lý, dạy và học, cơ sở trường lớp cũng có bước phát triển mới. Trong giai đoạn 2006 - 2010, quy mô học sinh trên địa bàn huyện khá ổn định nhưng có sự biến đổi về cơ cấu học sinh các cấp học theo xu hướng giảm dần đối với tiểu học và trung học cơ sở, tăng dần đối với trung học phổ thông. Trước xu hướng đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tập trung các nguồn lực đầu tư kiên cố hóa trường học, xây thêm trường lớp phù hợp với sự biến đổi cơ cấu học sinh các cấp học, bảo đảm quy mô đúng theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đồng thời, bổ sung trang thiết bị trường học đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Đến 2010, huyện cơ bản hoàn thành kiên cố hóa trường học và nhà công vụ cho giáo viên. Hệ thống trường học cơ bản hoàn thiện, không còn trường phổ thông có nhiều cấp học, được phân bố cân đối trên địa bàn dân cư. Tất cả các xã, thị trấn đều có trường tiểu học, phần lớn có trường trung học cơ sở. Toàn huyện có 31 trường mẫu giáo, mầm non (trong đó 26 trường dân lập, tư thục) thu hút trên 99,8% số trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo; 33 trường tiểu học, 22.500 học sinh; 26 trường trung học cơ sở, 17.500 học sinh; 5 trường trung học phổ thông, 7.7000 học sinh. Đội ngũ giáo viên các trường phổ thông trên 2.240 giáo viên, hầu hết đạt chuẩn hóa, trong đó giáo viên trung học phổ thông là 390. Trung tâm Giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp huyện được củng cố, hàng năm duy trì 2 khối học: Khối trung học cơ sở dành cho con em dân tộc thiểu số học nội trú, số lượng học viên từ 80 - 100 em; khối trung học phổ thông có số lượng học viên từ 550 - 600 em. Về giáo dục nghề nghiệp, ngày 1/3/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 217/QĐ-UBND chuyển Trường Dạy nghề Ninh Hòa thành Trường Trung cấp nghề Ninh Hòa. Là loại hình công lập,Trường có 18 phòng học lý thuyết, 2 xưởng thực hành với 90 giảng viên. Mỗi năm đào tạo trên 1.500 học viên, trong đó trình độ trung cấp nghề đạt khoảng 37,5%, còn lại là sơ cấp nghề. Cơ cấu các nhóm nghề đào tạo gồm khoảng 28% thuộc nhóm ngành xây dựng, công nghiệp; 35% thuộc nhóm nông - lâm - thủy sản và 37% thuộc nhóm dịch vụ, du lịch. Việc thành lập trường trung cấp nghề tác động mạnh đến hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học đối với Ninh Hòa. Tiếp tục xã hội hóa giáo dục, công tác khuyến học, khuyến tài được các cấp ủy quan tâm chỉ đạo. Hầu hết các cơ sở hội khuyến học và nhiều dòng tộc xây dựng quỹ khuyến học, khuyến khích, động viên học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó.
Với sự quan tâm chăm lo của toàn xã hội, chất lượng giáo dục có sự chuyển biến tiến bộ. Năm 2010, huy động 99,7% trẻ 6 tuổi vào lớp một; gần 100% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6; 85% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào lớp 10 trung học phổ thông, bổ túc văn hóa và các lớp dạy nghề; 97% học sinh đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông; huyện tiếp tục giữ vững đơn vị đạt chuẩn quốc gia về chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn một số vấn đề cần chú ý khắc phục: Số trường đạt chuẩn quốc gia còn thấp[28]; chất lượng giáo dục còn phân hóa lớn giữa các vùng trong huyện; chương trình phổ cập trung học phổ thông theo gặp nhiều khó khăn do tình trạng học viên bỏ học để đi lao động chưa giảm.
Ngày 17/1/2006, Ban Thường vụ Huyện ủy Ninh Hòa đề ra Chương trình hành động số 03-CTr/HU thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW, ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. 5 năm thực hiện chương trình (2006 - 2010) là thời gian hệ thống y tế công lập huyện được đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ từ tuyến huyện đến tuyến xã. Từ các nguồn vốn Trung ương, tỉnh và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Bệnh viện Đa khoa Ninh Hòa được xây dựng mới và đưa vào sử dụng (quý II/2007), quy mô 200 giường bệnh. Ngày 24/12/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 3165/QĐ-UBND thành lập và xây mới Bệnh viện Đa khoa khu vực Ninh Diêm có chức năng, nhiệm vụ của một bệnh viện huyện. Năm 2008, Phòng khám Đa khoa khu vực Ninh Sim cũng được đầu tư nâng cấp lên quy mô 20 giường bệnh. Tranh thủ các nguồn vốn của tỉnh, vốn tài trợ của tổ chức nước ngoài Atlantic Philanthropies, huyện huy động thêm vốn đầu tư xây dựng mới 24 và nâng cấp 3 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Đồng thời với đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, các cơ sở y tế được tăng cường nhiều vật tư, trang thiết bị kỹ thuật y tế. Tuyến huyện trang bị thêm một số thiết bị hiện đại như máy CT.Scan, máy nội soi chẩn đoán, máy phẫu thuật nội soi, máy siêu âm tim, máy giúp thở, máy xét nghiệm sinh hóa… Ở tuyến xã, tất cả trạm y tế đều trang bị đủ các dụng cụ y tế cơ bản, thiết yếu. Một số trạm có thiết bị khá hiện đại như máy siêu âm, máy xét nghiệm sinh hóa bán tự động, máy huyết học tự động, điện tâm đồ… Có trạm y tế được trang bị các dụng cụ chuyên khoa mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt… Đội ngũ cán bộ y tế được quan tâm bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn. Hệ thống công lập có 230 cán bộ y tế, trong đó 58 bác sĩ; số bác sĩ có trình độ thạc sĩ, chuyên khoa I và II chiếm trên 70% tổng số bác sỹ. Ngoài ra còn có gần 250 nhân viên y tế thôn bản tham gia chăm sóc sức khỏe ban đầu, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại thôn, bản. Hàng năm, tuyến tỉnh cử cán bộ chuyên môn về hỗ trợ và chuyển giao nhiều kỹ thuật cho bệnh viện tuyến huyện; tuyến huyện luân phiên bác sĩ về trạm y tế để hỗ trợ chuyên môn, tham gia khám, điều trị và chuyển giao nhiều kỹ thuật mới, đào tạo lại cán bộ y tế cấp xã và toàn bộ nhân viên y tế thôn bản... Đến năm 2010, tất cả các trạm y tế đều đủ điều kiện khám chữa bệnhbảo hiểm y tếban đầu; 24/27 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã. Cùng với hệ thống y tế công lập còn có nhiều phòng khám bệnh, phòng chẩn trị đông y và nhà thuốc tư nhân tạo nên mạng lưới y tế phủ kín các địa bàn dân cư trong huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận dễ dàng với nhiều loại dịch vụ y tế.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về y tế, đầu năm 2006, Phòng Y tế huyện được thành lập. Ngoài chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tham mưu, Phòng được giao nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân huyện trực tiếp quản lý các trạm y tế xã, thị trấn. Trung tâm Y tế huyện lúc này chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, gồm các đơn vị trực thuộc: Bệnh viện Đa khoa Ninh Hòa; 2 phòng khám đa khoa khu vực Ninh Diêm, Ninh Sim; ĐộiY tế dự phòng; Đội Bảo vệ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên, qua thực tiễn, việc giao cho Phòng Y tế nhiệm vụ quản lý các trạm y tế xã, thị trấn có nhiều bất cập. Vì vậy, cuối năm 2009 lại chuyển các trạm về trực thuộc Trung tâm Y tế huyện như trước đây. Quán triệt Chỉ thị số 34-CT/TU, ngày 8/9/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIV) về tăng cường lãnh đạo công tác bảo hiểm y tế, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm y tế đối với từng đối tượng. Từ năm 2006, huyện xóa bỏ quỹ hỗ trợ khám chữa bệnh và chuyển sang hình thức mua bảo hiểm y tế cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, người già từ 80 tuổi trở lên, người khuyết tật có chế độ bảo trợ xã hội... Ngoài các đối tượng bảo hiểm y tế bắt buộc, số người mua bảo hiểm y tế tự nguyện tăng dần lên. Tuy nhiên tỷ lệ đối tượng tham gia mua bảo hiểm y tế vẫn còn thấp, năm 2008 mới đạt 24% so với số dân. Sau khi Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực thi hành (tháng 7/2009), huyện được phân cấp thu và in thẻ bảo hiểm, các cấp ủy tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động… nên việc khai thác, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế có bước tiến rõ rệt. Số người tham gia bảo hiểm tăng mạnh, năm 2010 đạt tỷ lệ 52%, trong đó bảo hiểm tự nguyện tăng 5,6 lần so với 2008.
Với hệ thống y tế khá hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ y tế, chất lượng khám, chữa bệnh và các dịch vụ y tế được cải thiện đáng kể. Nhiều ca bệnh tật trước đây phải chuyển lên tuyến trên, nay tuyến dưới đã điều trị có hiệu quả. Hoạt động y tế dự phòng, các chương trình mục tiêu quốc gia, vệ sinh an toàn thực phẩm, chương trình phòng chống HIV/AIDS… được triển khai tích cực. Huyện hoàn thành mục tiêu thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ bệnh uốn ván ở trẻ sơ sinh. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 10,5%. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả tốt, tỷ suất sinh giảm liên tục, đến năm 2010 tổng tỷ suất sinh là 2 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, đạt mức sinh thay thế. Tỷ lệ tăng dân số giảm xuống 0,89%. Bên cạnh những chuyển biến tiến bộ đó, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn. Bệnh viện huyện luôn trong tình trạng quá tải. Đầu tư cho hệ dự phòng còn nhiều bất cập cộng với ý thức vệ sinh phòng bệnh, tự bảo vệ sức khỏe của nhân dân chưa cao nên một số dịch bệnh dễ bùng phát, nhất là dịch sốt xuất huyết năm nào cũng xảy ra. Đội ngũ bác sĩ, dược sĩ còn thiếu nhiều. Năm 2010, bình quân 2,5 bác sĩ/1vạn dân, cả huyện chỉ có 1 đại học dược. Công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực dược, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường... chưa được kiểm soát chặt chẽ; y đức của số cán bộ y tế chưa cao.
Trong giai đoạn 2005 - 2010, huyện tạo được môi trường đầu tư thuận lợi nên thu hút được đầu tư của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đến năm 2010, trên địa bàn huyện có hơn 250 doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Khai thác lợi thế này, Ban Thường vụ chỉ đạo giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động. Giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác đào tạo nghề, gắn đào tạo với nhu cầu lao động. Hàng năm, từ 4.000 - 5.000 lao động được đào tạo nghề, trong đó tại Trường trung cấp Nghề Ninh Hòa 1.500 lao động, số còn lại vừa học vừa làm tại các doanh nghiệp trong và ngoài huyện. Sau khi đào tạo, phần đông người lao động đều tìm được việc làm, trong đó một số lượng lớn tại Hyundai Vinashin. Mở rộng cơ hội cho các đối tượng lao động tìm việc làm phù hợp, huyện phối hợp với Trung tâm Giới thiệu việc làm Khánh Hòa tổ chức các phiên giao dịch việc làm. Phiên giao dịch đầu tiên vào năm 2009, có 15 doanh nghiệp tham gia, thu hút khoảng 1.000 người có nhu cầu việc làm. Tuy nhiên, số lao động đạt yêu cầu của các doanh nghiệp thấp, qua phiên giao dịch có 120 lao động được tuyển dụng trực tiếp. Ngoài ra, huyện còn triển khai công tác xuất khẩu lao động, song số lao động có nhu cầu đi lao động nước ngoài rất ít. Qua nhiều năm tuyển dụng, toàn huyện có trên 100 người đi lao động ở nước ngoài. Đồng thời với những giải pháp trên, huyện triển khai hàng chục dự án giải quyết việc làm lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội. Chỉ riêng cho vay hộ nghèo tạo thêm việc làm, năm 2010, Ngân hàng Chính sách Ninh Hòa cho trên 7.500 hộ vay với tổng dư nợ gần 47 tỷ đồng. Đối với người có công, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể quan tâm chăm lo thực hiện tốt chính sách, giải quyết kịp thời công tác bảo trợ xã hội[29] và có nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Thông qua các chương trình xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, xóa nhà tạm bợ cho đối tượng nghèo… các đối tượng chính sách và hầu hết các hộ nghèo mà nhà bị dột nát đều được xây mới hoặc tu sửa. Trong hơn 5 năm, toàn huyện xây mới trên 1.750 căn hộ và sửa chữa hàng trăm ngôi nhà cho người nghèo, chủ yếu là vốn huy động trong cộng đồng, chiếm trên 70% tổng số vốn.. Nhờ những nỗ lực đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 14,9% (năm 2006) xuống còn 0,9 % (năm 2010)[30]. Tuy nhiên, số hộ thoát nghèo chưa thực sự bền vững. Khả năng tái nghèo vẫn là một thách thức lớn trong công tác giảm nghèo của huyện.
Trong xu thế phát triển mạnh của huyện, nhất là quá trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh, Đảng bộ tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác quốc phòng - an ninh. Quán triệt Nghị quyết số 28-NQ/TW,ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới, Ban Thường vụ Huyện ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm là hướng về cơ sở, xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân; xây dựng xã, thị trấn, cơ quan vững mạnh về quốc phòng - an ninh, bảo đảm sự ổn định an ninh, trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đảng bộ coi trọng công tác giáo dục kiến thức quốc phòng toàn dân gắn với giáo dục kiến thức bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đối tượng học tập mở rộng đến mọi cán bộ, đảng viên, học sinh, đoàn viên, hội viên các tổ chức đoàn thể, mặt trận… Bên cạnh hình thức lớp học, các cấp, các ngành phối hợp tổ chức nhiều hội thi tìm hiểu kiến thức tại cơ sở, đưa vào chương trình bồi dưỡng của Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện, chương trình ngoại khóa của các trường trung học phổ thông... Quán triệt quan điểm ở đâu có dân, có tổ chức đảng, ở đó có lực lượng dân quân tự vệ. Trên cơ sở rà soát lại lực lượng dân quân tự vệ hiện có, các xã, thị trấn củng cố, phát triển luân phiên, biên chế đủ số lượng của các binh chủng và được huấn luyện hàng năm, bảo đảm chất lượng. Định kỳ, cấp huyện, cấp xã (luân phiên) tổ chức diễn tập, vận hành theo “cơ chế 02”; điều chỉnh bổ sung các kế hoạch, phương án tác chiến, phòng thủ. Công tác đăng ký, quản lý, phúc tra, đề bạt, bổ nhiệm lực lượng dự bị động viên từng bước đi vào nề nếp. Nhờ những cố gắng nêu trên, lực lượng vũ trang quần chúng ngày càng được củng cố cả về số lượng và chất lượng; 100% xã, thị trấn đã thành lập chi bộ quân sự; tỷ lệ đảng viên trong dân quân, tự vệ đạt 16,9%. Hàng năm huyện đều hoàn thành tốt công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ.
Ngày 10/7/2006, Huyện ủy ban hành Chương trình hành động số 06-CTr/HU, thực hiện Nghị quyết số 40-NQ/TW, ngày 8/11/2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác công an trong tình hình mới. Chương trình yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền bám sát nhiệm vụ trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để chỉ đạo công tác công an; quan tâm xây dựng lực lượng công an nhân dân; chủ động ngăn chặn các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Tháng 9/2006, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo Công an huyện triển khai cuộc vận động “Xây dựng lực lượng công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ” theo tinh thần Thông tri số 05-TT/TU, ngày 11/8/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Trong lực lượng công an tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị gắn với học tập tấm gương tư tưởng, đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh, 6 điều Bác Hồ dạy công an nhân dân… Các cấp ủy chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến phê bình của nhân dân đối với lực lượng công an. Qua đó, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã khắc phục khuyết điểm; một số trường hợp vi phạm kỷ luật được xử lý nghiêm minh. Sau khi Pháp lệnh Công an xã năm 2008 ra đời, đội ngũ công an xã được củng cố, kiện toàn. Trưởng, phó công an xã do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ra quyết định bổ nhiệm; công an viên các thôn do chủ tịch ủy ban nhân dân xã ra quyết định công nhận. Việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công an xã chuyển theo hướng chuẩn hóa. Năm 2010, phần lớn đồng chí trưởng công an có trình độ trung cấp lý luận chính trị, trung học nghiệp vụ trưởng công an. Cùng với nâng cao chất lượng lực lượng công an, các cấp ủy, chính quyền thường xuyên củng cố, xây dựng hội đồng an ninh trật tự xã, thị trấn, các tổ an ninh nhân dân, thanh niên xung kích, ban bảo vệ dân phố, các tổ chức quần chúng tham gia công tác đảm bảo an ninh trật tự với tổng số thành viên trên 31.000 người. Đây là một trong lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở địa phương.
Với lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện gồm quân sự, công an, biên phòng, các lực lượng vũ trang quần chúng (dân quân tự vệ), vũ trang bán chuyên trách (công an xã) và mạng lưới tổ chức quần chúng đã tạo nên thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân khá vững chắc. Các lực lượng phối hợp chặt chẽ, duy trì thường xuyên chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình, giải quyết tương đối tốt các vụ việc xảy ra. Năm 2008 xảy ra một số vụ công nhân đình công, lãn công, đập phá tài sản tại Nhà máy Hyundai Vinashin; vụ một số hộ dân xã Ninh Phước ngăn cản không cho chủ đầu tư triển khai thực hiện dự án Kho Xăng dầu ngoại quan tại đảo Mỹ Giang… Huyện đã tập trung giải quyết kịp thời, nhanh chóng ổn định tình hình, không để tạo thành “điểm nóng”. Các mục tiêu quan trọng, địa bàn trọng điểm đều được bảo vệ an toàn. Các cơ quan tư pháp có sự phối hợp, thực hiện tốt hơn công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, góp phần làm giảm các vụ phạm pháp hình sự, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bình quân mỗi năm xảy ra gần 60 vụ, thấp hơn nhiều so với bình quân năm trong các giai đoạn trước. Tuy nhiên, lại nổi lên tình hình tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP, ngày 29/6/2007 về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông, huyện tổ chức tháo dỡ cây xanh và vật kiến trúc, lập lại trật tự hành lang đường bộ, đường sắt; thực hiện nghiêm túc quy định đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Từ ngày 15/9/2007, khi đi trên các tuyến quốc lộ và từ ngày 15/12/2007 khi đi trên tất cả các tuyến đường, người đi mô tô, xe máy đều bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm. Trên 1.300 chủ xe công nông, xe cơ giới và thô sơ 3 bánh, xe lôi máy… thuộc diện phải thay thế phương tiện này được hỗ trợ kinh phí theo quy định. Mặc dù nhiều giải pháp được thực hiện đồng bộ nhưng các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra vẫn không giảm, bình quân mỗi năm 57 vụ, làm chết 62 người, bị thương 17 người.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Ban Thường vụ Huyện ủy đặc biệt coi trọng các biệp pháp đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; công khai thu, chi ngân sách, quy hoạch các dự án đầu tư phát triển kinh tế - văn hóa; rà soát, bố trí thay thế kịp thời những cán bộ giảm sút uy tín hoặc có dấu hiệu tiêu cực, không để xảy ra vi phạm đến mức phải xử lý. Từ năm 2006, huyện giao khoán kinh phí quản lý và biên chế cho các cơ quan hành chính thực hiện theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện trả lương qua tài khoản đối với cơ quan hành chính, sự nghiệp. Năm 2007, lần đầu tiên thực hiện kê khai tài sản theo Nghị định số 37/2007/NĐ-CP, ngày 9/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập, có 719 cán bộ thuộc diện kê khai ở 139/139 đơn vị đã kê khai theo quy định. Huyện và các cơ quan, đơn vị, xã, thị trấn thực hiện công khai sử dụng ngân sách nhà nước, về mua sắm, sử dụng tài sản công; công khai các khoản ủng hộ, đóng góp của nhân dân; thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ… Đồng thời, mỗi năm huyện tiến hành hàng chục cuộc thanh tra. Qua đó, đã kịp thời phát hiện và chấn chỉnh, xử lý một số sai phạm, chủ yếu là xử lý hành chính, ngăn chặn kịp thời nguy cơ xảy ra tham nhũng. Trong 5 năm (2006 - 2010), chỉ phát hiện 2 vụ chiếm đoạt tiền của dân trả vốn vay cho Ngân hàng Chính sách huyện phải xử lý hình sự. Việc giải quyết đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân được Đảng bộ hết sức quan tâm lãnh đạo. Các cơ quan từ huyện đến xã tiếp nhận trên 2.000 đơn thư khiếu nại của dân, phần lớn liên quan tới đền bù, giải tỏa, tái định cư, tranh chấp đất đai. Các cấp đã giải quyết trên 95% đơn thư thuộc thẩm quyền, không để vụ việc tồn đọng quá hạn. Trong đó, tất cả các trường hợp khiếu nại lần đầu đối với cấp huyện đều được Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đối thoại trực tiếp. Kết quả đó thể hiện các cấp, các ngành chấp hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005 (sửa đổi), góp phần ổn định tình hình mọi mặt trong huyện.
Cụ thể hóa phương hướng, mục tiêu công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16 đề ra, Hội nghị Huyện ủy lần thứ 4 (khóa XVI), ngày 24/4/2006 xác định những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp lớn cần thực hiện xuyên suốt cả nhiệm kỳ 2005 - 2010. Về công tác chính trị, tư tưởng, Đảng bộ coi trọng đổi mới phương thức công tác, trước hết là phương pháp học tập quán triệt, triển khai thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng gắn chặt, sát với tình hình thực tiễn của địa phương; đổi mới phong cách làm việc của cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở theo phương châm “huyện sát thôn, xã sát hộ dân”. Tất cả các đồng chí Huyện ủy viên; thành viên Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí trưởng, phó các phòng ban Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể cấp huyện đều được phân công phụ trách theo dõi địa bàn cơ sở. Để phát huy tốt vai trò của hệ thống tuyên giáo, các ban tuyên giáo xã, thị trấn tiếp tục được củng cố, hoàn thiện về tổ chức và hoạt động. Thời gian này có điều kiện thuận lợi là Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XV), sau khi đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm việc xây dựng ban tuyên giáo xã ở Ninh Hòa đã ban hành Thông báo số 14-TB/TU, ngày 10/3/2006 chính thức cho chủ trương thành lập ban tuyên giáo xã, phường trong toàn tỉnh. Ngày 22/5/2006 Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Ban Tổ chức Tỉnh ủy phối hợp ban hành Hướng dẫn liên ban số 02-HD/LBTC-TG về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ban Tuyên giáo cơ sở. Trên cơ sở đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo nhanh chóng thành lập ban tuyên giáo ở tất cả các xã còn lại. Đến cuối năm 2006, 100% cấp ủy cơ sở xã, thị trấn đã ban hành quy chế hoạt động của ban tuyên giáo. Ban Tuyên giáo Huyện ủy và Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ ban tuyên giáo cơ sở. Với hệ thống tổ chức ban tuyên giáo cấp ủy rộng khắp, công tác tư tưởng của Đảng bộ có nhiều thuận lợi hơn. Việc tổ chức quán triệt nghị quyết của Đảng có bước đổi mới về tổ chức lớp học, cách thức truyền đạt nội dung nghị quyết phù hợp với từng loại đối tượng, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng đơn vị. Nội dung truyền đạt không dàn trải mà theo hướng tập trung nghiên cứu, học tập những vấn đề mới, cốt lõi của nghị quyết, gắn với chương trình hành động của từng cấp và có sự liên hệ thực tiễn ở địa phương, đơn vị. Việc xây dựng chương trình hành động cũng được đổi mới, không đề ra đầy đủ mọi nội dung của nghị quyết mà chọn lọc, vận dụng nghị quyết để tập trung giải quyết một số vấn đề trọng tâm, cấp bách, thiết thực của địa phương, đơn vị. Thông qua đổi mới phương thức công tác tư tưởng, những diễn biến về tư tưởng, tâm trạng và dư luận xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc trong nhân dân được các cấp ủy, chính quyền phát hiện, dự báo và xử lý kịp thời và có hiệu quả hơn.
Điểm nổi bật trong công tác tư tưởng giai đoạn này là toàn Đảng bộ tập trung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị (khóa X). Đây là cuộc vận động sâu rộng trong Đảng và toàn xã hội nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tháng 3/2007, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 21-KH/HU thực hiện cuộc vận động; thành lập Ban Chỉ đạo cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do đồng chí Nguyễn Thạch Ngọc, Bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban. Trong quá trình thực hiện, cuộc vận động được gắn liền với triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị hàng năm; gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Mỗi năm học tập một số chủ đề tư tưởng và tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Trung ương quy định. Đối tượng học tập gồm tất cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong 4 năm thực hiện, các cấp ủy đảng, mặt trận, đoàn thể tổ chức hàng trăm lớp học cho hàng chục ngàn lượt người. Sau khi học tập, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức tự liên hệ, kiểm điểm cá nhân và đăng ký phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, khắc phục khuyết điểm. Các cấp ủy, cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để phấn đấu, rèn luyện thường xuyên phù hợp với từng cơ quan, đơn vị; xây dựng chương trình hành động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; xử lý các sai phạm được phát hiện; tổ chức cho quần chúng nơi công tác góp ý cho cán bộ, đảng viên... Để tạo sự lan tỏa trong xã hội, theo sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tháng 7/2007, Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở 2 cấp cơ sở và huyện. Hội thi đã thu hút nhiều đảng viên, giáo viên, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, đoàn viên thanh niên, phụ nữ… tham gia[31]. Qua triển khai cuộc vận động, các chi, đảng bộ, cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức đều có sự chuyển biến tiến bộ nhất định: Tinh thần trách nhiệm nâng lên, ý thức tổ chức kỷ luật và thái độ phục vụ nhân dân tốt hơn, tình trạng đi muộn, về sớm, làm việc riêng trong giờ hành chính được khắc phục đáng kể…
Sự nghiệp đổi mới diễn ra trên cả nước, cả tỉnh và huyện đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần củng cố và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong những năm 2005 - 2010 nổi lên một số vấn đề bức xúc với nhiều thông tin, dư luận xã hội trái chiều. Trong nước, có một số vấn đề nhạy cảm, phức tạp như về chủ quyền quốc gia qua phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam - Trung Quốc; việc Trung Quốc tranh chấp chủ quyền biển đảo; về dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên; về sai phạm nghiêm trọng ở Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Vinashin; tình hình tham nhũng, tiêu cực diễn biến phức tạp… Các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, nổi lên nhiều vụ việc như vụ án Lê Công Định cầm đầu các phần tử cơ hội chống phá Đảng và chế độ, các vụ gây rối trật tự công cộng liên quan đến tôn giáo, các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Trên địa bàn tỉnh xảy ra vụ án dự án Rusalka (Nha Trang); tình hình tranh chấp, khiếu kiện đất đai trở thành những điểm nóng dai dẳng như ở khu vực Sông Lô, “23 lô vườn dừa” Phước Đồng, khu đô thị mới Phước Long, Đất Lành (Nha Trang)… Những vấn đề nêu trên tác động tiêu cực đến tình cảm, tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện với nhiều nỗi băn khoăn, lo lắng, bức xúc, thậm chí có sự bất bình. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, đặc biệt là công tác tuyên truyền miệng theo tinh thần Chỉ thị số 17-CT/TW của Ban Bí Thư Trung ương (khóa X). Ngày 25/11/2005, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Quyết định số 130-QĐ/HU thành lập đội ngũ báo cáo viên Huyện ủy gồm 16 đồng chí. Các cấp ủy cơ sở thành lập đội ngũ báo cáo viên, tổng số 190 đồng chí. Ngoài đội ngũ báo cáo viên của Đảng, các ngành, mặt trận, đoàn thể… còn thành lập đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của ngành mình. Tất cả các lực lượng đó tạo nên binh chủng tuyên truyền miệng phủ đều, rộng khắp đến mọi địa bàn dân cư. Thông qua hình thức chủ yếu là tổ chức hội nghị thông tin thời sự, chính sách, học tập nghị quyết của Đảng, lồng ghép trong các cuộc hội nghị của các cấp các ngành, sinh hoạt chi bộ, cơ quan, đoàn thể... đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đã cung cấp thông tin chính thống, định hướng chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời sự quan trọng trong huyện, trong tỉnh, trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, từ năm 2006, Ban Thường vụ Huyện ủy cho biên tập, xuất bản và phát hành hàng quý Bản tin Ninh Hòa phục vụ sinh hoạt thôn, tổ dân phố. Hoạt động tích cực của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đã góp phần tạo ra sự thống nhất tư tưởng trong Đảng bộ và sự đồng thuận trong nhân dân.
Ngày 25/4/2007, Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 12-CTr/HU đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, công chức giai đoạn 2006 - 2010 và đào tạo, xây dựng nguồn cán bộ sau 2010. Mục tiêu chương trình là đến năm 2010, đội ngũ cán bộ toàn huyện phải đạt chuẩn hóa theo quy định. Đối với cấp huyện: 100% cán bộ lãnh đạo (bao gồm các đồng chí trong Thường trực Huyện ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện) có trình độ lý luận chính trị cao cấp, trình độ chuyên môn từ đại học trở lên; 100% trưởng, phó phòng các cơ quan hành chính, thủ trưởng đơn vị sự nghiệp và tương đương, hiệu trưởng trường học, cán bộ kế cận, dự nguồn các chức danh lãnh đạo cấp phòng trở lên có trình độ trung cấp lý luận chính trị, trình độ chuyên môn từ đại học trở lên; 100% cán bộ, công chức, viên chức đạt chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, 50% có trình độ trung cấp lý luận chính trị. Đối với cấp xã: 100% cán bộ chuyên trách giữ các chức danh của Đảng, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tốt nghiệp trung học phổ thông, có trình độ trung cấp lý luận chính trị, trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên; tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ trung cấp nghiệp vụ trở lên đối với miền núi là 70%, đồng bằng là 80%, thị trấn là 95%.
Đặc điểm nổi bật của công tác cán bộ trong giai đoạn này là Ban Thường vụ Huyện ủy và cấp ủy cơ sở coi trọng tất cả các khâu, từ đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển bố trí, sắp xếp sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và thực hiện chính sách cán bộ... Đội ngũ cán bộ được bồi dưỡng, đào tạo không những có số lượng lớn mà còn khá đồng bộ, đồng đều ở cả cấp huyện, cấp cơ sở; nâng cao cả trình độ lý luận chính trị lẫn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý. Kết quả 5 năm (2005 - 2010), toàn huyện đã cử đi đào tạo 55 đồng chí học cao cấp, cử nhân chính trị và đại học chuyên ngành xây dựng Đảng, 42 cử nhân hành chính; gần 400 đồng chí học trung cấp chính trị, trung cấp hành chính, trung cấp chính trị - hành chính và thanh phụ vận. Ngoài ra, theo phương thức tự đi đào tạo, trên 200 đồng chí theo học các lớp đại học, đại học văn bằng 2 tại Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh - Cơ sở Ninh Hòa và các cơ sở đào tạo khác. Đến cuối năm 2010, trình độ lý luận chính trị, chuyên môn của đội ngũ cán bộ được nâng lên rõ rệt[32]. Riêng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, 75,6% có trình độ cao cấp lý luận; 89% có trình độ đại học chuyên môn. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, 88,3% có trình độ trung, cao cấp lý luận; 86,3% có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên, trong đó đại học chiếm 38,3%. Nhờ trình độ cán bộ được nâng lên đồng đều và toàn diện, lại được thường xuyên giáo dục rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh nên đội ngũ cán bộ trong huyện cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nòng cốt được nâng lên chính là tạo điều kiện thuận lợi để củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh. Hầu hết tổ chức cơ sở đảng thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị. Năm 2010, Đảng bộ có 80 tổ chức cơ sở đảng, gồm 47 chi bộ và 33 đảng bộ, trong đó có 27 đảng bộ xã, thị trấn. 100% thôn, tổ dân phố có chi bộ lãnh đạo, không còn chi bộ ghép liên thôn. Qua phân loại tổ chức cơ sở đảng, 81,3% đạt trong sạch vững mạnh; 15% hoàn thành tốt nhiệm vụ; 3,7% hoàn thành nhiệm vụ; không còn cơ sở đảng yếu kém. Trong nhiệm kỳ, toàn Đảng bộ kết nạp trên 1.120 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên lên 3.667. Phân tích chất lượng đảng viên có 13,6% đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 71,2% đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ; 14,6% đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ; 0,6% vi phạm tư cách đảng viên.
Về công tác kiểm tra, Điều lệ Đảng (Đại hội X) quy định bổ sung thêm nhiệm vụ giám sát cho cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp ngoài các nhiệm vụ kiểm tra như trước đây. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007 về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Huyện ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu là: Kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng; kiểm tra, giám sát chủ động ngăn ngừa tổ chức đảng và đảng viên vi phạm, không để vi phạm nhẹ thành vi phạm nặng, vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người; kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Tiếp tục đổi mới phương thức kiểm tra, ngày 16/11/2009, Huyện ủy ban hành Quy chế số 10-QC/HU phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy với các ban xây dựng Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện và các ngành trong khối nội chính huyện trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Định kỳ mỗi quý một lần, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy làm việc với các cơ quan phối hợp báo cáo những vấn đề liên quan đến tổ chức đảng, đảng viên thuộc diện cấp ủy quản lý bị tố cáo, khiếu nại, có dấu hiệu vi phạm kỷ luật của đảng, xem xét giải quyết những yêu cầu kiến nghị có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng bộ. Từ khi có quy chế trên, công tác kiểm tra, giám sát của Huyện ủy sâu sát hơn, chặt chẽ, có sức mạnh và hiệu quả hơn. Trong nhiệm kỳ này, số lượng các cuộc kiểm tra theo chương trình, kế hoạch hàng năm tăng nhanh, có trên 110 lượt tổ chức cơ sở đảng được kiểm tra. Nội dung kiểm tra phần lớn là kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cơ sở thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động về phát triển kinh tế - xã hội; về chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương và chế độ trách nhiệm của cán bộ đảng viên, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ phục vụ nhân dân; về công tác bồi thường hỗ trợ tái định cư, giải quyết tranh chấp khiếu nại tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai… Đối với công tác giám sát, Ban Thường vụ Huyện ủy tiến hành giám sát chuyên đề 6 cuộc ở 25 tổ chức cơ sở đảng. Nội dung giám sát chủ yếu là về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng, về quản lý, sử dụng đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, về chương trình xóa nhà tranh tre dột nát… Qua các cuộc kiểm tra, giám sát, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã kịp thời bổ sung những giải pháp phù hợp với thực tế để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội; giải quyết tốt một số vấn đề có tính nhạy cảm như đền bù, giải tỏa, tái định cư, quy hoạch đất giao cho các dự án…; uốn nắn kịp thời những sai phạm từ khi mới manh nha, làm hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra những vụ việc tiêu cực. Các vụ việc nổi cộm được chỉ đạo xử lý nghiêm minh, góp phần giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Trong nhiệm kỳ, trong toàn Đảng bộ, đã xử lý kỷ luật 63 đảng viên, trong đó khiển trách 27, cảnh cáo 19, cách chức 5, khai trừ 12 đảng viên. Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới (1986), đây là nhiệm kỳ có số lượng đảng viên bị kỷ luật thấp nhất và không có tổ chức đảng bị kỷ luật.
Gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ thường xuyên quan tâm xây dựng chính quyền từ huyện đến cơ sở. So với các nhiệm kỳ trước, nhiệm kỳ 2004 - 2009 của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp có một đặc điểm khác biệt là thời gian hoạt động được kéo dài thêm 2 năm, đến năm 2011 theo Nghị quyết kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII số 25/2008/QH12, ngày 14/11/2008. Mục đích kéo dài là để thống nhất cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp vào cùng một thời điểm; tạo thuận lợi cho việc hoạch định các kế hoạch 5 năm, cho việc bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt sau đại hội đảng bộ các cấp; tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức của Nhà nước và nhân dân. Trong nhiệm kỳ 2004 - 2011 có một số thay đổi trong Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện. Ngày 28/10/2005, Hội đồng nhân dân huyện (khóa IX), kỳ họp bất thường bầu đồng chí Võ Tạ Toàn, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thay đồng chí Lê Văn Chuyển chuyển công tác khác; tháng 1/2006, kỳ họp thứ 7 Hội đồng nhân dân bầu đồng chí Đoàn Hương, Huyện ủy viên làm Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân thay đồng chí Trần Thị Cúc luân chuyển công tác về làm Bí thư Đảng ủy thị trấn Ninh Hòa. Ngày 11/4/2008, Hội đồng nhân dân, kỳ họp thứ 11 bầu đồng chí Đoàn Hương làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thay đồng chí Võ Tạ Toàn nghỉ công tác; bầu đồng chí Trần Sơn Hải, Tỉnh ủy viên được luân chuyển công tác về huyện làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thay đồng chí Võ Tấn Thái chuyển công tác về tỉnh. Ngày 28/8/2008, Hội đồng nhân dân, kỳ họp thứ 12 bầu đồng chí Lê Minh Đức, Huyện ủy viên làm Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa X), Huyện ủy đề ra Chương trình hành động số 17-CTr/HU, ngày 30/10/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Đây là nhiệm vụ trọng tâm và cũng là nét nổi bật nhất của Đảng bộ trong công tác xây dựng chính quyền. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo gắn chặt công tác tổ chức cán bộ với việc kiện toàn, củng cố các phòng, ban chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện theo Nghị định số 14/2008/NĐ-CP, ngày 4/2/2008 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn cấp huyện. Số lượng vẫn là 12 cơ quan chuyên môn như trước nhưng sắp xếp lại như sau: Giải thể Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em và chuyển bộ phận làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình vào Phòng Y tế, chuyển bộ phận làm công tác gia đình vào Phòng Văn hóa và Thông tin, chuyển bộ phận làm công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em vào Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; giữ nguyên tên gọi của 7 cơ quan, tách, thành lập mới và đổi tên gọi của một số cơ quan. Sau khi sắp xếp, ổn định 12 cơ quan gồm: Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng Tài nguyên - Môi trường, Phòng Tư pháp, Phòng Văn hóa thông tin, Phòng Y tế, Phòng Giáo dục - Đào tạo, Phòng Nội vụ, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Công Thương, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thanh tra huyện. Cùng với sắp xếp lại bộ máy, huyện ban hành các quy chế, quy định về chế độ làm việc; bổ sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên môn; ban hành quy định chế độ trách nhiệm, quy tắc ứng xử của cán bộ công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương. Qua đó chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, chế độ trách nhiệm và thái độ của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành công vụ phục vụ nhân dân gắn với học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bộ máy được củng cố, kiện toàn, được đầu tư phương tiện làm việc hiện đại, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính - là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, là khâu đột phá trong cải cách hành chính nhằm tạo môi trường “thông thoáng” cho mọi hoạt động của người dân và doanh nghiệp. Việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính được gắn với việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Đây là giải pháp đổi mới hữu hiệu về phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước, từ đó tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa chính quyền với các tổ chức, công dân. Năm 2004, đề án cơ chế một cửa bắt đầu triển khai thực hiện tại một số phòng ban chuyên môn cấp huyện, đến đầu năm 2005 thì áp dụng ở cấp xã. Ngày 21/1/2009, Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 200/QĐ-UBND phê duyệt Đề án Một cửa liên thông theo hướng hiện đại huyện Ninh Hòa. Ninh Hòa cùng với thành phố Nha Trang và thị xã Cam Ranh là 3 đơn vị tỉnh chọn làm thí điểm. Cơ chế một cửa và một cửa liên thông đều làgiải quyết công việc của các tổ chức, cá nhân, từ hướng dẫn, tiếp nhận, giải quyết giấy tờ, hồ sơ đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối. Đó là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước. Nhưng giữa 2 cơ chế có điểm khác nhau: Cơ chế một cửa là cơ chế giải quyết công việc thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của một cơ quan hành chính nhà nước; còn cơ chế một cửa liên thông là cơ chế giải quyết công việc thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp hoặc nhiều cấp. Cuối năm 2009, hệ thống một cửa liên thông của huyện đưa vào hoạt động với trang thiết bị hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ, trả kết quả, bảo đảm tính công khai, minh bạch. Năm 2010, cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại được thực hiện đồng bộ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và ISO 9001:2008 trong toàn hệ thống hành chính từ huyện đến xã, thị trấn. Trong đó, hoàn chỉnh quy trình liên thông giữa Ủy ban nhân dân huyện và ủy ban nhân dân xã, thị trấn trên lĩnh vực đất đai, xây dựng, đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế. Đây là những lĩnh vực liên quan nhiều đến lợi ích của dân nên được ưu tiên thực hiện trước. Từng bước hiện đại hóa nền hành chính công, trụ sở các cơ quan cấp huyện, xã, thị trấn được xây dựng mới hoặc nâng cấp; được trang bị thêm phương tiện, thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc. Mạng nội bộ (mạng LAN) của Huyện ủy được nâng cấp và nối mạng diện rộng với văn phòng đảng ủy các xã, thị trấn theo đề án của Tỉnh ủy. Các cơ quan, đơn vị, ủy ban nhân dân xã, thị trấn trang bị bản quyền phần mềm văn phòng của Microsoft. Ngoài ra, giữa Phòng Tài chính - Kế hoạch, Kho bạc và Chi cục Thuế huyện, Cục Thuế tỉnh được nối mạng để phối hợp theo dõi, cập nhật số liệu, thông tin hàng ngày phục vụ nhiệm vụ quản lý tài chính.
Trong quá trình đi đến hoàn thiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, các cấp, các ngành tích cực rà soát các quy định, thủ tục hành chính theo các tiêu chí về sự cần thiết, tính hợp lý, tính hợp pháp và tính hiệu quả. Trên cơ sở đó, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính. Đặc biệt, các thủ tục hành chính trên những lĩnh vực có nhiều bức xúc, liên quan trực tiếp tới người dân và doanh nghiệp như đất đai, xây dựng, hộ tịch, hộ khẩu, đầu tư, cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, thuế, kho bạc… được rà soát nhiều lần, loại bỏ những thủ tục phức tạp, gây phiền hà.
Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông bước đầu thu được nhiều kết quả tích cực. Thời gian giải quyết thủ tục, hồ sơ được rút ngắn, trả kết quả đúng hẹn đạt tỷ lệ cao, bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng. Năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước, kỹ năng, nghiệp vụ hành chính cũng như tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức nâng lên rõ rệt. Mối quan hệ giữa nhân dân với cơ quan nhà nước và công chức, giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức gắn bó hơn. Có thể nói, chủ trương cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông thực sự đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, giải quyết công việc… của các cơ quan hành chính nhà nước, được nhân dân và doanh nghiệp đồng tình, đánh giá cao. Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Kết quả giải quyết một số loại hồ sơ hành chính ở một số nơi vẫn còn thấp so với yêu cầu đề ra, chưa đúng hẹn; một số cán bộ, công chức tại bộ phận một cửa chưa thạo việc, hạn chế về năng lực, thiếu linh hoạt… Ở cơ sở, phần lớn cán bộ còn công tác kiêm nhiệm. Quan hệ phối hợp trong giải quyết hồ sơ giữa các cấp, các ngành tuy có tiến bộ nhưng còn nhiều thiếu sót, ý thức cộng đồng trách nhiệm giữa các bên chưa cao, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm. Một số hồ sơ giải quyết chưa tốt, gây phiền hà, dân còn phải đi lại nhiều lần. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của bộ phận một cửa, nhất là cấp xã còn nhiều thiếu thốn, chật hẹp.
Cùng với cải cách thủ tục hành chính, Đảng bộ lãnh đạo đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ và Pháp lệnh số 34/2007/UBTVQH11, ngày 20/4/2007 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Ban Thường vụ Huyện ủy kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của huyện do đồng chí Võ Đình Chinh, Phó Bí thư Thường trực làm Trưởng Ban, cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo đặt tại Ban Dân vận Huyện ủy; ban hành quy chế hoạt động và phân công cụ thể các thành viên phụ trách địa bàn cơ sở; chỉ đạo kiện toàn ban chỉ đạo các xã, thị trấn; tổ chức quán triệt nội dung pháp lệnh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và phổ biến rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân. Quá trình thực hiện quy chế dân chủ luôn gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đến năm 2010, 100% xã, thị trấn đã triển khai thực hiện các nội dung của quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên ở từng nơi, việc triển khai cũng có những mức độ khác nhau. Đối với nơi có đời sống kinh tế và trình độ dân trí phát triển như thị trấn, các xã ven thị trấn… người dân yêu cầu phải cụ thể hóa từng nội dung về quyền của người dân như quyền được thông tin, quyền được bàn bạc, thảo luận, quyền đóng góp ý kiến, quyền được quyết định, được kiểm tra, giám sát… Vì vậy nội dung quy chế ở những đơn vị này xây dựng khá chi tiết, cụ thể, thiết thực. Đối với các xã miền núi, một số xã xa trung tâm huyện có nhiều khó khăn, kinh tế phát triển chậm nên triển khai chưa đồng bộ, có mặt còn hạn chế. Về những việc thông báo cho dân biết, 100% xã, thị trấn thực hiện niêm yết công khai các quy trình, thủ tục, thời hạn giải quyết đối với hồ sơ, lịch làm việc, tiếp dân, các quy định thu phí, lệ phí… tại trụ sở, cơ quan làm việc. Bằng nhiều hình thức công khai, thông qua các kỳ họp hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tiếp xúc cử tri, niêm yết tại trụ sở xã, qua hệ thống truyền thanh, sinh hoạt đoàn thể, thôn, bản… chính quyền thông báo cho nhân dân biết các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chủ trương, quy định… của địa phương, nhất là những vấn đề liên quan đến lợi ích sát sườn của dân như các dự án đầu tư, phương án đền bù giải tỏa, tái định cư… Tùy theo tính chất, mức độ quan trọng của vấn đề để thông qua một hay nhiều kênh thông tin đến dân. Đối với những việc liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ công dân mà nhân dân được bàn, được biểu quyết thì phải thực hiện bảo đảm dân chủ trước khi cấp có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng, hợp với lòng dân. Nhiều nội dung được dân bàn và tích cực tham gia như xây dựng quy ước của thôn, bình xét hộ nghèo, tuyển chọn thanh niên nhập ngũ, đóng góp kinh phí xây dựng điện, đường, trường, trạm, kiên cố hóa kênh mương... Chỉ tính “Quỹ vì người nghèo” của huyện, dân đóng góp trong 10 năm (2001 - 2010) trên 15 tỷ đồng, chiếm 81,5% tổng quỹ. Nhiều nơi, dân tự nguyện đóng góp ngày công lao động, tự giải tỏa, không cần đền bù khi mở rộng giao thông nông thôn. Để phát huy tốt quyền giám sát của nhân dân, từ năm 2007, trong các kỳ họp, hội đồng nhân dân đều mời đại diện nhân dân họp dự thính. Các cấp ủy đảng chỉ đạo thường xuyên củng cố ban thanh tra nhân dân xã, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Nhiều nơi, tổ tự quản của nhân dân phát triển và hoạt động tốt, nhất là việc tham gia giám sát thực hiện các công trình phúc lợi theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Các tổ, ban hòa giải ở cơ sở cũng được chú trọng củng cố, phát huy tác dụng tích cực trong cộng đồng dân cư, giải quyết nhiều vụ việc tranh chấp phát sinh trong nhân dân. Tham gia giám sát hoạt động của chính quyền, năm 2009, ủy ban mặt trận các xã tổ chức lấy phiếu nhận xét, phiếu tín nhiệm đối với 116 cán bộ có chức danh do hội đồng nhân dân xã, thị trấn bầu ra. Đối tượng lấy phiếu tín nhiệm gồm các thành viên ủy ban mặt trận, ủy viên ban thường vụ của các đoàn thể, trưởng ban thanh tra nhân dân, bí thư chi bộ, trưởng thôn, bản, tổ dân phố, trưởng ban công tác mặt trận thôn. Gần 100% cán bộ đều có tỷ lệ phiếu tín nhiệm từ 70% trở lên, chỉ có một trường hợp phiếu tín nhiệm đạt thấp dưới 50%. Điều đó, một phần thể hiện lòng tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, thị trấn.
Thực hiện quy chế dân chủ đã đạt được một số kết quả tích cực, tạo được một số chuyển biến tốt ở nông thôn. Quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân được phát huy, động viên được sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, góp phần ngăn ngừa, hạn chế tiêu cực, tệ nạn xã hội xảy ra. Cán bộ, công chức ngày càng gần dân, lắng nghe ý kiến của dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với dân. Những kết quả đó góp phần quan trọng củng cố mối liên hệ gắn bó giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; xây dựng sự đoàn kết gắn bó tình làng, nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư, ổn định tình hình an ninh nông thôn trên địa bàn huyện trong xu thế phát triển và hội nhập.
Nhìn một cách tổng quát, công tác cải cách hành chính đã đạt được những kết quả và tiến bộ nhất định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền. Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong bộ máy chính quyền huyện, xã, thị trấn được nâng cao. Mối quan hệ làm việc giữa cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể; giữa hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn trong bộ máy chính quyền được xác định ngày càng rõ, có sự phối hợp theo quy chế. Cán bộ công chức, viên chức cấp huyện, cấp xã được bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; cán bộ nữ, trẻ, dân tộc thiểu số được quan tâm. Trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách cấp xã nâng lên một bước. Lề lối làm việc, thái độ trong tiếp xúc, giải quyết công việc phục vụ nhân dân có nhiều tiến bộ. Quan hệ giữa cơ quan hành chính với người dân gần gũi hơn.
Cùng với công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Đảng bộ thường xuyên quan tâm củng cố, xây dựng mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh. Ngày 25/5/2006, Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 02-NQ/HU về nhiệm vụ công tác dân vận nhiệm kỳ 2005 - 2010 xác định rõ: Để góp phần bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng do Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 16 đề ra, phải nâng cao năng lực và trách nhiệm vận động quần chúng của cả hệ thống chính trị, trước hết là của đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, tạo ra sức mạnh đoàn kết toàn dân. Các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận theo nguyên tắc phù hợp với từng đối tượng cụ thể, đồng bộ trong hệ thống chính trị; chỉ đạo chính quyền tạo điều kiện nâng cao vai trò giám sát, tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động của mặt trận, các đoàn thể. Tổ chức, bộ máy dân vận, mặt trận, đoàn thể từ huyện đến cơ sở được củng cố kiện toàn, nhất là qua các kỳ đại hội nhiệm kỳ. Hàng năm, việc kết nạp mới đoàn viên, hội viên được chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Các đoàn thể chú trọng tiếp tục được đổi mới nội dung, phương thức hoạt động thông qua các cơ chế phối hợp giữa các đoàn thể, giữa đoàn thể với các cơ quan, ban ngành. Bên cạnh đó, từng đoàn thể phân công cán bộ đi sâu đi sát cơ sở, đến tận từng công việc cụ thể đang diễn ra để lắng nghe ý kiến, tuyên truyền, vận động, thuyết phục đoàn hội viên thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, kịp thời phản ánh nguyện vọng của dân đến cấp ủy đảng, chính quyền giải quyết. Năm 2010, huyện thành lập Tổ công tác vận động quần chúng và đề ra quy chế hoạt động phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể huyện với chính quyền huyện nhằm tham gia giải quyết những ách tắc trong công tác bồi thường, giải tỏa, tái định cư. Cách làm này mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần bảo đảm tiến độ các dự án, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân bị thu hồi đất, làm giảm số lượng đơn thư khiếu nại. Bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, các đoàn thể liên tục tổ chức các phong trào thi đua, hội thi... được đoàn viên, hội viên tích cực tham gia. Nhiều hội thi gây được hiệu ứng xã hội cao như Hội thi Nông dân đua tài, Nông dân duyên dáng, Bông lúa vàng; Hội thi Tiếng hát cựu chiến binh, Hội thi Chủ tịch hội cựu chiến binh cơ sở giỏi, Liên hoan Tiếng hát người cao tuổi; Hội thi Cán bộ mặt trận giỏi, Phụ nữ giỏi… Điểm nổi bật trong giai đoạn này là các phong trào thi đua của nhiệm kỳ trước được kế thừa, gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nên phát triển rộng về quy mô, sâu sắc về nội dung. Trong nhân dân xuất hiện nhiều phong trào, nhiều gương người tốt, việc tốt, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như phong trào “Nuôi heo đất tiết kiệm”, “Hũ gạo tiết kiệm tình thương” của Hội Phụ nữ; phong trào “Tuổi trẻ Ninh Hòa học tập và làm theo lời Bác” của Huyện đoàn… Trong giai đoạn 2005 - 2010, mặt trận và các đoàn thể đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, nổi rõ là các chương trình giảm nghèo, xóa nhà tạm; vận động nhân dân thực hiện công tác bồi thường, giải tỏa, tái định cư...; tích cực tham gia giám sát thực hiện các chương trình, dự án ở địa phương theo quy chế dân chủ ở cơ sở. Kết quả đã tạo ra các phong trào thi đua yêu nước, phát huy các nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân, đóng góp tích cực vào kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Chặng đường 10 năm đầu tiên bước vào thế kỷ 21 (2001 - 2010) là khoảng thời gian huyện Ninh Hòa “tăng tốc” phát triển kinh tế, tạo ra nhiều biến đổi quan trọng trong đời sống xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn 2005 - 2006, sau khi tỉnh chủ trương hình thành khu kinh tế trọng điểm phía Bắc tỉnh và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Khu Kinh tế vịnh Vân Phong thành một trong những trung tâm kinh tế quan trọng của cả nước đã tạo ra thời cơ mới cho huyện phát triển. Nắm chắc thời cơ đó, vượt qua ảnh hưởng tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, Đảng bộ lãnh đạo toàn hệ thống chính trị và nhân dân chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để đón nhận các dự án phát triển kinh tế - xã hội đầu tư trên địa bàn huyện; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nỗ lực hoàn thành các mục tiêu do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16 đề ra.
Với những kết quả đã đạt được, Đảng bộ Ninh Hòa triển khai đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2010 - 2015, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng theo tinh thần Chỉ thị 37-CT/TW, ngày 4/8/2009 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 80-KH/TU, ngày 30/9/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Sau khi kết thúc đại hội chi, đảng bộ cơ sở vào cuối tháng 6/2010, từ ngày 4 đến ngày 6/8/2010, tại Hội trường Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện đã diễn ra Đại hội Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 17, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Về dự Đại hội có 270 đại biểu chính thức, đại diện cho trên 3.600 đảng viên và 80 tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ. Đại hội thảo luận, góp ý các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 11; góp ý dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 16; kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16; đề ra phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2010 - 2015. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 gồm 45 ủy viên; bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 16 gồm 29 đồng chí đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết. Ngày 5/8/2010, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa mới tiến hành Hội nghị lần thứ nhất, bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 12 đồng chí; bầu đồng chí Trần Ngọc Thanh, Tỉnh ủy viên (được Ban Thường vụ Tỉnh ủy luân chuyển về làm Phó Bí thư Huyện ủy từ tháng 5/2009) làm Bí thư Huyện ủy; bầu 3 đồng chí Võ Đình Chinh, Trần Sơn Hải, Trần Công Hoán làm Phó Bí thư Huyện ủy; bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy 7 đồng chí và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy.
Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16, Đại hội khẳng định: 5 năm (2005 - 2010), “Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa đã ra sức phấn đấu vượt qua những khó khăn, thử thách; tạo sự nhất trí cao trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân; đã lãnh đạo tổ chức thực hiện và đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực”[33]. Năng lực sản xuất các ngành kinh tế tăng đáng kể, tiềm năng, thế mạnh và các nguồn lực được phát huy hiệu quả; cơ cấu kinh tế thực sự có bước chuyển dịch rõ theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên; kết cấu hạ tầng có bước phát triển quan trọng, tỷ lệ đô thị hóa tăng nhanh. Quan hệ sản xuất phù hợp hơn với cơ chế thị trường, nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần đan xen có bước phát triển mạnh. Văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển lành mạnh, tiến bộ. Quốc phòng - an ninh được giữ vững. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao đáng kể. Bên cạnh những kết quả đạt được, Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế. Đó là, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa phát triển theo chiều sâu dựa vào khoa học và công nghệ, vẫn dựa chủ yếu vào khai thác lợi thế về lao động, đất đai, rừng, biển, tiền vốn... Năng suất cây trồng, vật nuôi chưa cao, còn bấp bênh; dịch bệnh thường xảy ra gây thiệt hại lớn, nhất là trong nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô hộ gia đình. Phương tiện đánh bắt hải sản còn nhỏ bé, số lượng tàu đánh bắt xa bờ quá ít, chưa tiếp cận được nhiều công nghệ hiện đại, tiên tiến. Kết cấu hạ tầng, nhất là ở nông thôn tuy phát triển nhưng so với yêu cầu còn nhiều bất cập. Nhiều bức xúc về chất lượng phát triển văn hóa - xã hội chưa giải quyết được. Quốc phòng - an ninh vẫn tiềm ẩn một số yếu tố bất ổn cần phải thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng và củng cố. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đang đối mặt với nguy cơ của tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham nhũng và “tự diễn biến” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Đại hội thảo luận và đề ra phương hướng chung cho toàn Đảng bộ và nhân dân trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 là: “Tiếp tục phát huy mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế để khai thác tiềm năng, lợi thế của huyện gắn với thu hút đầu tư; nâng cao nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phát triển theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thông qua đó, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ, du lịch - nông nghiệp… Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa của nhân dân đi đôi với thực hiện chính sách an sinh xã hội”[34]. Đại hội xác định một số mục tiêu lớn đến năm 2015: Tổng sản lượng lương thực bình quân mỗi năm đạt 90.000 tấn; diện tích cây mía 9.200ha; diện tích nuôi trồng thủy sản 2.400ha; sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản bình quân mỗi năm 12.000 tấn; giải quyết việc làm mỗi năm trên 4.000 lao động; tỷ lệ lao động được đào tạo nghề trên 47%; hoàn thành phổ cập bậc trung học phổ thông; tỷ lệ dân số đô thị đạt 50%; có trên 70% số xã đạt các tiêu chí cơ bản về xây dựng nông thôn mới; 98% dân cư được dùng nước sạch; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3%.
Có thể nói rằng, mặc dù còn nhiều tồn tại, hạn chế nhưng cho đến năm 2010, những kết quả mà toàn huyện đạt được là thành tựu đáng tự hào, làm cho diện mạo Ninh Hòa từ thị trấn đến nông thôn đều có sự thay đổi rõ nét, mang sức sống của một đô thị trẻ đang vươn lên tầm cao mới. Với những thành tựu đó, ngày 11/9/2010, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 1538/QĐ-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới cho cán bộ và nhân dân huyện Ninh Hòa. Niềm tự hào và phấn khởi đó được nhân lên gấp bội khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 41/NQ-CP, ngày 25/10/2010 thành lập thị xã Ninh Hòa và thành lập các phường thuộc thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Sáng ngày 8/12/2010, tại Hội trường Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện, Ủy ban nhân dân thị xã tổ chức Lễ công bố Nghị quyết của Chính phủ về thành lập thị xã Ninh Hòa và đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Trên 500 cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã về dự lễ. Việc thành lập thị xã Ninh Hòa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không những thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của thị xã mà còn của cả khu vực phía Bắc Khánh Hòa, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân. Thị xã Ninh Hòa có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có: 7 phường là Ninh Hiệp, Ninh Giang, Ninh Đa, Ninh Hà, Ninh Diêm, Ninh Thủy, Ninh Hải; 20 xã là Ninh Trung, Ninh Thượng, Ninh Tây, Ninh Sim, Ninh Xuân, Ninh Thân, Ninh Phụng, Ninh Đông, Ninh Sơn, Ninh Thọ, Ninh An, Ninh Bình, Ninh Tân, Ninh Quang, Ninh Hưng, Ninh Lộc, Ninh Phú, Ninh Ích, Ninh Phước và Ninh Vân.
Sự kiện huyện Ninh Hòa trở thành thị xã và được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới là thành quả lao động, phấn đấu không mệt mỏi của Đảng bộ và nhân dân toàn huyện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là từ khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới từ năm 1986, đặc biệt là giai đoạn “tăng tốc” 10 năm đầu của thế kỷ 21. Sự kiện đó đánh dấu một bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển vùng đất và con người Ninh Hòa trong những chặng đường tiếp theo.
[1] Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XIV trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 15; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[2] Tài liệu đã dẫn.
[3] Hiện nay là 320 Trần Quý Cáp, phường Ninh Hiệp.
[4] 4.663 cơ sở kinh doanh, gồm: 2.930 kinh doanh thương mại; 1730 kinh doanh ăn uống, nhà nghỉ; 3 kinh doanh du lịch.
[5] Năm 2005, toàn huyện có 11 làng và 29 cơ quan văn hóa cấp tỉnh, 31 làng và 21 cơ quan văn hóa cấp huyện, 34.000 hộ được công nhận gia đình văn hóa.
[6] 55 trường phổ thông gồm: 31 trường tiểu học, 2 trường cấp I+II, 17 trường trung học cơ sở, 2 trường cấp II+III, 3 trường trung học phổ thông.
7] Chuẩn quốc gia hộ nghèo tính theo thu nhập bình quân người/tháng giai đoạn 2001-2005: Miền núi,hải đảo dưới 80.000 đồng; đồng bằng, trung du dưới 100.000 đồng; thành thị dưới 150.000 đồng.
[8] 5 năm (2001 - 2002), hỗ trợ xây dựng được 313 nhà (nhà xây gạch, lợp tôn, nền xi măng).
[9] Từ năm học 2004 - 2005, tỉnh hỗ trợ cho mỗi học sinh/tháng: Tiểu học 45.000 đồng; trường dân tộc nội trú 40.000 đồng; phổ cập trung học cơ sở 10kg gạo.
[10] 5 năm (2001 - 2005), đơn thư khiếu, tố là 1.243 vụ, giải quyết xong 1.149 vụ, đạt 92%. Phòng Tiếp dân huyện tiếp 1.193 lượt công dân.
[11] Quy định 55-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 được bổ sung sửa đổi thành Quy định 19-QĐ/TW.
[12] Báo cáo số 18-BC/HU, ngày 28/6/2006 của Ban Thường vụ Huyện ủy về kết quả thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TU; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[13] 7 chức danh chuyên môn cấp xã, gồm: Địa chính, tư pháp, tài chính - kế toán, văn hóa - xã hội, trưởng công an, xã đội trưởng và văn phòng ủy ban nhân dân xã.
[14] Quy hoạch các chức danh chủ chốt (2005 - 2010) ở cấp huyện: 22 Ủy viên Ban Thường vụ, 22 Huyện ủy viên; cấp cơ sở: 154 ủy viên ban thường vụ, 404 cấp ủy viên.
[15] Trong đó có 25 đảng bộ xã, thị trấn (2 xã chưa thành lập đảng bộ là Ninh Vân, Ninh Tân).
[16] 12 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dânhuyện, gồm: Phòng Nội vụ - Lao động - Thương binh và Xã hội; Phòng Tài chính - Kế hoạch; Phòng Giáo dục; Phòng Văn hoá - Thông tin - Thể thao; Phòng Y tế; Phòng Tài nguyên và Môi trường; Phòng Tư pháp; Phòng Kinh tế; Phòng Hạ tầng kinh tế; Thanh tra huyện; Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em; Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
[17] Cán bộ chuyên trách, gồm: Bí thư, phó bí thư thường trực đảng ủy, chi ủy cơ sở; chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên ủy ban nhân dân; chủ tịch ủy ban mặt trận và trưởng các đoàn thể; trưởng công an, xã đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hóa - xã hội. Cán bộ không chuyên trách được hưởng chế độ trợ cấp, gồm: Phó các đoàn thể, chủ tịch hội chữ thập đỏ, công an viên, bí thư chi bộ thôn, trưởng, phó thôn… Cán bộ sự nghiệp, dịch vụ công, gồm: Cán bộ y tế, giáo dục hưởng chế độ theo quy định chuyên ngành; cán bộ, nhân viên do cấp xã hợp đồng trả thù lao theo thỏa thuận.
[18] 6 chương trình công tác, gồm: Giáo dục, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực; hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng và phát triển hội; tham gia xây dựng và giám sát thực hiện pháp luật, chính sách về bình đẳng nam nữ; hoạt động đối ngoại nhân dân.
[19] Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ninh Hòa khóa XV tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 16, nhiệm kỳ 2005 - 2010; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[20] Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16, nhiệm kỳ 2005 - 2010; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[21] Diễn văn bế mạc Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 16; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[22] 5 hồ chứa nước: Đá Bàn, Suối Trầu, Ea Krong Rou, Suối Sim, Tiên Du.
[23] Năm 2010, kênh mương cấp I, II có tổng chiều dài 157km; kênh cấp III dài 750km.
[24] “3 giảm, 3 tăng” là: Giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh, giảm lượng phân đạm; tăng năng suất lúa, tăng chất lượng lúa gạo, tăng hiệu quả kinh tế); “1phải, 5 giảm” là: Phải sử dụng giống lúa xác nhận; giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu, giảm lượng phân đạm, giảm lượng nước, giảm thất thoát sau thu hoạch.
[25] Năm 2010, có 66% số thôn, 80% số cơ quan, 90% số gia đình được công nhận đạt các tiêu chí về văn hóa.
[26] 3 đơn vị gồm Ninh Thọ, Ninh Giang và thị trấn Ninh Hòa (lịch sử từ 1930 - 2010).
[27] Từ năm học 2006, theo Luật Giáo dục năm 2005, học sinh học tiểu học hết chương trình, đủ tiêu chuẩn được hiệu trưởng trường tiểu học xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học; bãi bỏ kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở, học sinh học hết chương trình, đủ tiêu chuẩn được trưởng phòng giáo dục huyện cấp bằng tốt nghiệp.
[28] Huyện mới có 7 trường tiểu học, 5 trường trung học cơ sở đạt chuẩn, trong đó Trường Tiểu học số 1 Ninh Phụng đạt chuẩn mức độ 2
[29] Tổng số thương binh, gia đình liệt sĩ có chế độ chi trả là 1.442; đối tượng trợ cấp thường xuyên là 2.600 người.
[30] Chuẩn hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia tính theo thu nhập bình quân đầu người/tháng, giai đoạn 2006-2010: Dưới 200.000 đồng đối với mọi khu vực nông thôn; dưới 260.000 đồng đối với khu vực thành thị.
[31] Hội thi cấp cơ sở tổ chức 3 cụm thi, có 42/74 cơ sở đảng với 42 thí sinh tham gia; vòng chung khảo toàn huyện có 12 thí sinh tham gia; tham gia hội thi chung khảo toàn tỉnh có 2 thí sinh.
[32] Khối đảng, mặt trận, đoàn thể 74 đồng chí, trong đó: 72,8% có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng; 42% có trình độ cao cấp lý luận; 47,3% có trung cấp, sơ cấp lý luận. Khối hành chính nhà nước 86 đồng chí: 81,4% có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng; 26,7% có trình độ cao cấp lý luận; 14% trung cấp, sơ cấp lý luận. Khối sự nghiệp 39 đồng chí (không tính ngành giáo dục, y tế): 63,8% có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng; 7,7% có trình độ cao cấp lý luận; 33,3% trung cấp, sơ cấp lý luận. Khối xã 468 đồng chí (kể cả bán chuyên trách): 14% có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng, 48,5% trung cấp; 3,4% có trình độ cao cấp lý luận, 21,2% trung cấp lý luận.
[33] Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 17, nhiệm kỳ 2010 - 2015; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.
[34] Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ninh Hòa lần thứ 17, nhiệm kỳ 2010 - 2015; tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Ninh Hòa.