Chương IX -Chống chính sách bình định. Phối hợp đánh bại cuộc hành quân Át-lăng của địch. Giải phóng vùng nông thônhuyện góp phần trong chiến dịch Điên Biên Phủ(1953 - 7.1954)
ĐÁNH BẠI CHÍNH SÁCH TẬP TRUNG CỦA ĐỊCH, PHONG TRÀO
CHUYỂN SANG THẾ TIẾN CÔNG, PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ.
Trên
chiến trường chính Bắc Bộ, sau chiến thắng Hoà Bình, mùa thu năm 1952, quân ta
mở cuộc tiến công Tây Bắc, tiêu diệt trên 6.000 tên địch, giải phóng hầu hết
khu Tây Bắc rộng lớn, gồm 25 vạn dân, phá tan âm mưu lập "Xứ thái tự
trị" của thực dân Pháp. Mùa xuân
năm 1953, quân giải phóng Lào phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam giải phóng
toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng - Khoảng và tỉnh Luông-Pha-Băng, nối
liền căn cứ kháng chiến Thượng Lào với vùng Tây Bắc Việt Nam, mở ra cục diện
mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước.
Hội
nghị lần thứ IV của Trung ương Đảng (tháng 1.1953) sau khi kiểm điểm việc thực
hiện chính sách ruộng đất từ sau cách mạng tháng 8.1945, đã đề ra chủ trương
tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng"
ngay trong kháng chiến ở các tỉnh vùng tự do của ta, để bồi dưỡng sức dân, đẩy
mạnh kháng chiến.
Trên chiến
trường Liên khu 5, từ ngày 13.1.1953, chủ lực Liên khu mở chiến dịch tiến công
vào cụm cứ điểm An Khê (Tây Bình Định) chỉ trong thời gian rất ngắn, ta đã san
bằng một loạt cứ điểm: Cửu An, Tú Thuỷ, Eo Gió, Thượng An, Đầu Đèo… tiêu diệt
1200 tên địch, giành thắng lợi lớn nhất từ trước đến lúc này trên chiến trường
Nam Trung bộ.
Ở chiến
trường Bắc Khánh, năm 1952, sản xuất tự túc ở căn cứ được mùa. Trong vùng địch
kiểm soát, phong trào kháng chiến của nhân dân bắt đầu có khí thế mới, Tỉnh uỷ
tiến hành sắp xếp lại lực lượng, tổ chức lại địa bàn chỉ đạo cho phù hợp với
điều kiện cán bộ và thực tế của chiến trường hơn, chuẩn bị tiến lên giành thắng
lợi lớn hơn nữa.
Giữa
năm 1952, sau khi củng cố, chỉnh đốn tổ chức, liên đại 1 Bắc Khánh từ Phú Yên
về lại Đá Bàn. Sau một thời gian hoạt động, đánh địch ở các trận Tân Dân, Ninh
Mã, Dốc Mõ, trận chống địch càn quét ở khu Trung căn cứ 148. Cuối năm 1952,
theo sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Liên đại được biên chế lại thành 2
đại đội tập trung của tỉnh: Đại đội 200 và Đại đội 222.
Đại đội
200, Nguyễn Văn Luyện đại đội trưởng, Võ Cứ chính trị viên, Võ Hoà đại đội phó.
Đại đội 222, Nguyễn Thặng chính trị viên trưởng, Hồ Đắc Hưng chính trị viên
phó. Thành lập xong, cả 2 đại đội được đưa về Liên khu dự khoá chỉnh huấn tập
trung dài ngày do Bộ tư lệnh Liên khu tổ chức tại tỉnh Quảng Ngãi. Đến lớp
chỉnh huấn, Đại đội 222 được bổ sung đồng chí Nguyễn Mậu làm đại đội phó. Cùng
lúc, Tỉnh đội tuyển chọn một tiểu đội gồm 12 cán bộ trung, tiểu đội thuộc loại
nòng cốt dũng cảm, sức khoẻ tốt đưa đi dự khoá huấn luyện đặc công do Liên khu
mở tại vùng tự do Liên khu, đội do đồng chí Nguyễn Cụ, Đại đội phó phụ trách Đội
trưởng. Thời gian thực tập, đã tập kích tiêu diệt một số đồn bót địch ở Quảng
Nam - Đà Nẵng - nơi địch có hệ thống phòng thủ kiên cố và có sự đề phòng rất
nghiêm ngặt. Kỷ- chiến thuật đặc công tỏ ra có ưu thế và có hiệu quả đặc biệt.
Tỉnh uỷ chủ trương tiếp tục tuyển chọn đợt 2, đợt 3, mặc dù trước mắt có ảnh
hưởng nhất định đến khả năng tác chiến của các đơn vị bộ binh vẫn phải kiên quyết
làm.
Ngoài hai
Đại đội 200 và 222 đưa đi chỉnh huấn, lực lượng của Liên đại 1, còn đưa về vùng
Tây Ninh Hoà một trung đội. Phía Vạn Ninh bổ sung cho đội xây dựng thành một
trung đội. Đội trinh sát ở khu phố đổi thành đội xây dựng, sau đó được bổ sung
thành một trung đội đứng hoạt động ở xã Hoà Tín (Hòn Hèo).
Khi sắp
xếp lần đầu, số cán bộ thừa và số chiến sĩ mất sức chiến đấu trong toàn tỉnh
ghép thành một đại đội (Đại đội 3), đến cuối năm 1952, đại đội 3 được giải thể,
đưa số mất sức về Tiểu đoàn 45 thu dung của Liên khu. Số cán bộ và chiến sĩ còn
lại được tăng cường cho ngành giao bưu tỉnh và các huyện miền núi.
Sau
chỉnh huấn, Đại đội 200 và Đại đội 222 được lệnh vào huyện Hoài Nhơn (Bình
Định) tuyển tân binh bổ sung quân số, kết hợp huấn luyện quân sự với nhiệm vụ
bảo vệ vùng bờ biển Hoài Nhơn thay cho Tiểu đoàn chủ lực 365 bí mật chuyển lên
chiến dịch An Khê, sau đó Đại đội 200 và 222 chuyển vào bảo vệ vùng ven biển An
Mỹ (huyện Tuy An) và các xã Hoà An, Hoà Hiệp (huyện Tuy Hoà).
Trong
thời gian lực lượng của tỉnh đi dự chỉnh huấn, Tiểu đoàn 59 của Trung đoàn chủ
lực 803, sau chiến thắng An Khê được Liên khu đưa vào chiến trường Bắc Khánh
hoạt động giữ thế chiến trường thay cho lực lượng địa phương. Tiểu đoàn do đồng
chí Nguyễn Lựu tiểu đoàn trưởng, Phạm Đào chính trị viên, đồng chí Hà Vi Tùng
trung đoàn phó cùng đi với tiểu đoàn. Sau đợt hoạt động, tháng 6.1953, Tiểu
đoàn 59 rút quân ra vùng tự do, tiểu đoàn 45 thu dung, lấy mật danh là tiểu
đoàn 30, do đồng chí Mộng Dực làm tiểu đoàn trưởng vào thay, tháng 8.1953, các
đại đội bộ binh và đội đặc công của tỉnh về lại chiến trường. Tiểu đoàn 30 rút
về lại Liên khu.
Về địa
bàn chỉ đạo, sau 2 năm hoạt động, thực tế cho thấy, trong hoàn cảnh chiến tranh
ác liệt, phương tiện thông tin liên lạc của ta chủ yếu bằng sức người, bộ máy
cơ sở yếu.. địa bàn liên huyện Bắc Khánh quá rộng không phù hợp, không thuận
tiện cho việc chỉ đạo, chỉ huy kịp thời. Tháng 3.4953, Tỉnh uỷ giải thể liên
huyện Bắc Khánh, chia Bắc Khánh thành 4 vùng, mỗi vùng có một đơn vị vũ trang,
và một số ban ngành, đoàn thể như một huyện nhỏ, do một ban cán sự Đảng trực
tiếp lãnh đạo toàn diện.
- Vùng
Tây gồm các xã Hoà Trí, Ninh Phước (Phước Thiện) Liên An và khu phố Ninh Hoà.
Ban Cán sự gồm các đồng chí : Trần Xuân Du, Nguyễn Châu (Châu thỏ), Nguyễn Hữu
Thiều, Mai Xuân Hồng, Lê Anh, do Trần Xuân Du làm Bí thư…(34)
Đơn vị
vũ trang lúc đầu có một trung đội, sau đó được bổ sung đủ 3 trung đội, lấy
phiên hiệu là Đại đội 700, do Trần Đồng đại đội trưởng, Trần Ngưỡng chính trị
viên, Nguyễn Tòng đại đội phó.
- Vùng
Đông gồm các xã Hoà Tín, Hoà Nhân, Hoà Nghĩa, Hoà Chính. Ban Cán sự gồm các
đồng chí: Nguyễn Châu, Võ Lượng, Nguyễn Châu (Châu râu), Nguyễn Văn Thành… do Nguyễn
Châu làm Bí thư. Đơn vị vũ trang có 2 trung đội, lấy phiên hiệu là đại đội 900,
do Châu Võ đại đội trưởng, Nguyễn Văn Thành, chính trị viên.
- Vùng
Nam gồm có các xã Hoà Dũng, Hoà Liêm. Ban Cán sự gồm các đồng chí: Nguyễn Bào,
Trần Như Hổ, Phùng Sái, Cao Văn Cầm do Nguyễn Bào làm Bí thư (35). Đơn vị vũ
trang có một trung đội, lấy tên là đại đội 300, do Cao Văn Cầm chỉ huy trưởng,
Trần Nắng chỉ huy phó.
- Vùng Bắc (nay thuộc huyện Vạn Ninh).
- Vùng
dân tộc thiểu số phía Tây huyện chuyển trực thuộc huyện Vĩnh Khánh (nay là
huyện Khánh Vĩnh).
Các đại
đội địa phương các vùng sau ngày thành lập, đã phối hợp với du kích các xã tổ
chức những đợt vũ trang tuyên truyền diệt tề, trừ gian, xây dựng cơ sở. Đại đội
700 tổ chức phục kích ban ngày trên Quốc lộ 1, bắt sống được tên tổng Đế, xã
Nhơn là những tên đầu sỏ phản động ở xã Ninh Phước, phối hợp với du kích xã Hoà
Trí diệt được tên đội Trận trên Quốc lộ 21, là tên tay sai khét tiếng gian ác
của địch ở đồn Đại Mỹ. Theo lệnh của cấp trên, đại đội đã tổ chức giáo dục và
dẫn đi phóng thích 16 tù binh nguỵ bị bắt trong chiến dịch An Khê tại vùng gần chùa
Khánh Long Phước Đa (chùa thầy Bốn
Tương). Cuộc phóng thích an toàn thắng lợi có ảnh hưởng tốt đối với phong trào
địa phương.
Tháng
3.1953, Tiểu đoàn chủ lực 59 (lấy mật danh là Tiểu đoàn 64) của Trung đoàn chủ
lực 803, được Bộ Tư lệnh Liên khu giao nhiệm vụ vào chiến trường Bắc Khánh Hoà,
phối hợp với lực lượng địa phương mở đợt hoạt động mạnh, nhằm tiêu hao, tiêu
diệt sinh lực đich, bồi dưỡng lực lượng ta, gây ảnh hưởng chính trị rộng rãi
trong nhân dân, tạo điều kiện giúp địa phương phát triển cơ sở, mở rộng phong
trào chiến tranh du kích trong vùng sau lưng địch. Đồng thời cũng là để phối
hợp với chiến trường phía Nam của Liên khu phá thế uy hiếp của địch đối với
vùng tự do Phú Yên.
Để thực
hiện nhiệm vụ, theo chỉ đạo của Tỉnh uỷ, đơn vị cùng với địa phương thành lập
Ban chỉ huy chung để chỉ đạo đợt hoạt động, thành phần gồm: Đại diện của Tỉnh
uỷ, của Ban Chỉ huy trung đoàn 803, của Ban chỉ huy Tỉnh đội, của Tiểu đoàn 59
dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ.
(34) Trần Xuân Du bị địch bắt vào nhà tù, đầu hàng địch, chống lại Cộng sản. Ra tù bị địch đầu độc chết.
(35) Trần Như Hổ sau đó đầu hàng, bí mật làm gián điệp cho địch.
Tình hình huyện
Ninh Hoà lúc này tuy đã có bước phát triển mới, nhưng lúa gạo còn đang bị địch
tập trung, đêm đêm dân phải vào đồn ngủ. Đặc biệt là ở vùng Tây, ở đây địch xây
dựng được bộ máy tề từ Tổng đến cơ sở làm việc rất đắc lực cho địch và rất gian
ác với nhân dân. Trong cuộc đấu tranh giằng co ác liệt với địch, cán bộ ta có
phạm một số sai lầm về chính sách đối với gia đình nguỵ quân, nguỵ quyền. Địch
lấy cơ đó tuyên truyền xuyên tạc, làm cho nhiều người hiểu sai và bất bình cách
mạng. Do vậy, ta chọn vùng Tây là trọng điểm chính, mục tiêu tấn công đầu tiên
là 2 tháp canh Tân Phong và Nhỉ Sự ở vùng này. Ở đây mỗi tháp canh có một tiểu
đội lính hương vệ (Polices auxiliaires
"PA") đóng giữ.
Trước
ngày nổ súng, địch có sự đề phòng, chúng điều 2 đại đội pháo binh đến đóng tại
thôn Xuân Hoà (xã Ninh Phụng) cách Tân Phong, Nhĩ Sự từ 2 đến 3 km, và ngày
3.4.1953, tại Nha Trang nổ ra cuộc đấu tranh chống bắt lính của hơn 4.000 đồng
bào trong thị xã, gây tiếng vang lớn đến Ninh Hoà.
Theo
lệnh của Ban chỉ huy chung, đêm 3.4.1953, ta mở màn đợt hoạt động, Tiểu đoàn 59
tấn công tiêu diệt 2 tháp canh Tân Phong và Nhỉ Sự. Đại đội 700 bao vây đồn
Quảng Cư pháo kích kìm chế lực lượng và khống chế hoả lực súng cối 80 ly của
địch, yểm trợ cho mục tiêu tấn công chính ở Tân Phong, Nhỉ Sự.
Hai
tháp canh Tân Phong và Nhỉ Sự bị tiêu diệt, ta thu toàn bộ vũ khí, bắt sống
toàn bộ tề, nguỵ ở Tân Phong, ở Nhỉ Sự địch kịp chạy thoát một số. Trong lúc
thu dọn chiến trường, bộ đội ta chấp hành đúng các chính sách của Chính phủ và
điều lệnh của quân đội, bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân trong
tháp canh. Ta chỉ thu vũ khí, quân trang, quân dụng của địch, không động chạm
đến tài sản riêng của gia đình, vợ con binh lính địch. Đồng thời tập trung dân
ngủ đồn làm mét tinh tại chổ, giải thích các chính sách của Chính phủ cách mạng
đối với tề và binh sĩ ngụy, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh xoá bỏ ngủ đồn
và không đưa lúa gạo vào để trong đồn nữa. Bên ta, lực lượng đánh tháp canh và
nhân dân ngủ đồn không có thương vong. Riêng Đại đội 700, đồng chí Tiểu đội
trưởng Trần Đình Bảng hy sinh.
Nhân
dân lúc đầu sợ sệt, sau rất mừng, thấy rõ thái độ, cử chỉ của bộ đội ta rất tôn
trọng nhân dân, lại được nghe nói rõ về chính sách, những điều hiểu lầm đối với
kháng chiến bắt đầu được giải toả.
Tề nguỵ
từ chổ rất tin vào sự bảo vệ vững chắc của hệ thống tháp canh, lên mặt hống
hách với nhân dân, nay thấy tháp canh không phải là chổ dựa an toàn vững chắc,
rất hoang mang. Tên bang tá Trần Ngọc (tổng Quốc), một tên đầu sỏ phản động
vùng này từ khi 2 tháp canh bị tiêu diệt, chiều nào cũng lánh về quận ngủ, gần
trưa thấy tình hình yên tỉnh mới dám về đồn. Nhân dân tranh thủ lúc địch núng
thế, vừa bằng lý lẽ đấu tranh, vừa tự động vào tháp canh gánh lúa về nhà và
không vào đồn ngủ nữa, với lý do "ngủ đồn không bảo đảm tính mạng, Việt
Minh đâu có lấy lúa của dân mà phải đem để trong đồn".
Địch
đang lúng túng chưa kịp có đối sách, thì đêm 9.4 ta tiêu diệt tiếp tháp canh
Cầu Lớn, trên đường Ninh Hoà - Hón Khói. Đây là tháp canh bảo vệ cầu, đồng thời
kiểm soát hành lang liên lạc giữa Hòn Hèo và Đá Bàn của ta. Súng SKZ của ta bắn
thủng một lỗ lô cốt đường kính khoảng 1 mét. Lính trong tháp canh một số bị
chết cháy, toàn bộ số tề nguỵ còn lại bị ta bắt sống.
Tề nguỵ
trong vùng hoang mang cực độ. Lính giữ tháp canh ban đêm không dám ở bên trong,
vì sợ bị chết cháy, phải lánh ra bên ngoài hoặc cải trang trốn về nhà ngủ. Tề
điệp gian ác, ban đêm lánh vào trung tâm quận lỵ trốn ngủ. Gia đình tề nguỵ lo
sợ, tìm gặp cán bộ Việt Minh, hoặc gặp gia đình cán bộ, bộ đội thanh minh về
những hành động bị bắt buộc của người thân và hứa hẹn sẽ vận động chồng, con,
em đấu tranh rời bỏ hàng ngũ địch.
Do nằm
trên đường giao thông, nên tin tháp canh Cầu Lớn bị tiêu diệt lan ra rất nhanh.
Quần chúng bàn tán xôn xao, hàng ngày có hàng trăm người từ các nơi tấp nập kéo
đến xem, trầm trồ ca ngợi sức mạnh của bộ đội Việt Minh, đồng thời bàn tán nguy
cơ không an toàn đối với tài sản và tính mạng của người dân ngủ đồn. Nhân dân
công khai đưa tin, công khai chất vấn bọn tề nguỵ về trách nhiệm và khả năng
bảo đảm tính mạng và tài sản cho nhân dân. Nhiều cán bộ đảng viên bị đứt liên
lạc, hoặc lâu nay dao động nằm im, nay vội vã đi tìm liên lạc với cán bộ, xin
được sinh hoạt, được giao công tác. Phong trào bắt đầu phát triển mạnh mẽ.
Địch
gấp rút điều quân từ Nam Khánh ra tăng cường cho các đồn bót có vị trí quan
trọng, tăng cường tuần tiểu bảo vệ, tăng hoạt động biệt kích, phi pháo ở hướng
Hòn Hèo, Đá Bàn.
Kết hợp
với tấn công quân sự, Ban cán sự các vùng tung cán bộ và các đơn vị vũ trang
địa phương liên tục vũ trang tuyên truyền, phá tề, trừ gian, thông báo tin tức
chiến thắng, tin nhân dân vùng Tây đấu tranh đem được lúa gạo về nhà và không
còn phải đi ngủ đồn nữa. Được cổ động, thôi thúc mạnh mẽ, nhân dân khắp nơi
trong huyện nổi dậy đấu tranh, ào vào đồn vừa đấu lý, vừa tranh nhau gánh lúa,
đem cối xay, cối giã về nhà. Cuộc đấu tranh như nước vở bờ, nay diễn ra ở nơi
này, ngày mai nổ ra ở nơi khác, binh lính địch không sao ngăn cản nổi. Chính
sách tập trung dân, tập trung lúa gạo của địch bị nhân dân đánh bại hoàn toàn.
Xoá bỏ
được chính sách tập trung của địch, nhân dân rất phấn khởi, càng tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, của chính quyền kháng chiến, sự hỗ trợ đắc lực của
"bộ đội Cụ Hồ". Vui mừng được trở lại cuộc sống đầm ấm của gia đình,
sau hơn ba năm bị đảo lộn. Mừng cho con em thoát cảnh hàng ngày bị xâm phạm
nhân cách, phẩm hạnh một cách thô bỉ của binh lính địch. Hăng hái tham gia đấu
tranh, tham gia kháng chiến.
Các
trận Tân Phong, Nhỉ Sự, Cầu Lớn ta diệt địch, thu vũ khí không nhiều, nhưng nhờ
đánh trúng vào chổ dựa của chính sách bình định, của tinh thần binh lính địch.
Như điểm trúng huyệt, tác động và ảnh hưởng rất lớn, dẫn đến chiến thắng chống
ngủ đồn, chống tập trung lúa gạo của địch là một trong những chiến thắng lịch
sử đậm nét truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Ninh Hoà trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Ghi nhận trận Cầu Lớn có câu bài chòi sau:
Ai đi Hòn Khói Ninh Hoà
Thấy bót Cầu Lớn quân ta diệt rồi.
Sau đêm mùng chín tháng tư
Chỉ còn vách đá, ráo hư tiêu điều
Trăng lên sáng ngập Hòn Hèo
Quân dân từ đó sớm chiều hân hoan.
Địch
đối phó lúng túng, ta càng dồn dập tấn công. Ngày 16.4, sau khi được giáo hoá
tiến bộ, ta phóng thích số tù binh của các tháp canh Tân Phong, Nhỉ Sự về với
gia đình. Số này về, cả gia đình và thân tộc của họ rất cảm ơn và ca ngợi chính
sách khoan hồng, nhân đạo của chính phủ ta, ca ngợi sức mạnh của bộ đội kháng
chiến, sự vững vàng no đủ của căn cứ Đá Bàn… Công khai tuyên truyền vạch mặt
những luận điệu xuyên tạc, lừa phỉnh của địch, ảnh hưởng rất lớn. Có người bị
địch bắt giam, đe doạ, họ đấu tranh chống trả quyết liệt, buộc địch phải thả.
Nhân dân khen ngợi sự giáo hoá tài giỏi của cách mạng. Nhưng quần chúng cách
mạng còn có chổ chưa tán thành, phê bình ta hữu khuynh, thiếu thái độ thích
đáng đối số người nhiều tội lỗi.
Lần
sau, đối với số tù binh Cầu Lớn, ta giáo dục kỹ, phân tách đầy đủ về tội lỗi
của những người cầm súng địch bắn giết đồng bào, mở toà án trừng trị những tên
nặng tội, như Tổng Đế, xã Long… khoan hồng đối với những người bị ép buộc. Ảnh
hưởng của chính sách càng có chiều sâu. Trong hàng ngũ địch, từ chổ còn một bộ
phận nghi ngờ chính sách, đến chổ có tư tưởng sẳn sàng đầu hàng khi bị ta tấn
công để được khoan hồng về nhà với vợ con. Phong trào đấu tranh trả súng về nhà
làm ăn của ngụy quân, ngụy quyền tuy còn lẻ tẻ, nhưng diễn ra hàng ngày trên
địa bàn huyện.
Đảng bộ
thành công lớn trong việc phát huy vai trò lực lượng vũ trang trong hoạt động
quân sự, trong công tác vận động quần chúng, nhưng trong công tác vũ trang binh
địch vận, nhiều trường hợp bỏ mất thời cơ giành thắng lợi như, trong đêm bao
vây bức hàng tháp canh Nguyễn Hữu Lộc (thôn Ninh Ích) ta gọi loa, địch chuẩn bị
đầu hàng, chúng chỉ yêu cầu ta nổ súng tạo cớ hợp pháp để họ ra nhưng cán bộ và
bộ đội nắm không chắc chính sách, sợ vi phạm phương châm "bức hàng không
nổ súng" nên cuối cùng không đạt kết quả.
Để cứu
vãn tỉnh thế, ngày 18.3, địch huy động trên 4000 quân Âu-Phi, từ Bình Trị Thiên
vào đổ bộ lên cửa biển Hòn Khói tiến lên. Quân cơ động của Tiểu khu Khánh Hoà,
từ Nha Trang theo Quốc lộ 1 kéo ra, có máy bay, pháo binh yểm trợ, do thiếu
tướng Lơ-Bơ-Lăng (Leblanc) trực tiếp chỉ huy, chia làm 3 cánh tấn công vào căn
cứ Đá Bàn nhằm tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta tại đây.
Sáng
ngày 19.4, trận địa pháo của địch ở Xuân Sơn (Vạn Ninh) bắn cấp nập vào trung
tâm căn cứ dọn đường cho bộ binh. Cánh quân phía Bắc từ Xuân Sơn vượt đèo ông
Cộ vào Gò Trơ, dọc theo bờ Bắc sông Đá Bàn tiến lên chân Dốc Chanh nhằm chận
đường rút của chủ lực ta ra vùng tự do Phú Yên.
Cánh
thứ hai từ Dốc Dài tiến ra chận mặt phía Nam căn cứ. Cánh chính diện từ Quốc lộ
1 tiến lên Bến Ghe. Trên không máy bay trinh sát L19 dẫn đường và chỉ điểm cho
máy bay oanh tạc, dội bom và pháo binh bắn dọn đường, yểm trợ cho bộ binh tiến
vào.
Trong
căn cứ, Đại đội 700 phân tán một bộ phận lực lượng phối hợp với du kích bám
đánh tiêu hao địch bằng cách đánh du kích nhỏ lẻ, bằng các tuyến bố phòng chông
mìn, cạm bẫy tiêu hao địch, tiểu đoàn 59, có một trung đội của đại đội 700 phối
hợp dẫn đường, từ dốc ông Thượng, xuống Suối Trầu tổ chức trận phục kích trải
dài từ đầu vườn Gòn (Sở tên Lô) trở lên, chờ đánh đường lui quân của địch.
Lúc 13
giờ ngày 20.4, quân địch nối đuôi nhau lần lượt rút về trên con đường này, Tiểu
đoàn 59, bất thần nổ súng đánh mãnh liệt vào giữa đội hình cánh quân cuối cùng
của địch. Địch bị đánh bất ngờ, lớp chết, lớp bị thương mất khả năng chống trả.
Số địch đi đầu, xoay đội hình dùng hoả lực chi viện bắn ác liệt vào lực lượng
ta, yểm trợ cho quân của chúng. Ta dùng hỏa lực đại liên, súng cối, bắn chế áp,
ghìm đầu số quân địch đi đầu, xung phong tiêu trừ số địch còn sống sót, thu
chiến lợi phẩm. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Kết quả ta tiêu diệt một đại đội
lính Pháp, thu nhiều vũ khí, có 1 đại liên. Bên ta 14 đồng chí hy sinh.
Bị đánh
rất đau, địch cố bưng bít, che dấu thất bại, nhưng không sao che giấu nổi, ảnh
hưởng của trận đánh lan rất nhanh, cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng chiến của
nhân dân, uy hiếp mạnh tinh thần binh lính địch.
Sau
trận đánh, địch rút toàn bộ lực lượng cuộc hành quân vào Nha Trang, kể cả 4 đại
đội cơ động của tiểu khu tăng cường về cho Ninh Hoà trước đó. Ngày 12.5, địch
đồn Tân Lâm và tháp canh Đồng Thân (xã Ninh Thượng) bỏ đồn rút chạy về quận.
Ta phát
huy chiến quả, đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền vận động quần chúng,
phát triển cơ sở. Nhưng đội ngũ cán bộ xã quá ít, nhiều nơi ở phía Tây và Tây
Nam huyện, quần chúng cách mạng đi tìm cán bộ, nhưng ta đi không khắp, tiếp
không hết, bỏ lỡ cơ hội khôi phục phong trào. Nơi không có cán bộ bám làng,
nhân dân phấn khởi chờ đón, rồi đâu hoàn đó, cơ sở không mở ra được.
Địch
liên tiếp bị ta tấn công, đến đầu tháng 5.1953, chúng chuyển phương thức đối
phó. Do chúng nắm chắc quy luật của chủ lực ta thường chỉ hoạt động một thời
gian rồi rút ra vùng tự do nên tạm thời chúng co về phòng thủ bảo tồn lực
lượng, giữ đồn bót, giữ dân không để tiếp xúc với ta, chờ khi chủ lực ta rút,
chúng sẽ bung ra phản kích giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Ngày
21.5, địch đóng lại đồn Tân Lâm, xây dựng lại công sự theo kiểu mới (Boongker).
Tăng quân số và củng cố tiếp công sự các đồn bót. Ban đêm cho lính các đồn, các tháp canh ở vùng Tây ra
phòng thủ bên ngoài để khỏi bị ta tấn công tiêu diệt. Tăng cường hoạt động biệt
kích lùng sục, sưu sách vùng giáp ranh căn cứ, nhằm phát hiện chủ lực ta, tập
kích chổ ở, phục kích đường về làng của cán bộ các xã. Ban đêm cho lính cải
trang giả bộ đội ta gọi cửa nhà dân, gia đình nào bị mắc lừa mở cửa, bị chúng
khủng bố có tính răn đe rất dã man. Cách hoạt động này lúc đầu có gây cho ta
một số khó khăn, tổn thất.
Để tiếp
tục đánh bại thủ đoạn hoạt động mới của địch. Một mặt, ta thông báo, giáo dục
cơ sở, quần chúng cảnh giác và đấu tranh vạch mặt thủ đoạn lừa dối của địch.
Mặt khác, phân tán lực lượng tìm tiêu diệt lực lượng biệt kích địch, tiếp tục
truy quét trừng trị bọn tề điệp gian ác tiếp tay cho địch giết hại đồng bào.
Nhưng
thời gian hoạt động của tiểu đoàn 59 không thể kéo dài. Các hoạt động của biệt
kích địch không thành quy luật, nên ta chủ trương chuyển lực lượng xuống tiêu
diệt tháp canh địch ở vùng Đông. Đêm 15.5.1953, Tiểu đoàn 59 phối hợp với Đại
đội 900 vùng Đông, tiêu diệt tiếp 2 tháp canh Mỹ Lệ (xã Ninh Đa) và Hội Bình
(xã Ninh Phú) tiêu diệt và bắt sống toàn
bộ tề nguỵ của 2 tháp canh này, thu toàn bộ vũ khí. Số tề nguỵ ở tháp canh
Phước Sơn ban đêm tập trung ngủ ở tháp canh Hội Bình cũng bị ta tiêu diệt và
bắt sống. Tinh thần binh lính địch trong vùng càng hoang mang dao động mạnh.
Thừa
thắng, phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là đấu tranh chống địch bắt lính
lên mạnh. Hàng trăm thanh niên hàng ngày ra bìa rừng tự tổ chức canh gác bảo vệ
nhau làm ăn, tránh địch bao vây bắt lính. Nhiều gia đình có thanh niên đào hầm
bí mật, làm vách đôi nuôi dấu con em. Đồng bào trong từng thôn xóm tự động theo
dõi, canh gác báo tin cho thanh niên mỗi khi địch đến xóm làng. Trong hàng ngũ
ngụy quân, ngụy quyền nhiều người cũng đồng tình che dấu thanh niên. Trong một
cuộc vây ráp quy mô rộng lớn cả vùng Đông, địch chỉ bắt được 15 người. Số này
vào căng huấn luyện kiên quyết đấu tranh, lần lượt đào ngũ gần hết. Nhiều thanh
niên sử dụng cả những hình thức tiêu cực như huỷ hoại thân thể, chặt ngón tay,
làm điết tai, mờ mắt… để chống địch bắt lính.
Trong
hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền địa phương có một số tìm gặp ta xin nhận công
tác để lập công chuộc tội. Ở xã Hoà Nghĩa, Hoà Chính… ta nắm được 2/3 số tề cơ
sở. Có một số lý hương thường xin ý kiến của nhân dân trước khi thi hành mệnh
lệnh của địch. Cơ sở binh vận trong hàng ngũ địch phát triển. Một ngụy quân ở
xã Hoà Nghĩa chịu đựng khủng bố, đấu tranh đến 6 tháng vẫn không nản để hợp
pháp trở về gia đình. Lúc về còn lôi cuốn hàng chục người cùng bỏ ngũ về nhà.
Thời gian này ta bắt được xã Tha người thiên chúa giáo nhiều tội ác, sau thời
gian giáo dục, ta khoan hồng phóng thích về lại gia đình, có ảnh hưởng lớn
trong bộ phận nhân dân theo đạo thiên chúa, và tề ngụy người công giáo địa
phương. Nhiều đồng bào ở các thôn vùng Đông, phối hợp với dân quân phá hoại tài
sản địch, theo dõi phát hiện, có nơi còn tự động bắt bọn gian ác giao nộp cho
ta xử trị. Nhân dân xã Hoà Trí, nơi bị địch khống chế, bưng bít nặng nề và
phong trào kháng chiến khó khăn nhất, nay đã bắt đầu phát triển được cơ sở,
nhiều quần chúng ở Thổ Châu, Vĩnh Thịnh… đặt thùng thơ liên lạc, làm ám tín
hiệu để cán bộ về làng, hoặc ra bìa rừng gặp cán bộ trao đổi tình hình, bàn bạc
công tác.
Chính
sách tập trung của địch bị đánh bại, nhân dân được ngủ ở nhà, có điều kiện bảo
vệ ruộng vườn, vui mừng thoải mái, được cán bộ, bộ đội về gần gủi thăm hỏi ân
cần như đem lại sự an ủi và niềm tin yêu của kháng chiến đối với nhân dân, nên
nơi nào có bộ đội về làng là đồng bào gọi nhau tập trung lại mừng rỡ, đón tiếp
ân cần, xoắn xuýt bên nhau, hết hỏi thăm tình hình tin tức, sang kể công, kể
khổ. Nhiều người tố giác tội ác của địch và bè lũ tay sai, lớp lang như sắp sẵn
trong lòng, miên man không dứt. Càng kể càng câm hờn ràn rụa nước mắt, hết sức
xúc động.
Đối với
địch, sau khi hệ thống tháp canh bị chọc thủng, kiểm soát dân bằng chính sách
tập trung ngủ đồn bị thất bại, chúng chuyển sang thành lập các trung tâm hành
chánh khu vực (tương đương một tổng), để tiếp tục bình định, kiểm soát nhân
dân. Chúng xây dựng lại đồn Mỹ Lệ và sử dụng đồn Đại Mỹ, đồn Phú Thọ… thành các
trung tâm hành chánh kiểu mẫu đầu tiên trong huyện. Ở các trung tâm này vừa là
đồn lính bảo an, vừa có công sự, nhà ngủ cho lính hương vệ, cho tổng, lý và tề
điệp gian ác trong vùng ban đêm vào ngủ, để tiếp tục làm tay sai bắt người,
cướp của phục vụ chiến tranh "theo chính sách dùng người Việt đánh người
Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp.
Thời
gian hoạt động của Tiểu đoàn 59 sắp kết thúc, để giữ thế chiến trường, Tỉnh uỷ
chủ trương phân tán lực lượng, mở đợt vũ trang tuyên truyền, diệt tề, trừ gian,
tìm diệt biệt kích địch một cách rầm rộ, làm lạc hướng địch, để tiểu đoàn rút
quân. Thực hiện chủ trương này, đại đội 900 vùng Đông tập kích tháp canh cầu
Sắt, địch phát hiện tháo chạy mang theo sự hốt hoảng vào trung tâm khu phố. Đại
đội 700 phối hợp với du kích xã Ninh Phước bắt được xã Long - tên tay sai đắc
lực ở thôn Ninh Ích, phá vỡ được hệ thống chỉ điểm của địch hỗ trợ thiết thực
cho phong trào kháng chiến của nhân dân vùng này.
Tuy
vậy, Tiểu đoàn 59 vừa rút quân, ngày 16.6.1953, Tiểu đoàn cơ động chi khu Ninh
Hoà mở cuộc càn quét dài ngày vào phía Đông và Đông Bắc căn cứ Hòn Hèo. Kết hợp
với càn quét đánh phá, địch đưa quân đến đóng đồn Mỹ Lương (phân chi khu) án ngữ
cửa ngõ Đông bắc căn cứ, đồng thời yểm trợ cho hải quân tiểu khu, đưa lực lượng
đồn trú từ Nha Trang ra đóng đồn Hòn Cổ phía Bắc thôn Ninh Tịnh sâu trong căn
cứ Hòn Hèo nhằm để khống chế và đối phó với lực lượng ta ở hướng này.
Trong
thời gian xây đồn, địch dùng máy bay, pháo binh bắn phá khu vực xung quanh Hòn
Cổ, các khu vực cư trú và sản xuất của nhân dân, bộ đội và du kích của ta trong
căn cứ để bảo vệ việc xây đồn của chúng, gây cho cho ta một số thiệt hại về hoa
màu và gia súc.
Để bảo
vệ tính mạng và sản xuất của nhân dân, du kích xã Hoà Tín tiến hành bố phòng
tuyến chông mìn xung quanh Hòn Cổ, hàng ngày bố trí lực lượng bám đánh địch mỗi
khi chúng đi càn quét, phối hợp với trung đội vũ trang của tỉnh do đồng chí Lê
Khôi và Lê Ngọc Cuộc chỉ huy đánh toán địch Hòn Cổ bung ra càn quét vùng suối
Cái diệt hàng chục tên, thu vũ khí, đánh toán địch càn quét bìa rừng thôn Ninh
Tịnh diệt nhiều tên, thu hai súng. Tiếp đó, trung đội phối hợp với du kích thôn
Đầm Vân đánh thiệt hại nặng một trung đội lính thuỷ đánh bộ của địch đổ bộ lên
Bãi Giữa thôn Đầm Vân, thu hàng chục súng các loại, địch Hòn Cổ phải co lại giữ
đồn ít đi càn quét như trước. Nhân dân xã Hoà Tín lúc đầu căng thẳng, dần dần
ổn đinh, vẫn bình tỉnh sản xuất bảo đảm đời sống. Đại đội 900 vẫn chủ động giữ
thế tiến công mở rộng phong trào kháng chiến trong vùng địch kiểm soát.
Cuối
tháng 6.1953, Tiểu đoàn 30 của liên khu vào thay Tiểu đoàn 59. Theo chỉ đạo của
Tỉnh uỷ, Tiểu đoàn 30 tiếp tục hoạt động ở chiến trường vùng Tây, chủ yếu là võ
trang tuyên truyền, phát huy chiến quả, tiếp tục tấn công địch giữ thế chiến
trường. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Tiểu đoàn 30 phối hợp với Đại đội 700
địa phương, tổ chức lực lượng về hai xã Hoà Trí và Ninh Phước, cùng với cán bộ
và du kích các xã này làm công tác võ trang tuyên truyền, tiếp xúc nhân dân,
phổ biến chính sách, hỗ trợ cho cán bộ phát triển cơ sở, động viên nhân dân đấu
tranh chống địch, làm nhiệm vụ kháng chiến. Tiểu đoàn phối hợp với du kích xã
Ninh Phước, đánh được một số trận nhỏ lẻ ở vùng rừng Hòn Hấu, vùng giáp ranh
căn cứ Đá Bàn. Địch phát hiện có tiểu đoàn của Liên khu vào, chúng tiếp tục co
về phòng thủ, hoạt động biệt kích cũng thưa dần.
Do bức
xúc cuộc sống và tranh thủ lúc địch núng thế co cụm, nhân dân trong vùng kiểm
soát của địch, sản xuất lấn dần ra các vùng giáp ranh, trên các vành đai trắng
như vùng Đồng Lau, Đồng Gieo… (vùng Nam) vùng Chánh Thanh, Sơn Định, Phú Lộc
(vùng Đông) vùng Cung Hoà, Quảng Thiện, Gia Mỹ (vùng Tây)… người dân thiếu
giống lúa và hoa màu để sản xuất, được Ban cán sự các vùng vận động tổ chức sự
giúp đỡ lẫn nhau giữa các nhóm sản xuất. Riêng các vùng xung quanh căn cứ Đá
Bàn ta hỗ trợ 8 đôi trâu cày và 40 giạ lúa giống.
Nhân
dân bung ra được bên ngoài làm ăn, đời sống bớt khó khăn rất phấn khởi. Nhiều
người vào thăm người thân trong căn cứ và bắt đầu có sự trao đổi mua bán với
nhân dân trong căn cứ, ta có điều kiện gặp gỡ nhân dân, cơ sở trong vùng địch
kiểm soát nhờ đó được tiếp nối và phát triển thuận lợi, phong trào phục hồi
nhanh chóng.
Cuối
năm 1953, sản xuất trong căn cứ phát triển, lúa gạo trong vùng địch không còn
bị tập trung, đường tiếp vận từ Phú Yên vào hoạt động nhộn nhịp. Bộ đội no đủ,
du kích xã lần đầu tiên được cấp trên hỗ trợ một nửa tiêu chuẩn lương thực theo
chế độ quân đội. Đời sống tinh thần và vật chất của các đại đội và du kích địa
phương các vùng trong huyện được cải thiện, điều kiện công tác và chiến đấu
tăng lên rõ rệt.
Tháng
8.1953, các đại đội tập trung và đội đặc công của tỉnh về lại Đá Bàn, với nhận
thức và khả năng mới, cán bộ, chiến sĩ ai nấy đều háo hức lập cộng. Tỉnh uỷ chủ
trương tiếp tục bước chuẩn bị cho nhiệm vụ mới. Các đại đội 200, 222, phối hợp
với các đại đội địa phương các vùng như Đại đội 700 vùng Tây, Đại đội 500, vùng
Bắc (Vạn Ninh) và du kích các xã mở đợt vũ trang tuyên truyền rộng rải ở vùng
Tây Ninh Hoà, vùng Phú Cang, (Đồng Tiến Vạn Ninh). Đưa lực lượng vũ trang về
làng làm công tác dân vận thăm hỏi nhân dân, an ủi động viên các gia đình có
nhiều hy sinh, mất mát trong các cuộc đấu tranh chống địch, chia xẻ nỗi thống
khổ của nhân dân trong những năm bị địch bắt tập trung ngủ đồn, tập trung lúa
gạo. Cùng trao đổi với nhân dân tình hình tin tức cuộc kháng chiến, cách đấu
tranh chống địch bảo vệ cuộc sống hàng ngày và động viên nhân dân ủng hộ và
tham gia kháng chiến. Đợt hoạt động này cũng nhằm giúp cho các đơn vị của tỉnh,
có một bộ phận tân binh hiểu nhân dân, hiểu địa bàn, chuẩn bị cho thực hiện
nhiệm vụ mới thuận lợi.
Đội đặc
công tổ chức đánh thí điểm tháp canh giao thông Phong Thạnh (xã Ninh Lộc) ở
Ninh Hoà và bót bang tá Tu Bông ở Vạn Ninh, để thử nghiệm độ kiên cố của công
sự, cách tổ chức phòng thủ, cách kiến thiết các vòng rào, vật cản bên ngoài một
cách cụ thể của các tháp canh trên chiến trường, để có cách đánh, cách sử dụng
thuốc nổ thích hợp. Kết quả cả 2 mục tiêu đều bị ta tiêu diệt rất gọn. Địch
không hay biết, cũng không kịp chống trả. Đội đã xây dựng vững chắc thêm niềm
tin cho đơn vị. Nhưng trong hai trận mở đầu, nhất là ở tháp canh Phong Thạnh,
ta sử dụng trọng lượng thủ pháo hơi cao, vũ khí địch bị thiêu cháy, ta không
còn thu và sử dụng được. Sau đó ta có sự điều chỉnh phù hợp hơn cho từng loại
công sự địch.
Từ năm
1950 đến năm 1952, nhất là trong năm 1950, Đảng bộ, quân và dân Ninh Hoà nằm
trong một tình hình hết sức khó khăn, đen tối. Nhân dân ban đêm phải vào đồn
ngủ, lúa gạo để trong đồn nhận ăn từng bữa không đủ no. Mọi nề nếp, tập quán
tốt đẹp của nhân dân bị địch làm đảo lộn hoàn toàn. Đời sống của nhân dân hết
sức tối tăm khốn khổ. Phong trào kháng chiến của các xã ở vùng Tây, vùng Nam huyện
gần như tê liệt. Quần chúng cách mạng câm thù, phẩn uất địch trào ra nước mắt
nhưng không dám đấu tranh. Địch tự do hoành hành bắn giết, bóc lột, chà đạp lên
nhân phẩm của mọi người dân yêu nước. Cán bộ, bộ đội hoạt động trong hoàn cảnh
xa dân đói, đau, bệnh tật, bị địch theo dõi tập kích, nhiều người phải bỏ thân
xác từ chổ ở, đến các nẻo đường lo ăn, chạy gạo. Có thể nói năm 1950 là thời kỳ
thoái trào khó khăn đen tối nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của huyện
Ninh Hoà.
Từ khi
có Căn cứ 148, phong trào kháng chiến của vùng Tây có nơi nương tựa, và từ đầu
năm 1953, Tỉnh uỷ chỉ đạo tiến hành bước chuẩn bị biên chế lại lực lượng, tổ
chức lại địa bàn chỉ đạo gọn hơn, phù hợp hơn, nhất là từ khi tiểu đoàn 59 vào
chiến trường, được sự chỉ đạo đúng đắn của Tỉnh uỷ, tinh thần nổ lực vượt khó
khăn, linh hoạt sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ của tiểu đoàn, của Đảng bộ
huyện, tiếp theo đó là đảng bộ các vùng, ta đã phối hợp phá vỡ hệ thống tháp
canh địch, tạo được thế mới, chuyển được cuộc đấu tranh của nhân dân thành
phong trào cách mạng mạnh mẽ, chuyển tình hình của huyện từ thoái trào sang thế
chủ động tiến công địch giành nhiều thắng lợi, tạo được tiền đề quan trọng để
Đông Xuân 1953 – 1954, Ninh Hoà tiến lên giành thắng lợi sôi nổi.
Trong
lúc này trên chiến trường chính Bắc bộ, sau thắng lợi của các chiến dịch Hoà
Bình, Tây Bắc và của các chiến trường Liên khu 5 và Nam bộ, cùng những thắng
lợi của quân đội Pa-thét Lào và quân tình nguyện Việt Nam ở Thượng Lào, dẫn đến
những thay đổi quan trọng về lực lượng so sánh giữa ta và địch. Lực lượng vũ
trang nhân dân ta đã lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Điều kiện để giành
thắng lợi ngày càng tăng thêm.
Về
địch, chiến tranh Đông Dương kéo dài làm cho thực dân Pháp đứng trước những khó
khăn to lớn, tài chính kiệt quệ, phong trào đấu tranh phản đối chiến tranh xâm
lược Việt Nam của nhân dân Pháp dâng cao…
Do đó
thực dân Pháp buộc phải chọn con đường thoát là dựa vào viện trợ tối đa của đế
quốc Mỹ, dù với điều kiện ngặt nghèo và sức ép nguy hiểm thế nào đi nữa, nhằm
giành được một số thắng lợi, chuyển bại thành thắng, ít ra cũng để làm cơ sở
cho việc đàm phán trên thế mạnh, tạo một lối thoát danh dự.
Tháng
1.1953, với sự thoả thuận của Mỹ, thực dân Pháp cử danh tướng Nava sang làm Tổng
chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Sau một thời gian điều tra chiến trường,
Nava trình lên Hội đồng quốc phòng Pháp một kế hoạch chiến lược quân sự, mà
chúng gọi là kế hoạch Nava. Với kế hoạch đó, cả Pháp và Mỹ đều chủ quan tin
rằng, trong vòng 18 tháng chúng sẽ giành lại được thế chủ động chiến lược và
chuyển bại thành thắng trên chiến trường Đông Dương, buộc ta phải đàm phán theo
điều kiện có lợi cho chúng. Nếu không chúng sẽ tiếp tục tấn công tiêu diệt ta.
Điểm
trung tâm của kế hoạch Nava là dựa vào sự viện trợ tối đa của Mỹ, vơ vét lực
lượng từ chính quốc và từ các nước thuộc địa châu Phi sang, kết hợp với ra sức
xây dựng ngụy quân, rút bỏ bớt một số đồn bót, để xây dựng một khối quân chủ
lực cơ động mạnh. Trên cơ sở đó chuyển sang thực hành tiến công chiến lược với
2 giai đoạn.
Từ Thu
Đông 1953 và Xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, thực hành tiến
công chiến lược ở miền Nam, nhằm chiếm đóng tất cả các vùng tự do còn lại của
ta ở Nam bộ và Liên khu 5.
Đông
Xuân 1954 - 1955, sau khi bình định xong miền Nam và với khối chủ lực cơ động
đã được xây dựng, sẽ tập trung toàn bộ lực lượng thực hành quyết chiến với chủ
lực ta trên chiến trường miền Bắc giành thắng lợi quyết định.
Cuộc
hành quân Át-Lăng (Atland) là giai đoạn thứ nhất của kế hoạch Nava, nhằm chiếm
toàn bộ vùng tự do Nam Ngãi, Bình Phú của Liên khu 5. Kế hoạch được chia làm 3
bước:
Bước
một, từ 3 hướng: Đổ bộ từ biển vào, từ Khánh Hoà đánh ra và Đaklak đánh xuống
chiếm thị xã Tuy Hoà và tỉnh Phú Yên.
Bước
hai: Sau khi chiếm xong Phú Yên sẽ tăng thêm lực lượng đánh chiếm Quy Nhơn và
tỉnh Bình Định.
Bước
ba: Tập trung toàn bộ lực lượng đánh chiếm thị xã và tỉnh Quảng Ngãi, hoàn
thành mục tiêu đánh chiếm vùng tự do Nam Trung bộ của ta.
Tháng
9.1953, trên cơ sở phân tách một cách khoa học tình hình toàn chiến trường Đông
Dương. Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra phương châm chiến lược trong Đông
Xuân 1953 - 1954 là: "Tập trung lực lượng, mở cuộc tiến công vào những
hướng quan trọng về chiến lược, ở đó, địch đang trong thế tương đối yếu buộc
phải phân tán lực lượng đối phó với ta, tạo ra những điều kiện thuận lợi mới để
tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, giải phóng thêm đất đai. Đồng thời đẩy
mạnh chiến tranh du kích ở khắp vùng sau lưng địch, bảo vệ vùng tự do, tạo điều
kiện để quân chủ lực của ta rãnh tay tiêu diệt địch ở những hướng đã định".
Hướng tấn công chính được chọn là Tây Bắc. Dựa vào phương châm "tích cực,
chủ động, cơ động linh hoạt" của Bộ chính trị, một kế hoạch tác chiến có
quy mô toàn quốc và toàn chiến trường Đông Dương được xây dựng và được Bộ Chính
trị thông qua, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta; sức mạnh tổng hợp của sự liên minh chiến đấu giữa ba nước Việt Nam,
Lào, Cam-pu-chia, nhằm đánh bại kế hoạch tác chiến chiến lược Nava.
Trước
âm mưu đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5 của địch, tháng 12.1953, dựa theo
phương châm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Hội nghị Liên khu uỷ
và Đảng uỷ Bộ tư lệnh liên khu 5 quyết định, kiên quyết giữ vững chủ trương của
Bộ chính trị Trung ương Đảng và Bộ tổng tư lệnh, mạnh dạn tập trung chủ lực mở
đợt tấn công bất ngờ lên Bắc Tây Nguyên. Việc đối phó trực tiếp với chiến dịch
Át-Lăng của địch, do lực lượng địa phương tự đảm nhiệm. Đồng thời đề ra nhiệm
vụ cho các chiến trường vùng sau lưng địch phối hợp với chiến dịch Tây Nguyên,
đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá giao thông, bao vây đồn bót, đánh sâu
vào thị xã, thị trấn gây rối loạn ngay trong sào huyệt địch; đẩy mạnh công tác
binh vận, phá kế hoạch xây dựng ngụy quân của địch. Khi chủ lực đánh mạnh ở Tây
Nguyên, hoặc lúc địch đánh ra vùng tự do, phải tổ chức các đợt hoạt động mạnh,
kiềm giữ không cho địch rút lực lượng đi nơi khác, đồng thời lợi dụng lúc địch
sơ hở ra sức tiêu diệt sinh lực, mở rộng vùng du kích và vùng giải
phóng.".
Ở Khánh
Hoà, cuối năm 1953, đầu năm 1954, Tỉnh uỷ tổ chức học tập, truyền đạt quyết tâm
chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, của Liên khu uỷ và Đảng uỷ Bộ Tư
lệnh liên khu 5, động viên toàn Đảng bộ biến quyết tâm của cấp trên thành quyết
tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong tỉnh, thực hành thắng lợi những
nhiệm vụ của Liên khu uỷ và Đảng uỷ Bộ Tư lệnh liên khu 5 đề ra, góp phần đánh
bại kế hoạch Nava, trực tiếp là chiến dịch Át-lăng của địch.
Tỉnh
chọn Bắc Khánh là chiến trường chính, Nam Khánh là chiến trường phối hợp. Nhiệm
vụ quan trọng nhất của quân và dân Ninh Hoà, của các lực lượng vũ trang tỉnh
trên chiến trường Ninh Hoà là đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch, bám
tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch trên
quốc lộ 1 và quốc lộ 21, nhằm kìm chế địch hỗ trợ cho chiến trường Bắc Tây
Nguyên và các tỉnh vùng tự do đánh trả chiến dịch Át-lăng của địch. Đồng thời
động viên nhân tài vật lực giải quyết hậu cần tại chỗ, với khẩu hiệu "Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng". Vừa tấn công địch ở phía trước,
vừa bảo vệ và xây dựng vùng ta. Đánh địch kết hợp với phát triển toàn diện
phong trào đấu tranh của nhân dân, biến hậu phương địch thành tiền phương của
ta…
Về
địch, sau thắng lợi Xuân Hè của ta, địch dồn sức ổn định tình hình vùng chúng
kiểm soát, gấp rút cải tiến công sự các đồn bót. Ra sức xây dựng các trung tâm
hành chính khu vực. Trang bị súng cho bộ máy tề các thôn, ban đêm cụm bọn tề
ngụy địa phương vào các trung tâm hành chánh để bảo vệ tiếp tục kiểm soát dân,
đặc biệt là tiến hành bắt lính ồ ạt để xây dựng các tiểu đoàn chủ lực ngụy (các
tiểu đoàn khinh quân) để thay thế cho các đơn vị lính Âu-Phi rút tập trung theo
kế hoạch Na va, đồng thời cũng để đủ sức làm nhiệm vụ phía sau khi chiến dịch
Át-lăng của chúng nổ ra.
Về ta,
lực lượng vũ trang trên chiến trường Ninh Hoà lúc này gồm có: Đại đội 700 vùng
Tây quân số đủ 3 trung đội, Đại đội 900 vùng Đông, 2 trung đội, Đại đội 300
vùng Nam một trung đội. Lực lượng vũ trang tỉnh có 2 đại đội bộ binh (C200 và
C222) và Đại đội đặc công (2 trung đội). Mỗi xã có từ 1 đến 2 tiểu đội du kích.
Tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau rất lớn.
Trong
vùng địch kiểm soát, hoạt động đánh địch sau Hè của ta không giữ được liên tục,
nhưng phong trào đấu tranh và cơ sở cách mạng vẫn tiếp tục phát triển, công tác
động viên nhân tài vật lực thu nhiều kết quả. Đời sống nhân dân trong vùng địch
kiểm soát, cũng như trong 2 căn cứ kháng chiến Hòn Hèo và Đá Bàn được cải thiện
đáng kể, nhưng phong trào phát triển không đều. Vùng Nam huyện, thực lực cách
mạng và phong trào đấu tranh của nhân dân yếu, còn gặp nhiều khó khăn.
Một vấn
đề đặt ra cho các đảng bộ, quân và dân các vùng trong huyện là phải hoàn thành
nhiệm vụ trong một kế hoạch có tính chiến lược, quy mô toàn Liên khu, toàn quốc
trong điều kiện lực lượng địch trên địa bàn huyện rất đông, rất mạnh. Lực lượng
ta ở các vùng vừa tổ chức lại còn non yếu, trang bị không đồng bộ, điều kiện bổ
sung quân số còn khó. Lực lượng vũ trang tỉnh chỉ có 3 đại đội, phải cơ động
trên toàn chiến trường Bắc Khánh, và toàn tỉnh là một khó khăn gay gắt.
Để giải
quyết mâu thuẫn này, Ban cán sự các vùng trong huyện tổ chức quán triệt sâu sắc
tính chất thâm độc, nguy cơ kéo dài và mở rộng chiến tranh của kế hoạch Nava,
để động viên toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân Ninh Hoà biến quyết tâm chiến
lược của cấp trên thực sự thành quyết tâm của chính mình, để từ đó phát huy cao
nhất tinh thần tự lực tự cường và nổ lực vượt bậc của bản thân từng cá nhân,
từng đơn vị, cùng quân dân trong tỉnh, trong Liên khu và cả nước đánh bại kế
hoạch Nava, trực tiếp là kế hoạch Át-lăng của địch.
Đi đôi
với công tác chính trị tư tưởng, Tỉnh uỷ và Ban cán sự các vùng còn tiến hành
điều chỉnh đội ngũ cán bộ, theo hướng tăng cán bộ có năng lực, dù phải giáng
một cấp, xuống trực tiếp chỉ huy các đơn vị, nhằm tăng cường năng lực tác chiến
của các đơn vị vũ trang, theo tinh thần "Tất cả để chiến thắng". Ta
đang tiến hành bước chuẩn bị, trong vùng địch kiểm soát bỗng nhiên xôn xao tin
địch có âm mưu thừa thắng của chiến dịch Át-lăng, thực hiện lại chính sách bắt
dân ngủ đồn và tập trung lúa gạo. Nhận được tin này, cán bộ, đảng viên, chiến
sĩ trên toàn huyện, càng quyết tâm đánh bại chiến dịch Át-lăng của địch.
PHỐI
HỢP VỚI CHIẾN DỊCH BẮC TÂY NGUYÊN, VỚI CÁC TỈNH VÙNG TỰ DO LIÊN KHU V ĐÁNH BẠI CUỘC HÀNH QUÂN ÁT-LĂNG
CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG VÙNG NÔNG THÔN HUYỆN. HỖ TRỢ TÍCH CỰC CHO CHIẾN DỊCH ĐIỆN
BIÊN PHỦ.
Bước
vào Đông Xuân 1953-1954, trên chiến trường chính và cả nước dồn dập nổ súng tấn
công địch. Trong khí thế sôi nổi ấy, ngày 1.1.1954, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Liên
khu 5 tổ chức lễ phát động phong trào giết giặc lập công, giành cờ thưởng luân
lưu "quyết chiến, quyết thắng" của Hồ Chủ tịch.(36)
Cũng
trong tháng 1.1954, trong lúc ta đang tiến hành bước chuẩn bị, địch ồ ạt điều
động binh lực, phương tiện chiến tranh chuẩn bị mở màn cuộc hành quân Át-lăng.
Ninh Hoà được tỉnh tăng cường về một tiểu đội đặc công để phối hợp hoạt động.
Ta dự kiến địch có thể mở đợt tấn công trước căn cứ Đá Bàn, để phá trước kế
hoạch Đông Xuân của ta, và làm lạc hướng phán đoán của ta đối với thời điểm mở
đầu cuộc hành quân Át-Lăng của chúng. Theo chủ trương của Tỉnh uỷ và Ban Chỉ
huy Tỉnh đội, ta chủ động mở đợt hoạt động tấn công địch trước khi chúng tấn
công đánh chiếm Phú Yên. Trường hợp địch tấn công ta trước vào căn cứ Đá Bàn,
việc chống càn giao cho các lực lượng du kích và tự vệ các cơ quan trong căn cứ
đảm nhiệm. Các địa phương, đơn vị vũ trang tỉnh, huyện vẫn chủ động triển khai
đánh địch theo kế hoạch đã được giao.
Chấp
hành chủ trương của tỉnh, Đại đội 222 đưa quân ra vùng Bắc (Vạn Ninh). Ngày
9.1.1954, đánh trận Gành Bà trên Quốc lộ 1 (xã Vạn Khánh) diệt 2 xe quân sự
địch, sau đó mới biết là xe của viên quan ba Pháp tên là Mô-an (Moal) sĩ quan
tham mưu của Tiểu khu Khánh Hoà đi kiểm tra việc chuẩn bị cho cuộc hành quân
Át-Lăng từ Tu Bông chạy vào, diệt tại chổ tên Nguyễn Chánh, quận trưởng quận
Vạn Ninh và khoảng 1 tiểu đội lính bảo vệ, viên quan ba Mô-an chạy thoát, ta
thu một số vũ khí.
(36) Theo cuốn "Khu 5 – 30 năm chiến tranh giải phóng", ( tập I )
Đêm
11.1.1954, Đại đội 900 vùng Đông, phối hợp với Đại đội 200 và 2 tổ đặc công,
tập kích tiêu diệt trung tâm hành chánh Mỹ Lệ (nay thuộc xã Ninh Đa) bắt toàn
bộ tù binh, thu vũ khí (có 3 trung liên, 7 tiểu liên, 12 súng trường) riêng khẩu
đại liên bị khoá chặt, ta phá huỷ rồi rút quân. Bên ta không có thương vong.
Đêm
15.1, tuy địch phòng thủ rất nghiêm ngặt, Đại đội 700, phối hợp với tiểu đội
đặc công, tiêu diệt trung tâm hành chánh kiểu mẫu Đại Mỹ (Ninh Thân) diệt và
bắt sống một trung đội bảo an, một trung đội thiếu lính hương vệ và tề võ
trang, thu toàn bộ vũ khí. Bên ta đồng chí Đức tiểu đội trưởng Đại đội 700 bị
thương. Sau các tháp canh Tân Phong, Nhỉ Sự, nay đến Đại Mỹ, công sự đã được
gia cố, cải tiến cũng bị đánh sập, tề nguỵ hoang mang cực độ.
Sau hai
trận mở màn, ta tiêu diệt 2 trung tâm hành chánh kiểu mẫu của địch, ảnh hưởng
chính trị rất lớn đối với phong trào kháng chiến của nhân dân và tinh thần binh
lính địch. Địch bị đẩy lùi bước nữa vào thế bị động, lúng túng về biện pháp
kiểm soát dân của chúng. Thừa thắng về quân sự, nhân dân đứng lên đấu tranh
chống địch trên tất cả các mặt, nổi nhất là phong trào chống bắt lính, chống
thuế, chống vơ vét lúa gạo và phong trào đòi chồng, con, em trở về nhà của các
gia đình binh sĩ ngụy. Nhiều thôn, nhất là ở vùng Đông, địch không thu được
thuế, không đủ tiền trả lương cho binh lính, phong trào đào rã ngũ của quân
ngụy càng phát triển.
Để đối
phó, đồng thời cũng theo kế hoạch đã sắp sẵn, ngày 16.1, địch sử dụng một tiểu
đoàn cơ động Âu-Phi bí mật nhập rừng, xuyên núi từ xa, đánh vào phía sau các cơ
quan lãnh đạo và chỉ huy của ta ở căn cứ Đá Bàn. Một cánh quân từ chân dốc
Chanh tiến xuống đánh vào cơ quan Tỉnh uỷ, UBKCHC tỉnh. Một cánh tiến thẳng
xuống cơ quan Tỉnh đội ở phía nam Đá Trải (cơ quan đã dời vào khu Trung trước
đó). Tự vệ các cơ quan phát hiện đánh trả kịp thời, cơ quan di chuyển an toàn.
Riêng đồng chí Lương Văn Chỉ, Chánh Văn phòng UBKCHC tỉnh đang đi bên ngoài cơ
quan, hy sinh. Trong tình hình đó, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ cắt rừng đi sang cơ
quan Tỉnh đội để bàn kế hoạch đánh địch, trên đường đi bị địch phục kích, đồng
chí Hạnh, công vụ của đồng chí đi đầu hy sinh, đồng chí thoát được.
Cuộc
tấn công của địch, không thu hút được sự đối phó của các đơn vị vũ trang tập
trung tỉnh, không làm ảnh hưởng đến kế hoạch chủ động tiến công của ta, mà lực
lượng của chúng bị các tuyến bố phòng chông, mìn, cạm bẫy sát thương, bị du
kích và tự vệ trong căn cứ bám tiêu hao nhiều tên. Không đạt được mục đích,
chúng rút quân về trung tâm quận lỵ, ngay đêm đó (16.1) đại đội 200 phối hợp
với trung đội trinh sát đứng chân ở địa bàn khu phố tập kích cụm địch đóng dã
ngoại sau chùa Bà thôn Vĩnh Phú (Thị trấn) diệt và làm bị thương hàng trăm tên,
thu 50 súng các loại và nhiều ba-lô quân trang. Trận tấn công của địch bị thất
bại cay đắng.
Ngày
20.1.1954, 22 tiểu đoàn quân Pháp, có máy bay, chiến xa yểm trợ đánh ra Phú Yên
mở đầu cuộc hành quân Át-lăng. Để bảo vệ các tuyến giao thông chiến lược từ
Khánh Hòa ra Phú Yên và lên Tây Nguyên, địch sử dụng lực lượng các đồn bót đóng
trên quốc lộ 1 và 21, cộng với 2 tiểu đoàn khinh quân (chủ lực ngụy) có xe
thiết giáp yểm trợ hàng ngày rải quân canh gác, bảo vệ các đoạn đường xung yếu.
Tiểu đoàn khinh quân số 7 chốt giữ đoạn đường đèo Dốc Đất trên quốc lộ 21 (từ
km 24 đến km 30). Một đại đội của tiểu đoàn khinh quân số 9 đóng ở chi khu Lạc
An (đồn Lạc Ninh) bảo vệ Quốc lộ 1 từ dốc Đá Trắng đến dốc Thị huyện Vạn Ninh.
Thực
hiện kế hoạch phối hợp chiến dịch, quân và dân Ninh Hòa phối hợp với các đại
đội bộ binh và đặc công tỉnh đứng chân trên địa bàn huyện, đẩy mạnh hoạt động
đánh phá giao thông, tấn công đồn bót, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, kìm chân
địch hỗ trợ cho chiến trường Bắc Tây Nguyên và tỉnh Phú Yên đánh trả cuộc hành
quân Át-lăng của địch.
Giữa
tháng 2.1954, trên Quốc lộ 21, Đại đội 222 của tỉnh phối hợp với du kích và
đồng bào dân tộc xã Y-Bút (nay là xã Ninh Tây) chiếm giữ đoạn đường đèo Dốc Đất
đánh địch chi viện lên chiến trường Bắc Tây Nguyên. Ban ngày lực lượng ta bám
mép đường đánh bộ binh địch lên giải tỏa, ban đêm đào phá đường, đốn cây ngã trên
mặt đường làm vật cản. Đêm ngày 27.1.1954, chiến dịch Bắc Tây Nguyên mở màn,
chủ lực Liên khu tiêu diệt một loạt cứ điểm phòng thủ kiên cố nhất của địch ở
phía Bắc thị xã Kom-Tum. Trên đèo Dốc Đất, địch kéo pháo 75 ly lên cầu Suối
Chình (km24) bắn phá dữ dội vào trận địa phục kích của ta, đồng thời cho bộ
binh có xe thiết giáp yểm trợ tiến lên chiếm lại đoạn đường đèo, để đưa quân
chi viện lên Tây Nguyên, bị lực lượng ta đánh trả quyết liệt. Hàng binh đoàn cơ
động địch với hàng trăm xe pháo chi viện lên Tây Nguyên bị ùn tắt dưới chân
đèo. Quốc lộ 21 bị tắt nghẽn nhiều ngày liền.
Cuối
tháng 2.1954, trên quốc lộ 1, đoạn giữa Ninh Hòa và Vạn Giã, đại đội 222 của
tỉnh đánh trận Lán Chu, tiêu diệt một xe quân sự của chi khu Lạc Ninh chở quân
gác đường từ cầu Nước mặn trở về đồn, diệt tại chổ 11 tên, bắt sống 28 tên, thu
toàn bộ vũ khí, có 2 trung liên.
Ngày
12.3.1954, địch đổ bộ lên thị xã Quy Nhơn, đánh chiếm tỉnh Bình Định. Trên
chiến trường chính Bắc Bộ, ngày 13.3 quân chủ lực ta mở màn chiến dịch, tấn
công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ở Khánh Hòa, đêm ngày 25.3, ta tiêu diệt
cứ điểm Cầu Đúc (Vạn Ninh) cắt đứt Quốc lộ 1.
Ở Ninh
Hòa, Đại đội 700 (vùng Tây) phối hợp với công binh tỉnh tập kích tiêu diệt lực
lượng bảo vệ và đánh gãy cầu Bếnh Gành trên quốc lộ 21, cách quận lỵ 2 km, cắt
đứt hoàn toàn quốc lộ này mấy ngày liền gây cho địch hết sức khốn đốn.
Cuối
tháng 3.1954, sau trận đánh giao thông trên Quốc lộ 1 (tại hòn Xang xã Ninh
Quang) Đại đội 200, ban ngày rút quân về nghĩ trưa tại Bến Trâu, thôn Ngũ Mỹ (nay
thuộc xã Ninh Xuân). Địch phát hiện lực lượng ta rút về hướng này, chúng sử
dụng tiểu đoàn cơ động chi khu hành quân bao vây tiêu diệt lực lượng ta. Đại
đội 200 đã kịp thời triển khai lực lượng chận đánh, diệt và làm bị thương tại
trận 20 tên, bắt sống 26 tên, thu toàn bộ vũ khí. Đêm đó, địch ở Chi khu Tân
Hưng (Ninh Hưng) hoảng hốt, bỏ đồn rút chạy về quận. Ban cán sự vùng Nam huyện
đưa toàn bộ lực lượng vũ trang (C300) và cán bộ các xã ban ngày về đóng trong
làng phát động và tổ chức cho nhân dân làm nhiệm vụ kháng chiến, xây dựng cơ
sở, tuyển thanh niên bổ sung lực lượng.
Lúc
này, ở mặt trận Điện Biên Phủ bước vào đợt 2, quân chủ lực Liên khu 5, sau giải
phóng tỉnh Kom-tum đang bao vây thị xã Plây-ku, các chiến trường vùng sau lưng
địch trên cả nước tấn công địch thắng lợi dồn dập. Đại đội 222 của tỉnh, sau
trận phối hợp tiêu diệt đồn Cẩm Sơn (Diên Khánh) được lệnh rút quân về lại Ninh
Hòa tiếp tục kìm chế địch, cắt đứt tiếp quốc lộ 21. Bằng hình thức chiến thuật
vây đồn diệt viện, đơn vị tổ chức bao vây bức rút chi Khu Dục Mỹ (cây số 12,
quốc lộ 21). Địch điều tiểu đoàn cơ động chi khu Ninh Hòa hành quân bằng cơ
giới, có thiết giáp yểm trợ lên giải tỏa. Tại đèo Cạnh, đơn vị chận đánh diệt 3
xe, có 1 thiết giáp, diệt và làm bị thương 1 đại đội, bắt 3 tù binh, thu một số
vũ khí, trong đó có khẩu trọng liên 12 ly 7. Địch đồn Dục Mỹ tháo chạy, ta thu
hàng chục tấn đạn các loạt và nhiều quân dụng khác. Địch điều tiếp trung đoàn
42 ngụy đang đóng tại Ninh Hòa hành quân giải tỏa, vừa lên đến cây số 5 (vường
Gòn, xã Ninh Xuân) binh lính ngụy phản chiến, mang súng chúc đầu xuống kéo về
lại quận lỵ, gây hoang mang lớn trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền địa
phương.
Trận
đánh đèo Cạnh thắng lợi oanh liệt, đơn vị bức rút được đồn, diệt được viện,
thực hiện thắng lợi mệnh lệnh của cấp trên, được Ban Chỉ huy Tỉnh đội tuyên
dương công trạng tập thể đơn vị và cá nhân đồng chí diệt thiết giáp địch.
Sau
trận đèo Cạnh, đêm ngày 4.6.1954, Đại đội 700 và dân quân du kích xã Ninh Phước
(nay thuộc 2 xã Ninh An, Ninh Thọ) phối hợp với các đại đội bộ binh và đặc công
tỉnh tấn công tiêu diệt Chi khu Lạc Ninh. Đây là cụm cứ điểm thuộc loại mạnh,
có hệ thống công sự phòng thủ đồ sộ và kiên cố nhất ở phía Bắc tỉnh, cũng là cứ
điểm gây nhiều tội ác nhất đối với nhân dân do tiểu đoàn số 9 chủ lực ngụy đóng
giữ. Trận đánh diễn ra nhanh gọn, nhiều binh lính địch ra chưa đến công sự đã
chết và bị thương; đài truyền tin địch chưa kịp báo về trung tâm chi khu đã bị
ta đánh chiếm. Chỉ sau 30 phút ta làm chủ hoàn toàn trận địa. Địch chết và bị
thương hơn 200 tên, ta bắt sống 30 tên, thu toàn bộ vũ khí, trong đó có khẩu
đại bác 75 ly. Ta dùng chiếc xe quân sự thu được tại đồn và hàng trăm dân công
thu dọn chiến trường chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ Đá Bàn. Bên ta 3 chiến sĩ
bị thương nhẹ.
Chi khu
Lạc Ninh bị diệt gọn làm rung chuyển toàn bộ hàng ngũ địch trong vùng. Bộ máy
tề các xã tan rã, 10 đồn bót và tháp canh địch trong khu vực tháo chạy về quận
lỵ, các xã phía Bắc huyện được giải phóng. Hàng ngàn nhân dân và du kích xã
Ninh Phước được huy động tháo dỡ đường sắt, đào phá, đắp chướng ngại vật dày
đặc trên Quốc lộ 1, đoạn từ đèo Hà Thanh đến dốc Giồng Thanh, cắt đứt hoàn toàn
đoạn quốc lộ này. Huyện Vạn Ninh bị chia cắt khỏi tiểu khu, địch phải tiếp tế
cho lực lượng của chúng ở đây bằng đường biển cho đến tháng 7.1954.
Tiêu
diệt Chi khu Lạc Ninh, cắt đứt Quốc lộ 1, quân và dân trên chiến trường Ninh
Hòa hoàn thành xuất sắc mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh liên khu 5, phối hợp và hỗ trợ
đắc lực cho các tỉnh vùng tự do Liên khu 5 trực tiếp là tỉnh Phú Yên đánh bại
mưu đồ mở rộng chiếm đóng của cuộc hành quân Át-lăng của địch, đồng thời tạo
bước chuyển biến quan trọng cục diện tình hình và tương quan thế và lực giữa ta
và địch trên chiến trường huyện, phong trào kháng chiến của nhân dân phát triển
nhảy vọt.
Ở vùng
Đông và vùng Nam huyện, sau khi địch bỏ đồn bót và rút chạy về quận lỵ. Ban cán
sự các vùng lập tức đưa toàn bộ lực lượng xuống đứng ở đồng bằng phát động nhân
dân thành lập chính quyền kháng chiến, phát triển lực lượng chính trị, vũ trang
và bán vũ trang, tổ chức hướng dẫn nhân dân làm nhiệm vụ kháng chiến. Bằng đấu
tranh chính trị, binh vận tấn công phá rã hàng ngũ địch; trừ gian đánh địch đưa
cuộc kháng chiến áp sát quận lỵ.
Nơi còn
đồn như vùng Tây, Ban Cán sự sử dụng lực lượng vũ trang (C700) và dân quân du
kích đào công sự bao vây ban đêm kể cả ban ngày đồn Phú Sơn, Quảng Cư bắn tỉa,
pháo kích, đánh quân đi lấy nước uống, đi vận chuyển hàng tiếp tế… Địch chỉ lo
phòng thủ và lo việc tiếp tế, vùng dân cư xung quanh ta làm chủ, xây dựng thực
lực và huy động sức dân vào công cuộc kháng chiến.
Đến lúc
này, tinh thần tề ngụy hoang mang rệu rã, chúng đào ngũ, bỏ việc hàng loạt,
từng tiểu đoàn, trung đoàn phản chiến không chịu ra trận, vũ khí mang về cho
kháng chiến hàng trăm khẩu, có cả trung, tiểu liên. Địch không còn kiểm soát
được dân, bắt được lính, thu được thuế, phải rút bỏ một số đồn bót lấy lực
lượng tăng cường phòng thủ quận lỵ, bảo vệ giao thông, tham vọng phát triển
ngụy quân, mở rộng chiếm đóng theo kế hoạch Na-va bị phá sản về cơ bản.
Nhân
dân nhiều năm liền sống trong cảnh "cá chậu chim lồng", nay được giải
phóng rất phấn khởi, đã hưởng ứng chủ trương của cách mạng, Đảng đứng lên tham
gia kháng chiến rất mạnh mẽ và sôi nổi. Nhân dân thức thâu đêm tham dự mét
tinh, sinh hoạt đoàn thể, huy động lương thực, thực phẩm, đi dân công phá hoại
cầu đường, vận chuyển lương thực, vũ khí cho kháng chiến, hàng trăm thanh niên
thoát ly gia nhập bộ đội. Số lương thực, thực phẩm do dân đóng góp, thu mua đủ
cung cấp cho toàn bộ lực lượng kháng chiến đứng trên địa bàn Bắc Khánh, còn có
dự trử cho nhiều tháng tiếp theo. Trong lúc Khánh Hòa không còn nguồn lương
thực chi viện của Liên khu (do vùng tự do bị địch tấn công), Ninh Hòa đáp ứng được yêu cầu này là một sự
đóng góp có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong
lúc đó, quân Pháp và ngụy quyền tay sai ngày càng lầm vào tình thế hết sức khốn
đốn. Binh lính địch quê Ninh Hòa bị thương và chết trận ở các chiến trường
trong Liên khu đưa về địa phương và gia đình ngày một nhiều. Số tàn quân thoát
chết chạy về quê đưa tin thất trận và cảnh chết chóc khủng khiếp của địch ở các
mặt trận, làm rúng động tinh thần tề ngụy địa phương. Tình hình ấy, cùng với sự
tuyên truyền vận động của ta đã dấy lên phong trào đấu tranh chống địch của các
gia đình binh sĩ ngụy rất rộng rãi và quyết liệt.
Tại
quận đường, hằng ngày có hàng trăm gia đình binh sĩ ngụy kéo lên la khóc, tố
cáo tội ác và đấu tranh đòi ngụy quyền bồi thường nhân mạng cho người thân bị
địch cưỡng bức đi lính, chết trận, vạch mặt bọn tay sai ăn quỵt tiền lương,
tiền tuất của con em họ, chận xe giành lại người thân không cho địch đưa ra
chiến trường, làm náo động từ trong quận đường, ngoài phố cho đến cả vùng nông
thôn.
Trước
tình hình đó quân Pháp và ngụy quyền tay sai chê trách, đổ lỗi cho nhau, mâu
thuẫn giữa chúng càng thêm gay gắt. Nội bộ chúng phân hóa nghiêm trọng, mạnh ai
nấy thủ thế chờ thời, một số trở cờ chạy sang thế lực thân Mỹ, một số ngã về
phía kháng chiến, không còn ai dám tin ai. Bộ máy ngụy quyền quận mất dần hiệu
lực, tề cơ sở tan rã. Địch lâm vào tình thế khủng hoảng trầm trọng.
Để đẩy
địch lún sâu hơn nữa vào thế thất bại. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và mệnh
lệnh của Ban Chỉ huy Tỉnh đội, đêm ngày 8.7.1954, Đại đội 900 (vùng Đông) và
dân quân Đại đội 222 bộ binh và đại đội đặc công tỉnh tập kích tiêu diệt đồn
Thương Chánh Hòn Khói. Chỉ 20 phút ta đã giải quyết xong mục tiêu, làm chủ trận
địa, bắt tù binh, thu toàn bộ vũ khí, trong đó có 3 khẩu đại liên, 3 khẩu trung
liên và một số bạc Đông Dương.
Sáng
ngày 9.7, binh lính các đồn Mỹ Lương, Phú Thọ và các tháp canh trong khu vực,
có 2 thiết giáp yểm trợ, rút chạy về quận lỵ. Máy bay trực thăng của Tiểu khu
từ Nha Trang hối hả bay ra bốc lính đồn Hòn Cổ về Nha Trang, khu Hòn Khói được
giải phóng.
Theo kế
hoạch, sau giải phóng Hòn Khói, ta đánh chiếm tiếp Nhà lao Ninh Hòa, giải thoát
toàn bộ tù chính trị bị địch giam giữ tại đây về căn cứ nhằm chặn âm mưu sát
hại tù nhân của địch. Theo tin từ Chi bộ nhà lao báo ra là địch đang phân loại,
nhốt riêng 200 tù chính trị chúng cho thuộc loại nguy hiểm, thành phần là cán
bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước trung kiên của ta trước đây.
Nhà lao
nằm trên nền đất của hãng rượu Nhiêu Bá (nay thuộc khu vực Đài Truyền thanh -
tiếp hình huyện lên đến đầu cầu Dinh), lực lượng địch chỉ có một trung đội
người dân tộc thiểu số, công sự phòng thủ không kiên cố lắm. Nhưng vị trí nhà
lao nằm sâu trong trung tâm quận lỵ, trong trung tâm hệ thống phòng thủ đông
dày lực lượng và đồn bót địch và giữa khu dân cư đông đúc, hệ thống điện bảo vệ
sáng như ban ngày, đánh nhanh, kết thúc nhanh trận đánh và đưa gần 700 tù chính
trị thoát ra vòng ngoài an toàn, trước khi quân chi viện của địch đến là nhiệm
vụ rất quan trọng và cực kỳ khó khăn.
Tuy
vậy, nhiệm vụ giải thoát tù chính trị đang đứng trước nguy cơ bị địch sát hại
cũng là tình cảm rất bức xúc của lực lượng vũ trang, cho nên từ cán bộ đến
chiến sĩ tham gia trận đánh, ai nấy đều quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ rất cao.
Bằng
một kế hoạch tác chiến quy mô, bao gồm lực lượng nhiều đại đội của huyện, của
tỉnh như: Đại đội 222 bộ binh, Đại đội đặc công, Trung đội trinh sát tỉnh, các
đại đội 700, 900 địa phương huyện và du kích xã Hòa Nghĩa, cùng một lúc tấn
công vào nhiều mục tiêu trên một không gian rộng từ quận lỵ đến nông thôn nhằm
chia cắt, nghi binh đánh lạc hướng, phân tán sức mạnh của địch hỗ trợ cho mục
tiêu chính hoàn thành nhiệm vụ; và bằng chiến thuật đặc công kết hợp với xung
kích bộ binh, lúc 23 giờ 30 phút đêm ngày 10.7.1954, ta tấn công đánh chiếm mục
tiêu Nhà lao. Cùng lúc tập kích tiêu diệt cụm địch bảo vệ cầu, đánh gãy cầu Dinh,
pháo kích đồn Phú Sơn… chỉ từ 3 đến 5 phút ta đã đè bẹp sự kháng cự của địch,
làm chủ hoàn toàn khu vực Nhà lao, phá cửa phòng giam, đưa toàn bộ số tù chính
trị thoát ra ngoài, số anh chị bị tê bại được dìu và cõng rút theo.
Vừa ra
khỏi nhà lao, thiết giáp địch đã đến đầu cầu phía Nam (do ta chưa kịp đánh) cầu
gãy không sang được, chúng bắn sang, lửa đạn đỏ rực phía bờ Bắc, pháo chi khu
bắn cấp tập chặn đường rút của ta về hướng núi Ổ gà và Đá Bàn. Gần 700 tù chính
trị được bộ đội hướng dẫn men theo bờ sông Dinh rút xuống thôn Văn Định Hạ, về
Hòn Hèo an toàn, không sót người nào và không có ai thương vong. Bên ta chỉ có
3 chiến sĩ bị thương nhẹ. Trận đánh thắng lợi rất xuất sắc, để lại trong lòng
nhân dân và những người tù chính trị một tình cảm và ấn tượng rất sâu sắc đối
với bộ đội cách mạng, "Bộ đội Cụ Hồ".
Trận Nhà
lao kết thúc thắng lợi, các anh chị tù chính trị vừa được đưa lên căn cứ Đá
Bàn, ngày hôm sau địch mở cuộc càn vào Hòn Hèo, truy theo lực lượng ta. Nhằm
lúc Ban Cán sự vùng Đông đang huy động hàng trăm dân công chuẩn bị vận chuyển
gạo và muối lên căn cứ Đá Bàn, đang tập trung tại hội trường Hòn Ngang. Chúng
chia nhiều cánh tiến lên hòn Ngang. Cánh quân phía Tây, từ thôn Tiên Du theo
đường dốc Sơn tiến lên, bị Đại đội 900 phát hiện chặn đánh tại cầu Gũ đầu Hòn
Ngang, diệt nhiều tên. Bên ta một chiến sĩ hy sinh, một số đồng chí bị thương,
trong đó có đồng chí Châu Võ, Đại đội trưởng. Đoàn dân công được bảo vệ an
toàn, tiếp tục làm nhiệm vụ.
Sau
trận giải phóng Nhà lao Ninh Hoà, trung tâm sào huyệt địch mất an toàn. Đich
rút bỏ đồn Phú Sơn, đưa thêm lực lượng về tăng cường phòng thủ quận lỵ. Chúng
cho xe thiết giáp lên thôn Phước Thuận đón về, thiết giáp địch lên đến gò Khẹt
(nay là khu vực trụ sở xã Ninh Đông) bị du kích xã chận đánh. Địch đồn Phú Sơn
không dám rút. Ngày hôm sau địch sử dụng lực lượng đồn Quảng Cư hành quân yểm
trợ phía Tây chúng mới dám về. Nhưng rút xuống đến gò Dinh, thôn Phú Văn (Ninh
Trung) gặp đại đội 700 phối hợp với một tiểu đội du kích xã Liên An chặn đánh, địch chống trả quyết
liệt, mở đường máu rút chạy về quận. Địch bị tiêu hao nhiều tên, bên ta hai
chiến sĩ hy sinh, một bị địch bắt.
Lúc này
ở chiến trường phối hợp Nam Khánh, lực lượng ta tiến công địch, giành chiến
thắng liên tiếp. Hàng ngàn quân chúng Nha Trang xuống đường đấu tranh chống bắt
lính, đòi ký hiệp định vãn hồi hoà bình cho Việt Nam. Ở các tỉnh phía Bắc, chủ
lực liên khu sau các trận diệt địch ở suối Cối, Phong Niên, đang tập kích vào
nhiều mục tiêu trong thị xã Tuy Hoà, thị xã Pleiku. Bộ phận đi trước của chủ
lực triển khai vào phía Nam Tây Nguyên, phía Đông Đaklak. Địch vội vã điều lực
lượng phòng giữ hướng này.
Huyện
Ninh Hoà và các lực lượng tỉnh gồm Đại
đội 222 và Đại đội 230 (vừa mới thành lập) được lệnh chuyển lực lượng lên phía
Tây và Tây Nam huyện, phối hợp bao vây bức rút tiếp đồn Dục Mỹ (địch vừa đóng
lại), đồng thời cơ động lực lượng sẵn sàng tiêu diệt tiểu đoàn cơ động địch có
thể nống ra giải toả từ hướng này. Đại đội đặc công tiến hành trinh sát, khảo
sát thực địa cứ điểm trung tâm chi khu và đồn đèo Rọ Tượng, chuẩn bị phương án
tác chiến tiếp theo.
Thực
hiện lệnh của Ban chỉ huy Tỉnh đội, ngày 14.7.1954, Đại đội 230, sử dụng toàn
bộ lực lượng vây chặt đồn Dục Mỹ, dùng hoả lực trung liên, cối 60 ly khống chế,
uy hiếp tinh thần địch, kêu gọi chúng đầu hàng. Đại đội 222 cơ động đóng quân ở
các thôn phía Tây xã Hoà Dũng cùng với du kích sẳn sàng tiêu diệt viện binh
địch.
Trong
trận bị bao vây lần này, địch không dùng bộ binh lên giải toả, mà dùng súng cối
bắn dồn dập ra bên ngoài đồn, và dùng 2 máy bay khu trục (Spitfire) từ Nha
Trang luân phiên nhau ra dội bom xăng và bắn phá dữ dội xuống xóm nhà trước
cổng đồn, để giải toả lực lượng ta, mở đường cho quân đồn Dục Mỹ rút chạy về
quận.
Nhân
dân xóm đồn thôn Tân Mỹ (Dục Mỹ), trong đó phần lớn là gia đình tề ngụy kéo
nhau chạy vào đồn để tránh bom đạn. Địch đóng cổng đồn không cho vào. Nhân dân
chạy xuống ẩn núp dưới cống đầu xóm trên quốc lộ 21, bị máy bay địch phóng róc-két
theo. Xóm đồn gồm 30 gia đình bị hủy diệt hoàn toàn, 56 người bị sát hại, có gia
đình 9 người bị chết cháy dưới hầm, chưa kể số lao động ở các xã đến làm cũi
tạm trú tại đây. Nhân lúc nhân dân chạy tán loạn, địch bắt dân xen vào đội hình
của chúng rút chạy về quận. Đại đội 230, cho một trung đội đuổi theo đón đầu
tiêu diệt. Đến cây số 7 dưới đèo Cạnh, đơn vị vừa triển khai đội hình, thì địch
cũng vừa xuống đến. Nhưng trong đội hình địch chen lẫn nhiều đồng bào ta, đơn
vị không thể nổ súng, đành để chúng chạy thoát, ta vào kiểm soát đồn, dùng xe
bò chở đạn địch còn bỏ lại, nhiều nhất là đạn súng cối 80 ly về xã Ninh Thượng.
Ta bứt
đồn Dục Mỹ rút chạy lần thứ 2, Quốc lộ 21 tiếp tục bị cắt đứt, các đơn vị vũ
trang tỉnh, huyện hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bên ta một tân binh hy sinh, nhưng
địch sát hại trên 56 đồng bào thôn Tân Mỹ. Ta đã không lường hết được mức độ dã
man, tàn bạo, có tính diệt chủng của giặc Pháp.
Hàng
năm đến ngày 15 tháng 7.1954, (nhằm ngày 16.6 âm lịch) ngày giỗ những người bị
địch sát hại, nhân dân thôn Tân Mỹ tưởng nhớ đến người thân, lòng tràn đầy uất
hận, thề không đội trời chung với thực dân, đế quốc.
Sau khi
đồn Dục Mỹ rút chạy, Đại đội 222 chuyển sang đóng quân ở xã Hoà Liêm, chờ sự
chuẩn bị của đơn vị đặc công, thì Hiệp định Genèvơ được ký kết, cuộc chiến đấu
của quân và dân Ninh Hoà chuẩn bị chuyển sang thời kỳ chiến đấu mới.
Hơn 6
tháng chiến đấu liên tục không ngơi nghỉ trong Chiến dịch Xuân Hè năm 1954,
trên chiến trường chính của tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, của Ban cán sự
Đảng các vùng, quân và dân Ninh Hoà, phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh
trên địa bàn, đã tiêu diệt, bức rút gần như toàn bộ hệ thống đồn bót của địch ở
vùng nông thôn, trong đó có các cứ điểm chi khu, phân chi khu rất mạnh do chủ
lực ngụy đóng giữ (Lạc Ninh), một số đồn bót nằm sâu trong sào huyệt địch cũng
bị ta diệt gọn. Hiệu suất chiến đấu của bộ đội ta rất cao, không có chiến sĩ
nào hy sinh trong các trận diệt đồn. Ưu thế thiết giáp của địch bị bộ binh ta
tiêu diệt. Sinh lực địch vừa bị diệt, bị thương, bị bắt sống, vừa đào rã ngũ
hàng ngàn tên. Ta thu hàng ngàn súng các loại, có cả đại liên, trọng liên 12 ly
7, súng cối, đại bác 75 ly. Giải phóng toàn bộ vùng nông thôn, đưa cuộc kháng
chiến áp sát quận lỵ.
Đến
tháng 7.1954, trên địa bàn Ninh Hòa chỉ còn đồn Quảng Cư, đồn giao thông đèo Rọ
Tượng và cụm cứ điểm chi khu nằm sâu trong quận lỵ như một ốc đảo. Viên cảnh
sát trưởng kiêm quận trưởng quận Ninh Hoà Nguyễn Tấn Trạch ra đầu hàng chính
quyền kháng chiến. Hậu phương địch trở thành vừa là tiền tuyến, vừa là hậu
phương của ta. Nhân dân hết sức vui mừng, đứng lên chống địch, làm nhiệm vụ
kháng chiến với khí thế cách mạng rất mạnh mẽ và sôi nổi. Hàng trăm thanh niên
hăng hái tòng quân gia nhập bộ đội, hàng ngàn lượt dân công hăm hở đi phá hoại
giao thông, vận chuyển lương thực, thực phẩm lên căn cứ. Nhân dân, nhất là
những gia đình tề ngụy hăng hái lập công, đóng góp nhiều công của cho kháng
chiến. Lực lượng vũ trang huyện qua chiến đấu trưởng thành nhanh chóng cả về số
lượng và chất lượng. Tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể được củng cố, phát
triển rộng rãi và vững chắc, cán bộ trưởng thành nhiều mặt. Sự lãnh đạo của
Đảng càng dày dạn kinh nghiệm.
Xuân Hè
năm 1954, là thời kỳ chiến công nối tiếp chiến công, thời kỳ rực rỡ nhất trong
cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân Ninh Hòa và các lực lượng vũ trang
tỉnh trên địa bàn. Đã để lại niềm tin sâu sắc đối với cách mạng, đối với sự
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với "bộ đội Cụ Hồ",
tạo tiền đề quan trọng để Ninh Hòa tiếp tục chiến thắng.
Với
những thành tích ấy, Ninh Hòa góp phần rất xứng đáng để Khánh Hòa được Bộ Tư
lệnh liên khu 5 tặng cờ "đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Xuân Hè
1954", mà nguyên nhân, ngoài yếu tố lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tinh thần
cách mạng mạnh mẽ của nhân dân, còn do tinh thần chiến đấu của bộ đội ta rất
dũng cảm, ngoan cường, luôn đoàn kết nêu cao ý thức tự lực tự cường, chịu đựng
gian khổ, khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm túc và triệt để mệnh lệnh của
cấp trên, liên tục tấn công địch. Nhiều trường hợp nhận lệnh tác chiến theo địa
chỉ và thời gian chỉ định của chiến dịch, chưa có sự chuẩn bị chiến trường,
nhưng các đơn vị vẫn nổ lực chấp hành, tự tạo điều kiện vừa đánh vừa tìm hiểu
địch, vừa giải quyết lương thực, để hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt là chiến
thuật đặc công, đơn vị đặc công, do đồng chí Nguyễn Cụ chỉ huy, trong thực tế
đã giữ vai trò quyết định trong nhiệm vụ tiêu diệt đồn địch.
Sau kết
thúc thắng lợi thời kỳ kháng chiến chống Pháp đồng chí Nguyễn Cụ được Nhà nước
phong tặng danh hiệu cao quý "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".
Các đồng chí Phạm Đình Ý, Lê Sơn Hổ, Nguyễn Tâm… là những cán bộ chỉ huy đặc
công rất xuất sắc, đã anh dũng hy sinh trong thời kỳ chống Mỹ, càng làm rạng rỡ
truyền thống anh hùng cách mạng cao đẹp của quân và dân Ninh Hòa.
HIỆP ĐỊNH GENÈVE VÀ CHUYỂN QUÂN TẬP KẾT
Giữa
tháng 7.1954, cuộc chiến đấu của quân và dân Ninh Hòa đang trên đà thắng lợi
giòn giã, thì ngày 20.7.1954, Hiệp định Genève về vấn đề Đông Dương được ký
kết. Nước Pháp và các nước dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia, ngừng bắn ở Việt
Nam và toàn cỏi Đông Dương. Pháp rút quân, vĩ tuyến 17 là giới tuyến tạm thời,
sau hai năm sẽ hiệp thương tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7.1956
thống nhất nước nhà.
Hưởng
ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, quân và dân Ninh Hòa
thi hành Hiệp định Genève, thực hiện đình chiến, chuyển quân tập kết và bắt đầu
cùng đồng bào miền Nam đi vào một bước ngoặt lịch sử mới, tiến hành cuộc đấu
tranh giải phòng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà theo đường lối
của Đảng và Chính phủ.
Trong
những ngày này, nhân dân Ninh Hòa không phân biệt có quan hệ bên này hay bên
kia, lương hay giáo, đều treo cờ đỏ sao vàng trước nhà để mừng đón hòa bình.
Ngày 23.7.1954, phái đoàn Ban liên hợp đình chiến Trung ương, do đồng chí Mai
Dương làm trưởng đoàn vào Khánh Hòa để truyền đạt nội dung thi hành Hiệp định
Genève, và chuyển quân tập kết, những chỉ thị về nhiệm vụ đấu tranh chính trị
để thống nhất nước nhà. Máy bay trực thăng chở phái đoàn vừa đáp xuống một địa
điểm ở thôn Ngọc Sơn (nay thuộc xã Ninh An), đồng bào tay cầm cờ đỏ sao vàng
kéo đến đón phái đoàn rất đông, hai viên phi công sợ hải lái máy bay chuồn ngay
về Nha Trang.
Sau
ngày 1.8.1954, ngày Hiệp định Genève có hiệu lực, tổ Liên hiệp đình chiến giữa
ta và quân đội Liên hiệp Pháp bắt đầu làm việc, trụ sở liên lạc đặt tại thôn
Lạc Ninh, sát quốc lộ 1, để bàn việc thi hành hiệp định, chuyển quân tập kết và
việc bảo đảm thi hành các điều khoản không trả thù và phân biệt đối xử với
người kháng chiến cũ…
Tổ liên
hiệp đình chiến đầu tiên của ta gồm: Đồng chí Lưu Văn Trọng, Nguyễn Thặng, Võ
Hòa, Giang Nam, Nguyễn Ngọ. Đồng chí Lưu Văn Trọng được giới thiệu quân hàm thiếu
tá làm Trưởng đoàn sĩ quan liên lạc của ta.
Trong
lần gặp đầu tiên giữa hai đoàn sĩ quan liên lạc, đoàn Pháp tỏ ý lo ngại việc
tập họp nhân dân biểu tình như ở Triều Tiên năm 1953 và việc thi hành ngừng bắn
của du kích Việt Minh, thực tâm chúng rất sợ phải đi qua đoạn đường vùng du
kích xã Ninh Phước (Ninh An, Ninh Thọ). Nhưng lần họp sau chúng tỏ ra ngạc
nhiên về tính kỷ luật của du kích Việt Nam, thi hành lệnh ngừng bắn rất nghiêm
túc, rất thống nhất trên toàn cỏi Việt Nam, không khác một quân đội chính quy.
Điều đó, theo chúng nói là rất hiếm có trên thế giới.
Trong
lúc tổ Liên hiệp đình chiến giữa ta và Pháp liên lạc làm việc tại Lạc Ninh,
ngụy quyền quận Ninh Hòa không được Pháp thông báo hay bàn bạc gì trước. Bộ mặt
bù nhìn tay sai của chúng bị phơi bày trơ trẽn, bị nhândân mĩa mai, chế giễu, chúng rất bất bình và xấu hỗ. Mâu thuẫn giữa ngụy
và Pháp thêm gay gắt.
Trong
những ngày này, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban cán sự vùng Tây đã huy động hàng trăm dân công của
xã Ninh Phước chỉ 2 ngày, đã vận chuyển 200 tấn vũ khí và quân dụng loại nặng,
từ căn cứ Đá Bàn xuống Bến Quế (Xuân Mỹ, Ninh Thọ) đưa xuống thuyền chuyển ra
vị trí tập kết Quy Nhơn (Bình Định) để chuyển ra miền Bắc. Cùng chuyến đi có 50
thương binh và các cháu thiếu nhi đi tập kết.
Tranh
thủ 15 ngày dành cho chuyển quân tập kết, Tỉnh ủy, Ban cán sự Đảng các vùng của
huyện tổ chức cho cán bộ, cơ sở học tập văn kiện Hiệp định Genève, sắp xếp lực
lượng đi tập kết và phân công số ở lại tiếp tục bám dân lãnh đạo đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Các
vùng, các xã tranh thủ thời gian ngắn ngủi này tổ chức giáo dục cho cơ sở, mở
mét tinh phổ biến cho nhân dân những yếu tố pháp lý của Hiệp định Genève, chủ
trương đường lối của ta để nhân dân nắm chắc mà đấu tranh với địch trong tình
hình mới. Bộ đội và nhân dân ở nhiều thôn xóm tổ chức các cuộc gặp mặt liên
hoan, tiễn đưa cán bộ, bộ đội đi tập kết. Tình cảm giữa kẻ còn người mất, kẻ ở người đi bùi ngùi xúc
động, không sao cầm được nước mắt. Trong các buổi gặp mặt, nhiều người đem giao
cho bộ đội những kỷ vật tham gia kháng chiến của gia đình như ảnh Bác Hồ, bạc
Ngân hàng Việt Nam, giấy khen của Chính phủ… mà đồng bào đã trân trọng giữ gìn
còn nguyên vẹn. Mọi người chào chia tay nhau bằng dấu hiệu 2 ngón tay, thay lời
hứa hai năm sau sẽ gặp lại, 700 thanh niên, phần đông là con em của các gia
đình cơ sở, xin đi tập kết ra miền Bắc học tập để trở về góp phần xây dựng quê
hương.
Số
thanh niên này ra đến Bình Định, được tổ chức thành một tiểu đoàn luyện tập,
tham gia diễu binh trong Đại hội hoà bình, do Liên khu tổ chức tại sân vận động
Phù Cát tỉnh Bình Định. Nhưng sau đó Ban cán sự Tỉnh uỷ Khánh Hoà tại Bình Định
cho số thanh niên này trở về lại gia đình với lý do được giải thích là thiếu
phương tiện đưa đi. Việc làm này, Ninh Hoà mất đi một lực lượng để đào tạo cho
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ hoà bình xây dựng rất lớn, rất đáng
tiếc.
Trong
những ngày đầu tháng 8.1954, nhân dân các nơi trong huyện, trong tỉnh đổ về Đá
Bàn thăm căn cứ, thăm bộ đội và người thân. Nhiều gia đình cha gặp con, vợ gặp
chồng mừng mừng tủi tủi rồi lại chia tay, hẹn hai năm sau hội ngộ.
Theo
lệnh của Ban Chỉ huy Tỉnh đội, toàn bộ lực lượng vũ trang của tỉnh được đưa ra
tập kết tại vùng An Thái, tỉnh Bình Định, chờ đến lượt xuống tàu tập kết ra
miền Bắc. Tại đây lực lượng được sắp xếp lại. Các đơn vị, địa phương, các cán
bộ chiến sĩ được xem xét đề bạt, khen thưởng thành tích chiến đầu trong 9 năm
kháng chiến chống Pháp.
Ở căn
cứ Đá Bàn, trước khi kết thúc thời gian dành cho chuyển quân tập kết, ta tổ chức
vun đắp và làm bia mộ cho các liệt sĩ. Lo thu xếp cho số đồng bào và nhân viên
các trại sản xuất ở căn cứ chuyển tài sản, hoa lợi về gia đình để ổn định cuộc
sống. Phân phối số trâu bò, công cụ sản xuất của căn cứ, số lương thực, thực
phẩm còn lại ở các kho của tỉnh cho những gia đình ở các thôn xã vùng ven căn
cứ có nhiều công lao đối với kháng chiến, nhưng đời sống đang còn khó khăn, chỉ
giữ lại cho tỉnh một số lương thực và muối ăn, để cung cấp cho các đoàn cán bộ
tỉnh từ Bình Định sẽ vào sau.
Kỷ niệm
Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2.9.1954, Tỉnh uỷ và UBKCHC tỉnh tổ chức mét
tinh rất trọng thể tại trung tâm căn cứ Đá Bàn vào ngày 22.8.1954. Tuy không
báo tin cho đồng bào Nha Trang và phía Nam Khánh, nhưng trong ngày này, ùn ùn
các loại xe ôtô, xe máy, xe đạp của hàng vạn đồng bào từ Ninh Hoà, Nha Trang và
các nơi trong tỉnh tấp nập đổ về căn cứ Đá Bàn dự lễ. Đồng chí Nguyễn Xuân Hữu,
Bí thư Tỉnh uỷ và đồng chí Lê Thanh Liêm, Chủ tịch UBKCHC tỉnh nói chuyện với
đồng bào về thành tích to lớn của quân và dân Khánh Hoà trong 9 năm kháng
chiến, kêu gọi đồng bào đoàn kết tiếp tục đấu tranh đòi đối phương nghiêm chỉnh
thi hành Hiệp định Genève thống nhất nước nhà.
Buổi lễ
biến thành ngày hội chia tay cuối cùng kết thúc thắng lợi oanh liệt thời kỳ
kháng chiến chống Pháp xâm lược của quân và dân tỉnh ta. Buổi chia tay giữa kẻ
ở, người đi bùi ngùi xúc động, thắm thiết tình nghĩa quân dân, để lại một sức
mạnh tinh thần cho cuộc đấu tranh trong hoàn cảnh mới.
Sáng ngày
3.9.1954, theo lệnh của Ban Liên hiệp đình chiến Liên khu 5, Tổ liên hiệp đình
chiến Khánh Hoà hết nhiệm vụ ra Quy Nhơn bằng phương tiện của quân đội Liên
hiệp Pháp.
Ninh
Hoà đi vào giai đoạn chiến đấu mới - Giai đoạn đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.