Chương VII-Toàn quốc kháng chiến. Ninh Hòa đẩy mạnh chiến tranh du kích góp phần đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp (1947 - 12.1949)
TÌNH HÌNH TA VÀ ĐỊCH Ở CHIẾN TRƯỜNG NINH HOÀ.
Nằm trong âm mưu đặt lại ách thống trị thực dân trên đất nước ta, sau nhiều vụ khiêu khích lấn chiếm từng phần ở các tỉnh, ngày 19.12.1946, thực dân Pháp mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả nước. Trong ngày đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự Chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hội nghị quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Đêm 19.12.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
"Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà binh, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng, dùng súng, ai có gươm, dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.”.
Ngày 22.12.1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Toàn quốc kháng chiến" xác định phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tực lực cánh sinh. Khẩu hiệu được nêu: "mỗi khu phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài" "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "triệt để dùng chiến thuật du kích và chiến thuật vận động…".
Đầu năm 1947, đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư Trung ương Đảng viết cuốn "Kháng chiến nhất định thắng lợi" phân tích rõ đường lối chủ trương kháng chiến của Đảng. Trong đó chỉ rõ phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến là kháng chiến trường kỳ, tự lực cánh sinh, muốn kháng chiến thắng lợi phải đoàn kết toàn dân, huy động sức người, sức của và tài trí của nhân dân vào cuộc kháng chiến, lại phải kháng chiến toàn diện: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá. Cuộc kháng chiến trải qua 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, tổng phản công. Nòng cốt của cuộc kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang nhân dân, với 3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích.
Thực hiện phương hướng kháng chiến của Trung ương Đảng, Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng ngày 15 - 16.3.1947, tại căn cứ Hòn Lớn, phía Nam thôn Phú Nhơn (Ninh Tân) nhấn mạnh nhiệm vụ cấp bách trong toàn tỉnh năm 1947 là phải củng cố hệ thống tổ chức Đảng, phát triển đảng viên mới, tăng cường vận động quần chúng phát triển cơ sở cách mạng sâu vào vùng địch chiếm đóng; đẩy mạnh đấu tranh chính trị, vũ trang, củng cố và phát triển lực lượng du kích thoát ly, dân quân tự vệ, thành lập các đội biệt động, vấn đề xây dựng căn cứ kháng chiến cũng được đặt ra trong hội nghị này.
Thực hiện Nghị quyết hội nghị Tỉnh uỷ và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ phủ lần thứ nhất tháng 12.1946, trong lúc phong trào Ninh Hoà tuy có bước trưởng thành đáng kể, đã tích luỹ được một số kinh nghiệm kháng chiến bước đầu, nhưng thực tế trên chiến trường, Đảng bộ Ninh Hoà phải đối mặt với nhiều khó khăn, trở ngại.
Do Ninh Hoà có vị trí quân sự quan trọng, nằm ở vị trí tiền tiêu phía Bắc thị xã Nha Trang - căn cứ hậu cần lớn và là trung tâm đầu não của quân Pháp ở các tỉnh cực Nam Trung bộ và chiến trường có ý nghĩa chiến lược Tây nguyên. Ninh Hoà có Quốc lộ 21 nối với vùng chiến lược này và Quốc lộ 1 nối với Phú Yên, tỉnh chưa bị địch chiếm đóng. Có cửa biển Hòn Khói, có điều kiện cho quân Pháp bảo đảm hậu cần và chi viện lực lượng cho Tây Nguyên trong trường hợp đường bộ bị ta cắt đứt… Do có vị trí như vậy, nên quân Pháp phân chiến trường Bắc Khánh Hoà thành một phân khu quân sự (Soussecteur), Bộ Chỉ huy phân khu đóng tại phủ lỵ Ninh Hoà vừa chỉ huy quân sự vừa kiêm cả quản lý hành chánh. Một tiểu đoàn cơ động Âu-Phi mạnh với vũ khí và phương tiện hiện đại như xe thiết giáp, pháo 75mm.. cũng đóng tại đây.
Ngay từ đầu mới đến Ninh Hoà, quân Pháp đã tiến hành bình định, đánh phá ác liệt phong trào kháng chiến của nhân dân, nhằm xây dựng địa bàn Ninh Hoà thành hậu phương an toàn, làm bàn đạp vững chắc để giữ Tây Nguyên và thực hiện âm mưu đánh chiếm các tỉnh Nam Trung bộ của ta.
Đầu năm 1947, nằm trong âm mưu chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh", ngày 13.1.1947, quân Pháp tập trung lực lượng mở cuộc tấn công quy mô lớn vượt phòng tuyến đèo Cả tiến ra đánh chiếm thị xã Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Chúng bị lực lượng ta chặn đánh thiệt hại nặng phải lùi lại, chiếm giữ từ núi Hiềm trở vào Hảo Sơn (phía Bắc đèo Cả), xây dựng nơi này thành đầu cầu cho các cuộc tiến công về sau.
Không chiếm được Phú Yên, quân Pháp quay về củng cố và mở rộng vùng đã chiếm từ đèo Cả trở vào. Ở Ninh Hoà, chúng mở nhiều cuộc càn quét lớn đánh vào các cơ quan lãnh đạo của ta ở Hòn Hèo, Hòn Lớn… càn quét vùng giáp ranh, đốt phá kho tàng, trạm trại trên hành lang giao thông liên lạc Bắc-Nam của Liên khu và Trung ương và từ các nơi về Hòn Hèo.
Trong vùng nông thôn đồng bằng, quân Pháp tăng cường các cuộc hành quân tảo thanh, vây bắt cán bộ Việt Minh, bắt thanh niên đi lính, khủng bố nhân dân… Tiếp tục đưa quân đóng đồn bót ra sát vùng giáp ranh căn cứ kháng chiến như: đồn Tân Kiều, đồn Tân Lâm… và sâu vào căn cứ như đồn Ninh Tịnh, đồn Tiên Du.. đồng thời mở đầu thực hiện chính sách “chiêu an, dồn dân", đưa quân càn quét tàn phá các thôn nằm trên vùng ven căn cứ rừng núi, cưỡng bức nhân dân các nơi này phải vào vùng chúng kiểm soát sinh sống, nhằm hình thành vành đai trắng bao vây, cô lập các căn cứ kháng chiến của ta. Phía Tây, từ các thôn Cung Hoà, Quảng Thiện, Tân Tứ vào đến các thôn Tân Xuân, Tân Trúc, Ngũ Mỹ, Phú Nhơn, Đồng Lau… bị chúng đốt sạch cả làng, bắn giết tất cả trâu bò, thấy ai chạy là bắn, nghi ai Việt Minh là giết, không cần xét hỏi. Phía Đông, chúng đánh phá các thôn xung quanh Hòn Hèo từ Lệ Cam, Tiên Du, Chánh Thanh, Sơn Định, Phú Lộc đến Mỹ Lương và các thôn xóm ở trên và ven đầm Nha Phu như: Tân Long (Hòn Thị), Tân Đảo (Hòn Cóc), Ngọc Diêm ra đến các thôn Tam Ích, Tân Thuỷ, xóm đìa Hà Liên… chúng bắn người, đốt nhà, đốt cả ghe thuyền, công cụ và phương tịên sản xuất làm cho dân những nơi này cùng quẫn không còn điều kiện làm ăn sinh sống phải vào vùng chúng kiểm soát. Nhân dân kiên quyết đấu tranh bám làng, bám đất, hoặc ra rừng đi theo kháng chiến chống lại địch. Đến cuối năm 1948, quân Pháp chỉ dồn được một số ít thôn như: thôn Tân Tứ dồn sang thôn Đồng Thân, thôn Đồng Lau dồn sang các thôn Tân Hưng, Thanh Mỹ.
Tuy vậy, đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, toàn Phủ địch huỷ diệt gần 30 thôn, nhiều thôn bị xoá tên cho đến ngày nay như: Phú Nhơn, Đồng Lau, Ninh Sơn, Bình Sơn, Minh Sơn, Hoà Sơn…
Trong vùng chúng kiểm soát, chúng đàn áp, khủng bố bắt dân phải lập tề, lãnh cạt, cung ứng sức người, sức của cho chúng. Ai đấu tranh chống trả, chúng bắt vào nhà tù tra tấn hành hạ. Chúng cắt cổ, mổ bụng, chôn sống, bắn chết bỏ xác trên các ngã ba đường hay trong rừng sâu, một lúc 5-7 người, tàn sát một lúc 27 người dân vô tội ở xã Xuân Phương đem bỏ xác tại cầu Bá Hà, 30 đồng bào các thôn Xuân Mỹ, Xuân Phong… bỏ xác phơi nắng trên Quốc lộ 1, bắn 16 người tù yêu nước ở nhà lao Ninh Hoà bỏ xác tại Đồng Gieo (Ninh Quang). Tội ác tầy trời của giặc Pháp không sao kể xiết. Trước tình hình ấy, cán bộ, dân quân du kích bị bật dần ra khỏi dân lên rừng núi, tư tưởng diễn biến phức tạp, phong trào bắt đầu gặp khó khăn, nhất là vùng Tây của Phủ.
Tháng 3.1947, Trung đoàn 80 (khu VI) vào đứng chân hoạt động tại chiến trường Khánh Hoà, do đồng chí Nguyễn Hải, Trung đoàn trưởng; Lư Giang Trung đoàn phó; Trịnh Huy Quang, Chính uỷ khu 6 cùng đi với trung đoàn. Trung đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc vào đóng ở Hòn Hèo cùng với các cơ quan Phủ uỷ, UBKCHC và Mặt trận Việt Minh phủ hình thành một khu vực đóng quân trải dài từ Đá Cóc đến suối Tiên Du (nay thuộc xã Ninh Phú). Tiểu đoàn 6 của Trung đoàn gồm 2 đại đội: Đại đội 160 và Đại đội 200 cũng về đứng chân hoạt động ở Ninh Hoà.
Sau hội nghị Tỉnh uỷ tháng 3.1947, Ban chỉ huy trung đoàn phân công đồng chí Lư Giang, Trung đoàn phó phối hợp với chính quyền địa phương chỉ đạo việc xây dựng và hoạt động giữa chủ lực Trung đoàn, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trung đoàn mở nhiều lớp huấn luyện tại Đá Cóc Tiên Du, mỗi lớp 45 ngày để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tiểu đội, trung đội cả về quân sự và chính trị cho các lực lượng vũ trang địa phương. Tăng thêm cho các đại đội địa phương một số vũ khí, chủ yếu là lựu đạn, bom, mìn do ta chế tạo.
Trong đợt củng cố lực lượng này, Đại đội Phước Mỹ Hoà được giải thể, đưa một trung đội bổ sung cho Đại đội Hồng Liên. Rút một số cán bộ, chiến sĩ quê ở Hòn Khói tăng cường về cho các đội du kích xã vùng này. Số còn lại tổ chức thành một trung đội độc lập lấy tên là Trung đội Danh Dự, do Nguyễn Xây làm Trung đội trưởng, Nguyễn Cụ (Tư Cường) làm Trung đội phó, Võ Bá Quế làm Chính trị viên, đứng hoạt động ở phía Tây và phía Đông bắc Hòn Hèo.
Thành lập đội Biệt động khu phố Ninh Hoà, lấy tên là "Xung phong đội" đứng hoạt động tại địa bàn khu phố (núi Ổ Gà), quân số 2 tiểu đội: Một tiểu đội nam và một tiểu đội nữ, do Nguyễn Lân làm đội trưởng, Trương Khắc Hàm làm Chính trị viên, Nguyễn Kiểm làm Đội phó.
Cùng thời gian này, trung đoàn biệt phái một trung đội trinh sát, thuộc Đại đội 240 của Trung đoàn, do Lê Khôi làm Trung đội trưởng, Lê Ngọc Cuộc, Trung đội phó về đứng ở khu phố (Ổ Gà) với nhiệm vụ tổ chức nắm tình hình phục vụ nhiệm vụ tác chiến của các đơn vị chủ lực trung đoàn. Phối hợp với đơn vị xung phong đội trừ gian, đánh địch ở vùng ven khu phố, hỗ trợ cho phong trào kháng chiến của nhân dân. Đưa một trung đội do đồng chí Phước làm trung đội trưởng đứng hoạt động từ Lương Sơn, Cát Lợi đến vùng Suối Ré.
Ở các xã Phước Đông, Phước Trung, Phước Tây của huyện Vạn Ninh, thành lập Trung đội võ trang tập trung thuộc lực lượng địa phương huyện Vạn Ninh, do Chu Văn Hồng làm Trung đội trưởng, Trần Bồi làm Trung đội phó, Lê Phóng (tức Phương) làm Chính trị viên đứng hoạt động vùng này.
Lực lượng du kích được bổ sung xây dựng, mỗi xã có từ 1 tiểu đội trở lên với vài ba khẩu súng trường và lựu đạn.
Qua đợt củng cố, khả năng chiến đấu của các đơn vị vũ trang được nâng lên rõ rệt. Nhưng phong trào kháng chiến của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn.
Trước những thủ đoạn và hành động tàn ác của địch, một bộ phận trong nhân dân dao động, ngại đấu tranh. Nhân dân còn bám trụ ở các thôn trên vành đai ven căn cứ, bị địch càn quét đánh phá liên tục, điều kiện sản xuất sinh sống rất vất vả thiếu thốn. Nhân dân ở các thôn không còn nhà cửa, trâu bò phải sơ tán sang các thôn bên cạnh hoặc phải vào vùng địch kiểm soát, dựa vào các gia đình thân quen, dòng tộc, phải đi cày thuê, cấy mướn, đời sống thiếu thốn trăm bề.
Lực lượng cán bộ, dân quân du kích nhiều xã nặng tư tưởng ỷ lại rừng núi, dựa vào rừng núi, thiếu quyết tâm bám làng, bám dân, đi hoạt động phải qua vành đai trắng, hiệu quả công tác giảm dần, lực lượng bị tiêu hao ngày một tăng, nẩy sinh nhiều hiện tượng tư tưởng tiêu cực như ngại hy sinh gian khổ, chểnh mảng trong công tác…
Trước tình hình đó, Đảng bộ chỉ đạo tất cả các tổ chức cách mạng từ chi bộ đảng đến chính quyền và các đoàn thể quần chúng, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, thông qua sinh hoạt nội bộ, các hội nghị kiểm điểm tình hình triển khai công tác, để liên hệ tự phê bình, phê bình khắc phục những hiện tượng lệch lạc nói trên, đồng thời đặt mạnh nhiệm vụ bám làng bám dân, tuyên truyền giáo dục giữ vững tinh thần quần chúng, khơi sâu lòng căm thù, động viên quần chúng tiếp tục đấu tranh chống địch, làm nhiệm vụ kháng chiến.
Mặt khác, sử dụng lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với du kích các xã, tổ chức lực lượng gọn nhẹ thường xuyên di động đóng trong làng, tuỳ địa hình từng khu vực, đóng từ các thôn vòng ngoài, từng lúc đóng lấn vào các thôn vùng sâu. Ban đêm canh gác cho cán bộ chính trị gặp gỡ nhân dân tuyên truyền, giáo dục phát triển cơ sở, đào hầm bí mật bám làng, bám dân, tổ chức cho quần chúng làm nhiệm vụ kháng chiến. Phá tề, trừ gian, gặp các gia đình tề nguỵ, đưa truyền đơn kêu gọi, đưa thư cảnh cáo những tên tề điệp lưu vong. Tổ chức đánh địch lùng sục, đi chuyển hàng tiếp tế, kèm cặp dìu dắt, phát triển dân quân du kích, đẩy mạnh phong trào nhân dân - du kích chiến tranh trong vùng địch chiếm đóng.
Riêng vùng Tây tình hình khó khăn hơn, cán bộ các xã tạm thời ghép thành một trung đội, nằm trong Đại đội Lê Hồng Phong để tiện việc bảo vệ và phối hợp về làng công tác.
Bằng phương thức hoạt động này, sau một thời gian, cán bộ nhiều xã đã bám vào lại được địa bàn, có nơi sâu vào các thôn ven phủ lỵ như: Phong Ấp, Bình Thành, Phước Đa, Điềm Tịnh… Nằm được trong làng, nắm được dân, nắm được tình hình, phát triển được cơ sở, diệt được tề ngụy, hỗ trợ thiết thực cho phong trào kháng chiến của nhân dân. Mặt khác, đời sống của cán bộ, bộ đội, du kích được giải quyết thuận lợi, lực lượng đỡ bị tiêu hao khi hàng ngày, hàng đêm phải vượt qua vành đai trắng về làng hoạt động.
Về đánh địch, đầu năm 1947, khi quân Pháp vượt đèo Cả đánh ra Phú Yên, lực lượng vũ trang và dân quân du kích Ninh Hoà liên tục đánh phá giao thông, bao vây quấy rối đồn địch, đánh quân càn quét tiêu hao sinh lực, kiềm chân địch hỗ trợ cho Phú Yên đánh địch, bảo vệ vùng tự do, tiêu biểu là đầu năm 1947, Đại đội Vũ Trung Ân, phối hợp với Trung đội Danh Dự và du kích xã Dân Tiến (Ninh Ích) phá hoại hàng trăm mét đường sắt và đường Quốc lộ 1 (đoạn thôn Ngọc Diêm), đánh mìn diệt 2 xe quân sự địch trên Quốc lộ 1 (đoạn thôn Cát Lợi) diệt và làm bị thương khoảng một trung đội địch. Ở phía Tây, một tiểu đội của Đại đội Lê Hồng Phong phục kích lính đồn Dục Mỹ ra sông lấy nước uống, bắn bị thương 1 tên, chúng chạy, ta thu được 2 súng trường.
Tháng 4.1947, một trung đội của Đại đội Hồng Liên, do đồng chí Hứa Đại Huân, Chính trị viên đại đội chỉ huy, phục kích diệt gọn 2 thuyền địch của đồn Tiên Du (Ninh Phú) đi mua hàng tiếp tế, tại doi cát Vũng hảo trên sông Tân Tế (Ninh Hà) thu 11 súng các loại. Sau trận này địch ở đồn Tiên Du bỏ luôn đồn rút về trung tâm phủ lỵ.
Ngày 13.4.1947, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 80, phối hợp với Đại đội Lê Hồng Phong, do đồng chí Đoàn Huyên, tiểu đoàn trưởng chỉ huy, phục kích đoàn xe quân sự địch 20 chiếc chạy từ Đaklak xuống Ninh Hoà trên Quốc lộ 21 (đoạn km 31, chân đèo Phượng Hoàng) tiêu diệt 11 xe chở đầy lính Âu-Phi (có một thiết giáp) thu 22 súng, có 2 trung liên. Đây là trận đánh giao thông thắng lợi lớn nhất từ khi bắt đầu cuộc kháng chiến ở Khánh Hoà. Trong chiến thắng này có sự đóng góp của nhân dân các thôn Phú Hoà, Vạn Hữu (Ninh Quang). Đồng bào đã làm 500 đôi dép da trâu góp phần giải quyết khó khăn cho bộ đội khi phải đi qua nhiều rừng gai, trảng tranh để đến vị trí chiến đấu. Trận thắng lớn này được Bộ Quốc phòng gửi thư khen, bộ đội và nhân dân phấn khởi, ảnh hưởng tốt đối với phong trào địa phương.
Tháng 7.1947, thi hành mệnh lệnh của Ban Chỉ huy Trung đoàn 80, đại đội Thái Phiên (vệ quốc đoàn) các đại đội địa phương Hồng Liên, Vũ Trung Ân, trung đội Danh Dự, có súng cối 81 ly của trung đoàn yểm trợ, tổ chức trận tấn công đồn Tân Kiều (Ninh Đa) bằng cách dùng rơm khô cuộn thành từng bó tẩm xăng, bí mật tiếp cận phóng vào bên trong hàng rào đồn, vừa đánh lựu đạn gây cháy, vừa dùng cối 81 ly bắn yểm trợ để xung phong diệt địch chiếm đồn. Do chiến thuật tấn công đồn đơn giản, trận đánh không thành công, nhưng gây thiệt hại nặng và uy hiếp rất mạnh tinh thần địch, chúng phải bỏ đồn lùi về đóng ở Phước Sơn xa căn cứ kháng chiến hơn. Tề nguỵ địa phương hoang mang, dao động.
Phát huy chiến thắng của các đơn vị vũ trang tập trung, du kích các xã tìm cách dụ địch ra khỏi đồn tiêu diệt, để lấy súng đạn của địch, đánh địch như dân quân xã Lê Ngọc Bán (Ninh Giang, Ninh Hà) phối hợp với 1 tổ của đại đội Hồng Liên cắm cờ Tổ quốc tại cầu Bầu thôn Phong Phú, địch đồn Hậu Phước cho quân đến khủng bố, nhổ cờ, bị ta nổ súng diệt và bắn bị thương một số tên, chúng hoảng hốt tháo chạy, ta thu một số vũ khí.
Trung đội Tam Phước ở Phước Thiện (Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Trung) phối hợp với du kích và nhân dân 2 xã Phước Đông và Phước Trung phá đường sắt, phá Cầu Mống phía Nam chợ Lạc An, bố trí lực lượng đánh địch đến khảo sát hiện trường, đánh lựu đạn vào xe quân sự địch trên dốc Giồng Thanh diệt và làm bị thương 30 tên địch, đánh tháp canh Chánh Thanh diệt tại chổ 12 tên, bắt 1 số tù binh, thu vũ khí. Du kích xã Phước Đông phục kích đánh địch đồn Lạc Ninh đi càn quét diệt 3 tên Pháp.
Trên sáu tháng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng bộ và các nghị quyết, chỉ thị của Phủ uỷ tiếp theo, phong trào du kích chiến tranh của Ninh Hoà được khôi phục và bắt đầu phát triển khá. Cán bộ nhiều xã bám vào được trong dân, phát triển được cơ sở, tạo được thuận lợi mới cho phong trào kháng chiến của nhân dân. Trong lúc đó, địch bị tấn công liên tục, sinh lực, vũ khí, phương tiện chiến tranh, cơ sở vật chất bị tổn thất khá nặng. Tinh thần tề, nguỵ giảm sút, việc kiểm soát dân chưa làm được bao nhiêu lại phải rút bỏ đồn Ninh Tịnh, đồn Tiên Du, phạm vi kiểm soát hướng quan trọng này của chúng bị thu hẹp.
Trước tình hình đó, địch phản ứng rất mạnh, tháng 7.1947, chúng mở cuộc càn quét quy mô lớn, dài ngày vào căn cứ Hòn Hèo. Chúng bí mật xâm nhập và xuyên núi từ xa, đánh vào phía sau cơ quan Trung đoàn 80 và các cơ quan lãnh đạo Ninh Hoà đóng tại núi Tiên Du. Ta phát hiện và di chuyển kịp thời. Địch bị lực lượng cảnh vệ của Trung đoàn đánh trả, gây cho chúng nhiều thương vong. Sau trận này, các cơ quan của Phủ và của Trung đoàn chuyển sang đóng ở phía Nam Hòn Hèo, ven đầm Nha Phu, khu vực từ Đá Tượng (Lệ Cam)- Vũng Đình đến Đá Chữ (Vũng Tàu).
Chi khu Lạc Ninh tăng cường càn quét vùng giáp ranh phía Đông bắc Hòn Hèo, bị Đại đội 145 của Trung đoàn do đồng chí Phạm Đào, đại đội trưởng chỉ huy, phục kích tại thôn Mỹ Lương (Ninh Thuỷ) diệt gần một trung đội, thu nhiều vũ khí các loại.
Cuối năm 1947, tại Hố Vông, Trung đội Danh Dự đánh một đại đội Âu-Phi. Trong thế bị địch bao vây tấn công, các đồng chí chỉ huy Trung đội đã chỉ huy đơn vị đánh trả hết sức kiên cường, diệt được hàng chục tên địch, mở đường thoát đưa đơn vị về được nơi an toàn, bảo vệ được lực lượng, vũ khí. Đồng chí Nguyễn Xây, Trung đội trưởng hy sinh, đồng chí Nguyễn Cụ trung đội phó bị thương vẫn đem hết sức mình đưa khẩu trung liên về đến bìa rừng trước khi ngất xỉu. Đơn vị đã thể hiện xứng đáng với phiên hiệu của mình.
Trong tất cả các trận đánh ở địa bàn phía Đông, lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích có 10 cán bộ chiến sĩ hy sinh, một số bị thương, trong đó có Đại đội trưởng Phan Thành Chung, Trung đội trưởng Nguyễn Xây, Trung đội phó Nguyễn Cụ.
Ở vùng Tây, Đại đội Lê Hồng Phong phối hợp với du kích các xã phân tán lực lượng bám đánh nhiều trận càn quy mô đại đội địch vào vùng núi Ổ Gà, thùng Nhà Bùi, vùng Tân Tứ, diệt và làm bị thương hàng chục tên địch. Bên ta 5 đồng chí hy sinh, có 2 đồng chí chính trị viên trung đội: Trần Khanh và Lê Yên.
Phía Tây Nam huyện đầu năm 1947, Đại đội Vũ Trung Ân phối hợp với Đại đội 12 của Tiểu đoàn 6, do đồng chí Phạm Thứ, Đại đội trưởng chỉ huy, chận đánh tiểu đoàn cơ động địch càn vào vùng Trảng Cám (Hòn Lớn) tiêu diệt gần một đại đội, bắt được tên sĩ quan người gốc Y-ta-lia (Italia). Theo yêu cầu của địch, ta chấp nhận giao trả lại cho chúng với điều kiện: Phải ngừng xung đột để giao trả, phải thả tất cả những người bị chúng bắt trong trận càn, kể cả người dân; phải chào Quốc kỳ của ta khi vào cáng người bị thương. Địch buộc phải chấp nhận và thực hiện đúng.
Sau trận Trảng Cám, Đại đội Vũ Trung Ân phối hợp với Tiểu đoàn Ba Dương do các đồng chí Tất và Tấn chỉ huy, đưa lực lượng về đứng chân ban ngày ở thôn Trường Lộc (Ninh Hưng) đánh thiệt hại nặng toán địch đồn Phú Hoà (Ninh Quang) đi càn vào xã Ninh Hưng, thu hàng chục súng, có một trung liên.
Sau trận đánh, ta rút quân về trụ tại chùa Lỗ Mây (Ninh Quang) nghỉ ngơi. Tiểu đoàn cơ động của chi khu Ninh Hoà hành quân truy kích từ suối Bà Tứ phía Nam chùa đánh ra. Ta và địch đánh nhau ác liệt, giằng co kéo dài đến 16 giờ. Máy bay khu trục của địch từ Nha Trang ra oanh tạc, uy hiếp trận địa ta, yểm trợ cho chúng rút quân. Ta cũng đưa lực lượng ra ngoài trận địa. Địch bị thương vong một đại đội, bên ta 6 đồng chí hy sinh, có đồng chí Nguyễn Long, Trung đội phó của Đại đội Vũ Trung Ân.
Sau hai trận bị đánh đau, thua đậm ở Trảng Cám và chùa Lổ Mây, quân cơ động Pháp bắt đầu nể sợ lực lượng ta trên chiến trường Ninh Hoà.
Trong lúc địch tung lực lượng càn quét bên ngoài, trong trung tâm khu phố sơ hở, đồng thời cũng để phối hợp và hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của đồng bào vùng nông thôn, Đội vũ trang khu phố Ninh Hoà (Xung phong đội) bố trí chị Nguyễn Thị Trừ, chiến sĩ của đội, quê thôn Vĩnh Phú (Thị trấn) thông thạo địa hình, đưa lựu đạn vào đánh địch trong trung tâm khu phố. Chị Trừ đã khôn khéo cải trang, dũng cảm vượt qua nhiều lớp rào phòng thủ vừa nổi, vừa chìm dày đặc của địch, đưa lựu đạn vào được đến chợ Ninh Hoà. Mấy phút chờ đợi, chị bắt gặp một toán lính đồn khố xanh, do tên thiếu uý Pháp dẫn đi kiểm soát, cướp bóc ở chợ. Chờ đến chỗ thưa người, chị cho lựu đạn nổ diệt một số tên. Trên đường thoát ra, chị bị toán lính cứ điểm chi khu (Ba-tai-dông) ra chận lại tại ngã ba, đường lên nhà ga Ninh Hoà, chị dùng lựu đạn còn lại đánh tiếp. Cả hai trận, chị diệt 11 tên, có 1 thiếu uý Pháp. Đến đề-pô xe lửa, hết lựu đạn, chị bị bắt. Bị thiệt hại nặng, địch hằn học trả thù, tra tấn chị tại chỗ hết sức dã man. Trên đường đưa chị về nhà lao, địch rạch ngực, cắt vú, tra hỏi chị ngay tại cầu Dinh, chị vẫn không khai một lời. Tại nhà lao Ninh Hoà, địch không khai thác được gì ở chị, giữa đêm 27.7.1947, chúng đem giết chị tại gò Phước Lý (Ninh Bình).
Trả thù cho chị, chị Nguyễn Thị Thi, quê thôn Hoà Thuận (Ninh Quang), chị Nguyễn Thị Kiết, quê thôn Phú Nghĩa (Ninh Đông) đồng đội của chị, được bố trí vào đánh tiếp, cả 2 chị đều hoàn thành nhiệm vụ nhưng khi thoát ra đều bị bắt. Noi gương chị Trừ, cả 2 chị đều hy sinh rất dũng cảm.
Các chị hy sinh để lại những tấm gương anh dũng tuyệt vời, để lại trong lòng quân và dân Ninh Hoà niềm tự hào và lòng tiếc thương vô hạn. Hàng ngũ địch vừa sợ, vừa khâm phục ý chí kiên cường và đức tính hy sinh cao đẹp của những cô gái trẻ Ninh Hoà.
Chị Nguyễn Thị Trừ lá cờ đầu của Xung phong đội được Chủ tịch Nước truy tặng danh hiệu cao quý "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".
Để ghi nhớ tấm gương cao cả của chị, nhân dân Ninh Hoà lấy tên chị đặt cho công trình đập dâng trên dòng sông Dinh là Đập "Nguyễn Thị Trừ" - dòng sông mà cách đây hơn nữa thế kỷ đã hoà máu thịt của Chị, để lấy nước tưới cho cánh đồng phía Đông phủ lỵ.
Cũng năm này, chị Nguyễn Thị Thảo, đồng đội của chị Nguyễn Thị Trừ, quê thôn Bình Thành (Ninh Hoà) không may rơi vào tay địch đồn Tân Lâm (Ninh Thượng), chị bị địch dùng mọi ngón đòn hiểm độc nhất buộc phải khai cơ sở Việt Minh. Chị Thảo tuổi còn trẻ, nhưng tinh thần chị rắn như thép, mặc dù bị địch trói và treo lên nhưng chị không hề khai một lời nào cho đến lúc hy sinh.
Đồng chí Lê Ngọc Bán, quê thôn Mỹ Hiệp (Thị Trấn) Uỷ viên UBND cách mạng lâm thời phủ Ninh Hoà, bị địch bắt tháng 4.1947. Sau những trận đòn tra tấn cực kỳ tàn nhẫn, địch không khai thác được gì ở đồng chí, chúng nhốt đồng chí trong chiếc rọ sắt, đem dìm xuống giếng nước ở chợ Ninh Hoà, nhằm răn đe, uy hiếp tinh thần nhân dân. Đồng chí không khai mà còn chửi vào mặt địch cho đến lúc chết dưới giếng. Tên tuổi của đồng chí đã đi vào lịch sử, được đặt tên cho một xã mà đồng chí có nhiều công lao đóng góp xây dựng. Xã Lê Ngọc Bán (nay là xã Ninh Giang và xã Ninh Hà).
Tháng 9.1947, nhằm phối hợp với quân và dân Việt Bắc phá âm mưu tấn công đánh chiếm căn cứ địa Việt Bắc của quân Pháp, đêm ngày 8.10.1947, chủ lực Trung đoàn 80 tấn công vào chi khu quân sự Ninh Hoà diệt và làm bị thương 190 tên địch.
Các chiến sĩ Xung phong đội và du kích các xã vùng ven khu phố, liên tục tấn công bọn tề điệp lẩn trốn trong vùng sâu đông dân. Đồng chí Nguyễn Kiểm, Đội phó Xung phong đội, đồng chí Lê Đào Nọ, Đội trưởng đội du kích xã Việt Hưng là những đồng chí diệt ác rất dũng cảm, táo bạo, bắt sống và trừng trị được nhiều tên gian ác giữa ban ngày ở các thôn Bình Thành, Phước Đa, Vĩnh Phú… các đồng chí đã bằng mọi cách, hoặc bí mật bám trên máng nhà, trong cầu tiêu… của bọn gian ác, hoặc cải trang đón đường để diệt. Nơi gần đồn hay gần trạm gác của địch thì các đồng chí dùng võ thuật quật ngã đối tượng để bắt sống hoặc dùng dao găm đâm, hay bóp cổ chết một cách im lặng, không nổ súng để địch không tiếp cứu kịp thời. Lúc này, bọn tay sai địch nghe đến tên của 2 đồng chí rất khiếp sợ.
Du kích các xã Dân Tiến, Vạn Thắng, Tây Sơn… thỉnh thoảng chận xe ngựa trên các trục giao thông, gạn bắt những tên tay sai đã được xác định tên tuổi. Để đối phó với cách hoạt động này, bọn mật thám cải trang mặc áo dài, đội khăn đóng đi xe ngựa lừa du kích để tiêu diệt. Phát hiện được thủ đoạn của địch, du kích xã Việt Hưng tổ chức đánh diệt được 1 xe thu vũ khí.
Được hoạt động quân sự của ba thứ quân trên địa bàn hỗ trợ tích cực, phong trào cách mạng của nhân dân tiếp tục phát triển. Đến cuối năm 1947 ta còn giữ được 65 thôn trong tổng số 106 thôn trong phủ địch chưa lập được bộ máy tề, nếu kể cả vùng Phước Thiện thì con số đó lên đến 78 thôn. Số thôn lập được tề, thì thông qua quan hệ gia đình, thôn xóm, ta tranh thủ nắm, chi phối, sử dụng, hạn chế được hành động tội ác của chúng với nhân dân.
Tiền ngân hàng của Chính phủ kháng chiến không lưu thông được trong vùng địch chiếm đóng nhưng nhân dân nhiều nơi vẫn nhận bán lúa gạo cho kháng chiến, để tỏ lòng ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Hồ Chí Minh, có gia đình cất giữ chu đáo cho đến ngày kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, vì bạc có hình Bác Hồ, nhân dân gọi là Bạc Cụ Hồ.
Nhân dân vùng Hội Phú, Hội Điền… (xã Ninh Phú) và xã Hiệp Hưng hàng ngày ra họp chợ trong vùng căn cứ kháng chiến như chợ cây Cổ Chi (Tiên Du), chợ Cây mít (Đồng Nẩy Hòn Lớn) mua bán trao đổi hàng hoá với đồng bào, cán bộ trong căn cứ bằng tiền tín phiếu phát hành tại liên khu 5 với câu ca "Tiêu tín phiếu là tiêu bạc Việt Nam, Tiêu tín phiếu là giết quân hung tàn…".
Tuy nhiên phong trào trong huyện không đều, nhiều thôn vùng sâu, nhất là các thôn có đông đồng bào theo đạo Thiên chúa, một số buôn người dân tộc ta không có cơ sở cách mạng, không có cán bộ địa phương, cán bộ, bộ đội ít khi tiếp xúc dân tuyên truyền phổ biến chính sách của Chính phủ, nên đồng bào bị địch bưng bít, tuyên truyền xuyên tạc, ly gián, gây nghi ngờ chia rẽ giữa lương - giáo, kinh - thượng, giữa nhân dân với cách mạng, với Đảng Cộng sản, ta không huy động được sức dân vào công cuộc kháng chiến. Ngược lại, một bộ phận dân còn lầm lạc nghe theo địch, chống lại kháng chiến.
Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, ngày 6.12.1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến. Người nói: "Vì ta không chịu làm trâu ngựa cho Pháp, vì ta phải giữ gìn non sông đất nước ta, cho nên ta phải đánh thực dân Pháp..
Đánh thì phải phá hoại. Ta không phá thì Pháp cũng phá… vì vậy ta phải phá trước, cho Pháp không dùng được. Dù ta muốn để cống, để đường, để nhà mà dùng cũng không dùng được, vì Pháp cũng chiếm hết, phá hết.
Bây giờ ta phải phá để chặn chúng lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng.
Ta vì nước mà hy sinh, chịu khó một lúc. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, ta sẽ cùng nhau kiến thiết và sửa lại, nào có khó gì… ".(24)
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện chỉ thị, mệnh lệnh của tỉnh, Ninh Hoà tổ chức nhiều đợt phá hoại giao thông địch, gây cho chúng nhiều phen khốn đốn.
(24). Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, tập 5, trang 25.
Đoạn Quốc lộ 1 và đường sắt phía Nam, phía Bắc của phủ luôn bị bộ đội, dân quân du kích và nhân dân phối hợp tháo dỡ đường ray bỏ xuống sông, xuống bầu, đào bới đắp ụ đất trên đường bộ. Cầu cống trên những hương lộ từ phủ lỵ đến đồn bót địch luôn bị phá, bị đốt. Đường dây điện thoại của địch luôn bị cắt, trụ bị nhổ, bị chặt bỏ. Ta phá, địch sửa lại, ta lại phá.
Để đối phó, địch đem lựu đạn gài dưới trụ đường dây, ban đêm chúng bắt các gia đình có người thân thoát ly kháng chiến, mỗi gia đình phải canh giữ, bảo vệ một đoạn dây bắc qua thôn. Nếu để bị cắt phá sẽ bị phạt tiền đền bù với giá rất nặng, bị tra hỏi, bắt lao động công ích gây khó khăn đủ điều, nhưng nhiều người vẫn đồng tình để phá, chỉ yêu cầu phá xong phải nổ súng để dân có lý lẽ mà đấu tranh rằng "Việt Minh có súng, dân tay không, các ông (bọn tề) ra đó mà giữ…" cuối cùng địch phải bỏ các công trình đường dây điện thoại. Nhiều trường hợp, địch đem tù chính trị ở nhà lao bắn bỏ xác ở những nơi bị ta phá hoại cũng không ngăn được phong trào phá hoại để kháng chiến của nhân dân. Hăng hái phá đến mức sai lầm, phá cả bờ vùng ruộng muối làm cho công nhân mất việc làm, sau đó cấp trên phải ra lệnh đình chỉ và kêu gọi nhân dân sửa lại để sản xuất.
Tuy vậy, trong Hội nghị Phủ uỷ mở rộng đầu năm 1948 tại Bà Bố (Hòn Hèo), sau khi soát xét đánh giá các mặt tình hình năm 1947, Hội nghị nhận thấy từ những tháng cuối năm 1947, đầu năm 1948, phong trào một số nơi có dấu hiệu chững lại. Tình hình vùng Tây ngày một khó khăn hơn. Tư tưởng cán bộ và nhân dân những nơi có phong trào yếu xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực, cầu an. Trước tình hình ấy, ngoài việc đề ra biện pháp khắc phục, Hội nghị quyết định, năm 1948, mọi hoạt động của Đảng bộ, của quân và dân Ninh Hoà đều hướng vào mục tiêu đánh bại chính sách bình định của địch, đẩy mạnh phong trào kháng chiến của nhân dân(25).
CHỐNG CHÍNH SÁCH BÌNH ĐỊNH CHIÊU AN, DỒN DÂN CỦA ĐỊCH
Sau thất bại ở Việt Bắc (Thu - Đông 1947) thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang chiến lược đánh lâu dài, thực hiện chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "dùng người Việt đánh người Việt", từ mở rộng chiếm đóng sang củng cố vùng đã chiếm được.
Thực hiện âm mưu chiến lược ấy, đồng thời cũng để đối phó với phong trào kháng chiến ngày càng mạnh của nhân dân, bước vào năm 1948, ở Ninh Hoà địch phản kích rất mạnh vào phong trào kháng chiến của ta.
(25) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà 1930 -1945.
Một mặt chúng ráo riết bắt lính, đôn quân đóng thêm đồn bót, mở rộng diện kiểm soát các vùng giáp ranh căn cứ kháng chiến, nhằm bảo vệ cho lực lượng bên trong của chúng tiến hành bình định, đánh phá phong trào giành dân với ta.
Phía Tây Bắc phủ, chúng đóng thêm đồn Phú Sơn (Phân chi khu) đưa tên Pô-lô khét tiếng dã man đến làm đồn trưởng để đánh phá và ngăn chặn hoạt động của ta ở vùng giáp ranh Đá Bàn. Phía Tây Nam, chúng đóng thêm cứ điểm chi khu Tân Hưng (Ninh Hưng), đưa tên Phi-líp-pon (Philippons), trung uý người Pháp, tàn bạo không kém tên Pô-lô, làm đồn trưởng để phòng thủ và đương đầu với lực lượng ta ở căn cứ kháng chiến Hòn Lớn. Nâng bót bảo vệ giao thông đèo Rọ Tượng lên cấp chi khu để đủ sức bảo vệ trục giao thông chiến lược Nha Trang - Ninh Hoà và làm điểm tựa cho hệ thống đồn bót từ cầu Sông Găng trở vào đèo Rù Rì.
Mặt khác, chúng phân tán một bộ phận lực lượng cơ động của chi khu thành lập những đội cơ động ứng chiến nhỏ (cở trung đội), những đội biệt kích (Commandos) đứng ở các cứ điểm chi khu, phân chi khu, vừa làm nhiệm vụ càn quét đánh phá phong trào, hoạt động biệt kích đánh úp chỗ ở của bộ đội và cán bộ ta ở các vùng giáp ranh, vừa làm nhiệm vụ ứng chiến cho hệ thống đồn bót và các cuộc hành quân của chúng khi bị ta tấn công.
Vừa bình định, chúng vừa tiếp tục càn quét tàn phá những thôn còn lại trên vành đai căn cứ Hòn Hèo và dội bom, phóng Roc-két san bằng các thôn Đầm Vân, Ninh Tịnh, Ninh Yển… trong căn cứ.
Ngày 27.2.1948, quân Pháp mở cuộc càn quét quy mô cấp tiểu đoàn vào căn cứ Hòn Hèo. Du kích các xã vùng giáp ranh, bộ đội và du kích trong căn cứ bám đánh tiêu hao, diệt và làm bị thương 72 tên, địch phải rút quân.
Trong vùng địch kiểm soát, chúng khủng bố, kiểm soát gắt gao nhân dân các thôn xung quanh đồn bót, xây dựng những thôn này thành những khu an toàn nhỏ rồi lan dần ra, theo kiểu "vết dầu loang" thành khu an toàn lớn, nhằm loại trừ cơ sở và ảnh hưởng của kháng chiến ra khỏi dân. Chúng bắt dân phải nhận làm gián điệp, chỉ điểm, phải lập trạm gác, có chòi cao quan sát từ xa, trên các đầu đường vào làng; thấy Việt Minh về làng là đánh mõ, la làng hoặc đốt khói trên chòi báo hiệu cho chúng, cùng với chúng vây bắt Việt Minh, ai tỏ ra tiêu cực, có thái đội chống đối bị chúng khủng bố. Chúng thành công bước đầu ở một số thôn như: Phú Hữu, Vạn Thuận, Đại Tập, Vĩnh Phước…
Trước những thủ đoạn, hành động thâm độc và tàn bạo của địch, nhân dân nhiều thôn đã đứng lên đoàn kết đấu tranh chống trả quyết liệt. Nhân dân nhiều thôn bất chấp đói khổ, chết chóc cùng nhau kéo ra rừng tổ chức sản xuất, sinh sống, bất hợp tác với địch "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ". Nhân dân các thôn Tân Trúc, Tân Xuân, một số ở các thôn Ngũ Mỹ, Tân Lạc kéo vào chân núi Hòn Dù (Ninh Tân) lập trại sản xuất, lấy tên là Trại Huỳnh Trượng (tên một liệt sĩ) làm chung, ăn chung như một công xã. Nhân dân các thôn Cung Hoà, Quảng Thiện, Gia Mỹ (Phước Thiện) kéo ra thùng Nhà Bùi… kiên quyết không sống chung với địch trong vùng chúng kiểm soát.
Nhân dân những nơi này không chỉ mất tất cả nhà cửa, ruộng vườn, mà sống thời gian dài trong rừng sâu nước độc, vô vàn khó khăn, thiếu đói, phải ăn củ nần, trái sung, cải trời… để sống. Đau ốm thiếu thuốc men, bị sốt rét rừng hành hạ xanh xao, vàng vọt, thường xuyên bị địch truy lùng, bao vây bắn giết, vẫn kiên quyết không trở về vùng địch kiểm soát.
Ở thùng Nhà Bùi, có trận chúng bắn chết một lúc hàng chục đồng bào. Vùng Suối Trầu (Minh Sơn) và thùng Nhà Bùi lúc mới ra đi có trên 200 người, đến tháng 3.1951 khi được đưa vào trung tâm Đá Bàn để xây dựng căn cứ chỉ còn 148 người. Con số này được lấy đặt tên cho căn cứ Đá Bàn là căn cứ 148 suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp. (Theo quy định số 2927-MNTOC, ngày 24.12.1951 của chính phủ).
Nhân dân các thôn Lệ Cam, Tiên Du, từ năm 1947, phần lớn bỏ nhà, bỏ làng tản ra chân núi Hòn Hèo, ven đầm Nha Phu sống xen với các cơ quan kháng chiến, với các nơi đóng quân của bộ đội, phát rẫy trồng hoa màu, làm nghề đánh bắt trên đầm sinh sống, nhiều năm mất mùa phải ăn củ mài, củ nần thay cơm vẫn kiên quyết không chịu vào vùng địch kiểm soát.
Những thôn như: Ngọc Diêm, Tam Ích, Tân Thuỷ (Ninh Lộc) Hoà Sơn (xóm đìa), đã kết hợp giữa đấu tranh của nhân dân với du kích đánh địch bảo vệ thôn xóm. Địch đến làng du kích đánh địch, nhân dân lánh ra núi, ra rừng sát, địch rút nhân dân lại trở về. Địch đốt phá nhà ngói thì xuống thuyền, hoặc che lại bằng tranh tre sống tạm, kiên trì chịu đựng gian khổ, ác liệt bám làng bám biển làm ăn sinh sống tiếp tục kháng chiến.
Năm 1947-1948, các thôn Ngọc Diêm (Thượng, Hạ) Tam Ích, Tân Thuỷ, Hà Liên, Tân Thành vẫn trụ vững và là những thôn có phong trào kháng chiến mạnh, là vành đai an toàn, bàn đạp vững chắc trên con đường vào ra căn cứ Hòn Hèo, giữa Hòn Hèo với căn cứ Hòn Lớn. Nhân dân ở đây làm rất tốt nhiệm vụ bảo vệ và tiếp tế cho căn cứ, thường xuyên dùng ghe thuyền của mình đưa đón cán bộ, bộ đội qua lại đầm Nha Phu đi công tác và chiến đấu trong vùng địch, rất ít khi sai hẹn và không bao giờ đòi hỏi trả công.
Các mẹ, các chị chiến sĩ thường vào căn cứ thăm viếng, uỷ lạo thương bệnh binh, mua giúp những hàng hoá thiết yếu cho các cơ quan và trạm xá như: thuốc men, đường sữa, văn phòng phẩm…các mẹ, các chị coi cán bộ, chiến sĩ như con em ruột thịt của mình, cùng vui, cùng lo với niềm vui và nỗi lo chung của cách mạng. Nhân dân Ngọc Diêm còn tự nguyện nhận nuôi bệnh binh nặng cho đến khi lành bệnh mới trở về đơn vị.
Nhân dân các thôn trong căn cứ Hòn Hèo như: Đầm Vân, Ninh Tịnh, Ninh Yển, Mỹ Giang của xã Phát Đạt (nay là 2 xã Ninh Phước và Ninh Vân) và thôn Tân Long (Hòn Thị) hầu hết đều ở trong các tổ chức ban ngành đoàn thể cứu quốc, vừa sản xuất bảo đảm đời sống, vừa làm nhiệm vụ kháng chiến. Thanh niên vào dân quân du kích tuần tra, canh gác bảo vệ căn cứ. Phụ nữ dựa vào nghề buôn bán cá, vào ra Nha Trang làm công tác liên lạc cho cơ quan tình báo, mua hàng hoá nhu yếu phẩm cho các cơ quan, cho bộ đội, nông, ngư dân đi dân công vận chuyển vũ khí, lương thực, cất lán trại, hội trường cho các hội nghị, đại hội Đảng, cùng với dân quân đi chuyển tải thương binh, chiến lợi phẩm phục vụ bộ đội chiến đấu tiêu diệt đồn địch.
Nhân dân ban ngày sản xuất, ban đêm sinh hoạt đoàn thể, học bình dân xóa mù chữ, dự mít tinh, nghe tin tức thời sự, nghe ca hát vui chơi với cơ quan, với bộ đội. Cán bộ chiến sĩ, quân với dân gắn bó nhau như gia đình ruột thịt.
Về hoạt động quân sự, năm 1948 địch sử dụng hình thức đội cơ động nhỏ, biệt kích (Commandos) kết hợp với hệ thống đồn bót, hệ thống ngụy quân, ngụy quyền, làm biện pháp phòng thủ, bình định, đánh phá phong trào đồng bằng, đánh úp chỗ ở của cán bộ, du kích ở các vùng giáp ranh căn cứ. Sử dụng lực lượng cơ động cấp tiểu đoàn trở lên tấn công đánh phá căn cứ nhằm tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo kháng chiến và lực lượng của ta. Trước thực tế ấy, ta phải có phương thức hoạt động phù hợp, phải có sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất trên toàn chiến trường của phủ thì mới phát huy được sức mạnh của 3 thứ quân, sức mạnh tổng hợp của quân và dân để đánh bại địch, hỗ trợ có hiệu quả cho phong trào kháng chiến của nhân dân.
Từ yêu cầu đó, tháng 3.1948, Phủ ủy Ninh Hòa thành lập cơ quan quân sự huyện (Phủ đội) Ban Chỉ huy Phủ đội lúc đầu có:
- Hứa Đại Chuân - Phủ đội trưởng.
- Bùi Đoàn - Phủ đội phó.
- Tống Đình Phương, Tỉnh ủy viên, Bí thư Phủ ủy lâm thời - Chính trị viên.
Tháng 8.1948 đồng chí Nguyễn Thặng, chính trị viên đại đội Vũ Trung Ân về làm Chính trị viên Phủ đội thay cho đồng chí Tống Đình Phương . Đồng chí Bùi Đoàn được điều về tỉnh làm Tỉnh đội phó.
Về lãnh đạo Đảng, chính quyền phủ thời gian sau đại hội Đảng bộ lần thứ nhất (12.1946) cũng có một số thay đổi. Đầu năm 1947, các đồng chí Tống Đình Phương, Đỗ Long - Bí thư và Phó Bí thư Phủ uỷ đi dự lớp học chính trị ở Liên khu 5, đồng chí Mai Liêm ở tỉnh về làm Bí thư, kiêm Chủ nhiệm Việt Minh thay đồng chí Tống Đình Phương. Đồng chí Phương về, đồng chí Mai Liêm về lại tỉnh. Năm 1948, tỉnh rút đồng chí Tống Đình Phương về tỉnh làm Chính trị viên Tỉnh đội; đồng chí Đặng Vinh Hàm phủ uỷ viên, phụ trách khu Hòn Khói về thay đồng chí Tống Đình Phương. Cuối năm 1949, tỉnh điều đồng chí Đặng Vinh Hàm về làm Bí thư Huyện uỷ huyện Vạn Ninh, đồng chí Trần Nguyên Tích Tỉnh uỷ viên về thay đồng chí Hàm.
Bộ máy chính quyền, năm 1948, đồng chí Đỗ Long, chủ tịch UBKCHC phủ về tỉnh; đồng chí Trần Sử, chủ tịch UBKCHC xã Vạn Thắng về làm Chủ tịch thay đồng chí Đỗ Long. Đồng chí Nguyễn Bính làm trưởng công an, đồng chí Nguyễn Lưu làm Trưởng phòng thông tin…
Các tổ chức đoàn thể, đồng chí Nguyễn Tấu làm Thư ký phủ Đoàn thanh niên; Nguyễn Thị Nhiễu Thư ký Hội phụ nữ, Nguyễn Diện thư ký Hội nông dân thay đồng chí Hồ Xưa về làm Thư ký Nông hội tỉnh; đồng chí Nguyễn Mỹ trong Ban Chấp hành công đoàn tỉnh phụ trách công đoàn muối và Công đoàn hải nghệ Ninh Hòa.
Sau ngày thành lập Phủ đội, các xã đều thành lập xã đội dân quân. Thực hiện cơ chế Đảng nắm và chỉ đạo trực tiếp lực lượng võ trang, cấp ủy các xã cử cấp ủy viên sang làm chính trị viên xã đội, hoặc cơ cấu các đồng chí chỉ huy xã đội vào cấp ủy xã.
Về hoạt động quân sự, để hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh chống địch đang càn quét, đánh phá, chiêu an dồn dân ở các thôn còn lại trên vành đai ven đầm Nha Phu, Đại đội Vũ Trung Ân đưa quân di động đóng quân ban ngày trong làng, phối hợp với du kích các xã đánh địch càn quét vùng Ngũ Mỹ, Đồng Gieo. Tháng 10.1948 lấn vào đóng ở các thôn Thạch Thành, Trường Châu đánh thiệt hại nặng toán quân tiếp tế đồn Phú Hòa tại nhà trường thôn Trường Châu…
Địch bị đánh ban ngày ở vùng ven phủ lỵ, phải co về phòng thủ, tề ngụy các thôn chạy dạt vào phủ lỵ lẩn tránh. Tranh thủ thuận lợi, cán bộ, dân quân các xã mở rộng diện tiếp xúc, tuyên truyền vận động quần chúng, phát triển cơ sở. Thông qua gia đình vận động tề ngụy bỏ ngũ, bỏ việc trở về gia đình, không làm điều gì có hại đến lợi ích của nhân dân, đồng thời đưa truyền đơn kêu gọi, đưa thư cảnh cáo những hành động tội ác đối với số tề lưu vong đang dây dưa tiếp tay cho giặc. Ban đêm đào hầm bí mật để bám làng, bám dân hoạt động.
Tháng 3. 1948, Đại đội Vũ Trung Ân phối hợp với Trung đội Danh Dự tấn công đánh phá khu an toàn Phú Hữu - Vạn Thuận của địch, tập hợp nhân dân tuyên truyền giải thích âm mưu, thủ đoạn của địch, chủ trương của ta, bắt đưa về căn cứ giáo dục 25 tề điệp tay sai địch. Từ đó nhân dân nhận rõ thủ đoạn của địch, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ tệ đánh mõ, la làng, vây bắt Việt Minh. Khu an toàn Phú Hữu - Vạn Thuận bị đánh bại. Các thôn trên vành đai ven đầm Nha Phu tiếp tục trụ vững.
Cuối tháng 4.1948, ta sử dụng Trung đội Danh Dự về khu Hòn Khói mở đợt vũ trang tuyên truyền đánh địch, kết hợp với binh vận và hỗ trợ cho cán bộ các xã trong khu về làng làm công tác, nhằm lập thành tích kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động 1.5 và làm quà mừng sinh nhật Bác Hồ kính yêu ngày 19.5.
Trong thời gian hoạt động ở đây, ta chận đánh một tiểu đội địch, diệt 2 tên Pháp, đồng thời qua các đồng chí lãnh đạo ở xã ta được biết, các đồng chí ở đây liên hệ được với hai nhân mối trong Đồn Thương chánh là Nguyễn Thắng Ân, thông ngôn cho tên Batesti đồn trưởng và đội Giáp ở trung đội bảo vệ đồn. Các anh muốn được phối hợp với bộ đội tổ chức diệt đồn thu vũ khí, bắt tù binh, lập công để trở về với hàng ngũ kháng chiến mà gia đình không bị liên lụy, không bị khủng bố.
Ta chớp thời cơ thuận lợi này, gặp nhân mối bàn bạc kế hoạch hợp đồng giữa bên trong và bên ngoài để tiêu diệt Đồn Thương chánh. Sau khi thống nhất kế hoạch, Ban Chỉ huy Phủ đội điều động thêm 2 đại đội: Đại đội Lê Hồng Phong do Nguyễn Văn Vịnh đại đội trưởng; Đại đội Hồng Liên, do Châu Võ đại đội trưởng phối hợp với trung đội Danh Dự do Nguyễn Cụ, Trung đội trưởng thực hành trận đánh, do Ban Chỉ huy Phủ đội Hứa Đại Chuân và Bùi Đoàn trực tiếp chỉ huy.
Trong trận này, do yêu cầu phải bắt sống tên Đồn trưởng là võ sĩ quyền Anh đã từng vô địch ở Đông Dương để khai thác nơi cất giấu tiền bạc, tài liệu hồ sơ của Sở Thương chánh, trong đó có những giấy nợ của dân đối với Công ty… nên trong lực lượng đánh vào nội đồn, gồm những cán bộ, chiến sĩ giỏi võ như Châu Văn, Lê Đào Nọ, Nguyễn Hơn… do Châu Võ trực tiếp chỉ huy. Khâu hậu cần, tải thương, chuyển chiến lợi phẩm thì do một trung đội dân quân của hai thôn Ninh Tịnh và Ninh Yển, với 7 chiếc thuyền chèo, do xã đội trưởng xã đội Trịnh Phong (Ninh Hải) trực tiếp phụ trách.
Đêm 8.5.1948, lúc 23 giờ các mũi xung kích của ta do các đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy, bí mật tiếp cận đến điểm hẹn an toàn. Nhận được tín hiệu, các nhân mối ra đưa lực lượng ta vào nội đồn chiếm các mục tiêu đã phân công. Tên lính gác trên đài quan sát của địch phát hiện bắn súng và hô to "Việt Minh, Việt Minh". Nhân đó, ta phát lệnh tấn công. Tên đồn trưởng Batesti, chống trả quyết liệt, một số đồng chí trúng đòn bị thương, thừa sơ hở, hắn phóng qua của sổ ra ngoài, bị ta bắn chết.
Khoảng 30 phút, ta làm chủ hoàn toàn trận địa, bắt tù binh, thu vũ khí, và một triệu bạc Đông Dương cùng nhiều quân trang, quân dụng. Số chiến lợi phẩm được đưa xuống thuyền chuyển về căn cứ Hòn Hèo. Bên ta không có thương vong, 2 nhân mối về với hàng ngũ kháng chiến.
Chiến thắng Hòn Khói là chiến công oanh liệt diệt đồn đầu tiên, một bước tiến lớn của lực lượng vũ trang và dân quân Ninh Hòa. Là một trong những chiến công tiêu biểu trong tỉnh lúc bấy giờ. Tác động uy hiếp rất mạnh tinh thần binh lính địch, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần thi đua đánh địch lập công của quân và dân trong phủ. Được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 3. Đây là món quà rất có ý nghĩa của quân và dân Ninh Hòa mừng sinh nhật lần thứ 58 của Bác Hồ kính yêu.
Trên cơ sở phong trào Ninh Hòa vững mạnh và Hòn Hèo là nơi có điều kiện tiếp nhận sự chi viện của Liên khu ủy 5 về vũ khí, lương thực… từ vùng tự do chuyển vào bằng đường biển. Tháng 8.1948, Tỉnh ủy chủ trương lấy Hòn Hèo làm căn cứ kháng chiến của tỉnh, đưa các cơ quan lãnh đạo và các ban ngành, đoàn thể tỉnh về đóng tại đây. Lúc đầu Tỉnh ủy đóng ở Đầm Vân, UBKCHC tỉnh đóng ở Ninh Tịnh (chân núi Mái Nhà), Tỉnh đội đóng gần suối Hoa Lan, Cơ quan Trung đoàn 80 đóng ở Vũng Tàu, Cơ quan tình bào tỉnh và một bộ phận tình báo Liên khu 5 đóng ở Hòn Thị, các Cơ quan Ninh Hòa đóng ở Bà Bố- Vũng Đình. Riêng cơ quan UBKCHC vẫn còn một bộ phận, do đồng chí Nguyễn Văn Huyền, Phó Chủ tịch phụ trách đóng tại Hòn Lớn (gộp ông Huyền). Đến đầu năm 1949, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy của tỉnh đều chuyển tập trung về Đầm Vân. Căn cứ Hòn Hèo đồng thời là căn cứ kháng chiến của tỉnh từ thời điểm này. Thời gian sau đó, Đại đội tiếp vận đường biển và Công ty mậu dịch Việt Thắng của Liên khu 5 cũng vào đóng tại Đầm Vân. Cửa biển thôn Đầm Vân trở thành cửa khẩu tiếp nhận hàng chi viện của Liên khu vào Khánh Hòa và hàng nhu yếu phẩm mua được ở Nha Trang chuyển về Liên khu.
Tháng 7.1948, trước khi chuyển về Hòn Hèo, Tỉnh ủy họp mở rộng tại căn cứ Hòn Lớn (phía nam thôn Phú Nhơn) để nghiên cứu và xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV. Các đồng chí Hứa Đại Chuân, Bùi Đoàn, Nguyễn Thặng được mời về tham dự. Nội dung hội nghị trọng tâm là công tác vùng sau lưng địch. Trong kế hoạch thực hiện, Hội nghị đưa ra chủ trương "tiến về làng" kháng chiến ở hương thôn theo phương châm "tin vào dân, dựa vào dân"; vấn đề tổ chức cơ quan quân sự các cấp…
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, tháng 9.1948, Ban Chỉ huy Tỉnh đội phát động phong trào "luyện quân lập công", phát triển chiến tranh du kích, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta. Tiếp theo, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 phát động phong trào "rèn cán chỉnh quân”, mở liên tiếp các lớp học chính trị, các khóa huấn luyện quân sự, bổ túc văn hóa tiểu học, trung học ở các tỉnh vùng tự do Phú Yên, Quảng Ngãi.
Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Phủ ủy lần lượt cử cán bộ từ phủ ủy viên, bí thư chi bộ, cán bộ xã đội, trung đội, đại đội… đi dự các khóa học do Liên khu mở ở vùng tự do và các lớp học chính trị, bổ túc văn hóa do tỉnh mở tại căn cứ Hòn Hèo.
Các đại đội địa phương tự xây dựng chế độ, thời khóa biểu dành cho việc học tập chính trị, huấn luyện quân sự, học văn hóa tại chỗ cho cán bộ, chiến sĩ. Hàng ngày có giờ cá nhân tự học lấy tên là "Giờ Hồ Chí Minh”. Đến giờ này, ai nấy đều vào giờ học của mình, không ai được làm việc gì có ảnh hưởng không tốt đến việc học tập.
Các đơn vị vũ trang của Ninh Hòa, của Trung đoàn 80 vừa luyện quân vừa tấn công tiêu diệt địch liên tục. Trung đội trinh sát (đại đội 240), do đồng chí Phước chỉ huy, chận đánh toán địch đồn Phú Hữu (xã Ninh Ích) lên vùng núi Ba Hồ, diệt gần hết toán địch này, thu 15 súng các loại, có 1 trung liên. Tiếp theo đánh toán địch đồn Vạn Khê (xã Ninh Lộc) càn vào gò Cây Cầy. Đại đội 160 cũng đánh quân đồn này tại Ninh Đức. Trong các trận, địch vừa lọt vào trận địa phục kích, là ta nổ súng và xung phong ngay, đuổi địch chạy về tận đồn, diệt nhiều tên, thu vũ khí, phục vụ cho nhân dân các thôn ven đầm Nha Phu của 2 xã đấu tranh chống địch dồn dân thêm có hiệu quả.
Ở khu phố Ninh Hòa, trung đội trinh sát phối hợp với Xung phong đội chận đánh toán quân tiếp tế đồn Vĩnh Phước tại thôn Quan Đông, tiêu diệt một số tên, trong đó có tên đội chỉ huy, thu một tiểu liên Tông xông (Thompson). Tiếp đó đánh toán địch bót cầu Sắt càn ra ấp dưới thôn Quan Đông thu 3 tiểu liên và súng trường. Đại đội Hồng Liên tập kích chiếm chốt điểm địch bảo vệ nhà Bưu điện. Đại đội Vũ Trung Ân phối hợp với du kích xã chận đánh đại đội cơ động chi khu Ninh Hòa càn lên vùng Hiệp Thịnh - Bình Trị. Trong các trận, địch bị tiêu diệt và bị thương nhiều tên, ta thu được nhiều vũ khí. Bên ta 1 chiến sĩ hy sinh. Địch bị ta tấn công liên tục từ vùng giáp ranh rừng núi, nông thôn đồng bằng đến trung tâm khu phố, tề ngụy hoang mang, trung tâm đầu nảo của địch mất ổn định chúng rất bối rối.
Ở vùng nông thôn, trong dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng tám và Quốc khánh 2.9.1948, mặc dù địch đề phòng rất cẩn mật cả về chính trị lẫn quân sự trong suốt 2 tuần từ 19.8 đến 2.9, nhưng Ninh Hòa vẫn tổ chức được nhiều cuộc mít tinh có bộ đội, du kích và dân quân bảo vệ chặt chẽ "gây một quang cảnh gần như "độc lập", làm cho đồng bào tuy sợ địch nhưng cũng hứng khởi". (26)
Cuộc mét tinh ở chân núi phía Bắc Ổ Gà kỷ niệm Quốc khánh 2.9 có hàng ngàn quần chúng tham dự trong đó có số đông đồng bào ở 2 xã Phước Đông, Phước Trung. Qua phát động, nhân dân tự nguyện đóng góp được 120.000 đồng Đông Dương. Vụ mùa năm này nhân dân ủng hộ cho kháng chiến 10.000 giạ lúa.(27)
Hỗ trợ cho phong trào địa phương, đêm 11.11.1948, Tiểu đoàn 360 của trung đoàn 80, do đồng chí Đoàn Huyên, Trung đoàn phó trực tiếp chỉ huy, tấn công tiêu diệt đồn Phước Thuận (Ninh Đông), địch chết 40 tên (có 5 tên Pháp), ta thu toàn bộ vũ khí gồm 3 trung liên, 1 cối 60 ly, 26 tiểu liên và súng trường. Bên ta, 15 đồng chí cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong đó có đồng chí Nguyễn Hộ, đại đội phó; Hồ Chí Hổ (người Đức) xạ thủ khẩu tiểu pháo 20 ly và 15 đồng chí bị thương.
Đây là trận diệt đồn bằng chiến thuật cường tập thắng lợi đầu tiên trên chiến trường Khánh Hòa, ảnh hưởng lớn làm cho binh lính địch, tề ngụy địa phương lo sợ sức mạnh của quân đội Việt Minh, quần chúng phấn khởi, đơn vị rút được nhiều kinh nghiệm về kỹ thuật công phá đồn địch.
Chiến thắng đồn Phước Thuận được Bộ tư lệnh Liên khu 5 tặng thưởng 2 huân chương chiến công: hạng nhất cho tập thể, hạng nhì cho cá nhân.
(26) Báo cáo năm 1948 của Tỉnh ủy Khánh Hòa gửi Liên khu 5 (Bản sao lưu tại Ban Tuyên giáo Ninh Hòa).
(27) Mỗi giạ 9 kg.
Cùng lúc với tấn công diệt đồn Phước Thuận, dân quân du kích xã Tân Hương (Ninh Thân) bao vây tấn công đánh phá khu an toàn thôn Đại Tập, bắt cảnh cáo giáo dục hàng chục tề điệp gian ác, động viên nhân dân đấu tranh xóa bỏ tệ đánh mõ, la làng, vây bắt Việt Minh có kết quả. Địch phải bỏ thủ đoạn này.
Trong hoạt động quân sự, Phủ ủy Ninh Hòa luôn chú ý đến việc chỉ đạo các ngành, giới, các cấp uỷ và chính quyền xã cùng phối hợp chặt chẽ với bộ đội từ khâu chuẩn bị chiến trường, đến các hoạt động phối hợp trong và sau mỗi trận đánh, nhằm làm cho trận đánh tránh được hậu quả xấu cho nhân dân, phục vụ tốt cho phong trào cách mạng.
Sau chiến thắng Phước Thuận, Ninh Hòa phối hợp với các ban ngành, đoàn thể tỉnh, tổ chức Đại hội Quân-Dân-Chính tại thôn Ninh Tịnh, nhằm động viên phong trào quân dân đoàn kết đẩy mạnh kháng chiến. Trong Đại hội có tổ chức biểu diễn văn nghệ. Cán bộ các cơ quan huyện, tỉnh, bộ đội và nhân dân tham dự đông đảo, khí thế rất sôi nổi, hào hứng.
Tiếp theo, cũng tại thôn Ninh Tịnh ta mở tòa án quân sự xử tội vắng mặt một số tên Việt gian đầu sỏ, những tên đầu hàng phản bội Tổ quốc gây nhiều tội ác với nhân dân như: Nguyễn Chiến, Đoàn Ngọ, Nguyễn Trãi, Trần Văn Giá… nhằm để giáo dục, răn đe làm hạn chế những hành động tội lỗi của bọn làm tay sai cho giặc đối với nhân dân.
Năm 1948, phong trào kháng chiến của Ninh Hòa phát triển khá nên hoạt động của nhiều ban ngành chính quyền phủ, tỉnh trên địa bàn đều thu kết quả tốt như ngành thuế: thu thuế nhập thị, thuế lâm sản, thuế muối đạt các chỉ tiêu đề ra, cân đối được thu chi của các cơ quan phủ.
Ngành công an xây dựng được hệ thống ngành từ phủ đến cơ sở, lập được hồ sơ, danh sách hầu hết các đối tượng đầu sỏ phản động phục vụ kịp thời cho công tác đấu tranh đánh bại ngụy quyền tay sai của địch. Ảnh hưởng của Chính quyền cách mạng ngày một lớn mạnh.
Công tác thông tin tuyên truyền gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng nên được các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền Ninh Hòa rất coi trọng từ những năm đầu sau Cách mạng tháng 8. 1945.
Đến năm 1947 - 1948, Phòng Thông tin Ninh Hòa được xây dựng thành phòng loại mạnh trong tỉnh, có số lượng cán bộ, nhân viên đông đảo, đủ các bộ phận chuyên môn như: Biên tập tin, văn nghệ, in litô, thạch bản và Đội Tuyên truyền lưu động. Xây dựng được hệ thống ngành từ phủ đến cơ sở. Ở xã gọi là Ban tuyên truyền, do đồng chí phụ trách tuyên huấn của chi bộ kiêm trưởng ban. Có xã, do bí thư xã đoàn thanh niên làm trưởng ban.
Đồng chí Nguyễn Lưu, Trưởng phòng Thông tin tuyên truyền huyện rất am hiểu chuyên môn, luôn có ý thức bám cơ sở, bám chiến trường, sáng tác ca dao, bài chòi rất nhanh, phục vụ rất kịp thời cho công tác tuyên truyền. Phòng ra được bản tin thường xuyên, in litô khá đẹp, phát hành rộng rãi xuống cơ sở.
Từ khi các cơ quan của tỉnh về đóng ở Ninh Hòa, phòng phối hợp với ngành cấp trên tổ chức đội văn nghệ quần chúng biểu diễn phục vụ các cơ quan, bộ đội và nhân dân trong căn cứ. Phối hợp với lực lượng vũ trang tổ chức những đêm về làng trong vùng địch kiểm soát, mở mít tinh diễn kịch, hát bài chòi ca ngợi chiến thắng, kêu gọi binh sĩ ngụy trở về gia đình, nhân dân rất thích. Trong những đêm phục vụ hoạt động quân sự, đánh phá các khu an toàn của địch... đội tuyên tuyền lưu động hoạt động kết hợp rất đắc lực như rải truyền đơn, treo cờ Tổ quốc, áp sát đồn bót, dùng loa kêu gọi binh lính địch trở về với gia đình, với Tổ quốc, nhiều lần chúng bắn ra, các đồng chí ta vẫn gọi, có lúc chuyển sang hô bài chòi, lính địch thôi bắn, lắng nghe.
Ngành thông tin góp phần rất đáng kể vào thắng lợi chung của quân và dân Ninh Hòa. Năm 1949, được UBKCHC miền Nam Trung bộ và Sở thông tin Liên khu 5 tặng cờ và bằng khen dành cho đơn vị đứng đầu trong toàn Liên khu.
Lúc này đường tiếp vận từ vùng tự do Liên khu vào Hòn Hèo được thiết lập. Mặc dù nhằm vào thời điểm gió mùa đông bắc, thuyền vào bốc dỡ hàng xong phải nhận chìm dưới nước hoặc phá bỏ, xóa dấu vết, để bảo đảm bí mật, rất tốn kém, nhưng những chuyến đầu tiên vẫn được đưa vào. Việc nhận hàng diễn ra chỉ trong một đêm để sáng ra kịp xóa dấu vết rất khẩn trương mệt nhọc, nhưng từ cán bộ, nhân viên đến nhân dân ai nấy đều rất vui, khí thế rất sôi nổi.
Hòa vào khí thế cách mạng sôi nổi trên căn cứ, hàng trăm thanh niên nam nữ trong vùng địch kiểm soát ở vùng Đông và vùng Nam phủ, nô nức chuẩn bị lên căn cứ Hòn Hèo dự cuộc họp bạn do đoàn thanh niên phủ tổ chức tại bãi Vũng Đình, nhằm động viên phong trào kháng chiến, phong trào tòng quân nhập ngũ trong các tầng lớp thanh niên.
Trước sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến, của căn cứ Hòn Hèo, ngày 10.12.1948, địch huy động hơn 4000 quân Âu-Phi, có 7 máy bay, 6 tàu chiến trực tiếp yểm trợ, mở cuộc hành quân bao vây tấn công đánh phá căn cứ Hòn Hèo, lấy tên là cuộc hành quân "Bão táp" (Opération Typhon) do tên đại tá Ni-co-la (Nicola) chỉ huy, nhằm tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo kháng chiến cao nhất của tỉnh và lực lượng chủ lực của ta, đốt phá kho tàng, phá hoại sản xuất của nhân dân, nhằm gây mất ổn định và loại trừ tận gốc phong trào kháng chiến của nhân dân, xuất phát từ sự chỉ đạo, chỉ huy của trung tâm đầu não cao nhất này.
Chúng hình thành thế trận bao vây, gần như khép kín toàn bộ khu vực Hòn Hèo, dùng máy bay thả bom, tổ chức nhiều mũi bộ binh tấn công đánh sâu vào các khu vực cơ quan lãnh đạo, doanh trại các đơn vị vũ trang, các khu dân cư, kéo dài 21 ngày đêm liền.
Cuộc tấn công của địch mở màn nhằm lúc cuộc họp bạn của trên 300 thanh niên nam nữ đã tổ chức được một ngày tại bãi Vũng Đình. Địch dùng 4 máy bay khu trục (spitfire) bắn dữ dội xuống địa điểm cuộc họp bạn. Tàu thủy chở quân đổ bộ lên bãi Hoa Lan cạnh đó… Nhờ bình tĩnh, dũng cảm, ta đã bảo vệ được cuộc họp bạn, không ai bị thương vong và chỉ 2 ngày sau, ta đưa được toàn bộ 300 thanh niên vượt ra khỏi vòng vây trở về gia đình an toàn, cùng phối hợp với căn cứ đánh phá hậu phương địch. Tại căn cứ, các mũi thọc sâu của địch, bị lực lượng ta chận đánh quyết liệt, bẻ gãy được nhiều mũi tiến công của chúng. Đại đội 160, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 80 ban đêm luồn ra vòng vây phía Tây bắc Hòn Hèo (vùng Chánh Thanh) chạm mặt một đơn vị địch đang phục kích tại đây nổ súng. Ta đánh trả áp đảo vào đội hình địch, diệt nhiều tên, thu một số vũ khí rồi hành quân lên hướng Đá Bàn.
Ngày 13.12.1948, chỉ sau 3 ngày địch mở cuộc bao vây, Đại đội 200, Tiểu đoàn 6, phối hợp với Đại đội địa phương Vũ Trung Ân đánh thiệt hại nặng đại đội hành quân dã ngoại của địch tại thôn Phước Mỹ (xã Ninh Hưng), bắt sống toàn bộ ban chỉ huy đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Dân quân du kích các xã, lợi dụng lúc lực lượng địch tập trung bao vây Hòn Hèo, bên trong sơ hở, đã đột nhập vào các thôn ven phủ lỵ truy quét bọn tề điệp gian ác, tập kích quấy rối trung tâm chi khu và nhiều đồn bót trong phủ, hổ trợ cho căn cứ Hòn Hèo. Đêm 30.12, địch vừa kết thúc trận càn, một bộ phận Đại đội 160 phối hợp với du kích xã tập kích tiêu diệt chốt điểm địch bảo vệ nhà bưu diện trong phủ lỵ, một bộ phận khác do trung đội trưởng Phạm Đình Dư chỉ huy đánh chiếm chiếc tàu vận tải hải quân địch, chiếc A-mi-ran-véc-nông (Améral Vernon) bắt toàn bộ thủy thủ tại cảng Đông Hà (Hòn Khói).
Trận càn của địch kết thúc thảm bại, địch không tiêu diệt được cơ quan, đơn vị chủ lực nào của ta. Ngược lại, sinh lực của chúng bị ta tiêu hao nặng, ảnh hưởng của kháng chiến không bị đè bẹp mà còn dâng cao và rộng lớn hơn trước. Tên đại tá Ni-cô-la chỉ huy trận càn bị khiển trách, sau trận càn căn cứ Đồng Bò bại tiếp, y tự sát.
Đến cuối năm 1948, phong trào kháng chiến của Ninh Hòa phát triển rất cao. Dân số toàn phủ chỉ có trên 43.000 người (chưa kể Phước Thiện) đã có trên 12.387 hội viên cứu quốc, 2448 hội viên Liên Việt. Số lượng đảng viên tăng lên gấp ba lần, gồm 260 đảng viên, trong 16 chi bộ. Toàn phủ có 3 đại đội và một trung đội vũ trang địa phương, 415 du kích thoát ly, 800 dân quân sống hợp pháp trong nhân dân. Bộ máy lãnh đạo và các ban ngành, đoàn thể ở phủ, (phủ đội) và xã đội được thành lập. Cán bộ các cấp, các ngành được Tỉnh uỷ, Phủ uỷ lần lượt cử đi dự các lớp học chính trị, văn hoá, các khoá huấn luyện quân sự do Liên khu mở ở vùng tự do, tỉnh mở ở căn cứ Hòn Hèo. Trình độ chính trị, văn hoá, tinh thần và năng lực công tác, chiến đấu tăng lên rõ rệt.
Nhân dân đóng góp hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, 218 thanh niên thoát ly gia nhập vệ quốc đoàn, 609 (có 234 nữ) vào dân quân chiến đấu. Các mẹ, chị chiến sĩ vận động nhân dân ủng hộ hàng ngàn heo, gà, vịt cho bộ đội. Hội phụ nữ ủng hộ 700.000 đồng Đông Dương, vận động được 12 lính ngụy trở về với gia đình, với kháng chiến, mang theo 2 trung liên, 4 tiểu liên và 14 súng trường, nông dân vận động được 43 điền chủ thực hiện giảm tô 25%.
Hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền hoang mang dao động mạnh, ban ngày không dám ra khỏi đồn vì sợ mìn, sợ du kích bắn chết. Chúng thách đố nhau: "muốn ăn to ra Dốc Mõ (Vạn Ninh), muốn ăn nhỏ xuống Hòn Hèo, muốn ăn bom heo ra đèo Bánh Ít".
Trong phần đánh giá phong trào Ninh Hòa trong Báo cáo năm 1948 của Tỉnh ủy gửi về Liên khu 5 có đoạn viết: "Ninh Hòa tình hình tương đối vững nhất trong tỉnh… Hội tề của địch chỉ còn 32 thôn, nhưng chỉ trong 2 xã Tây Sơn và Tân Hương là còn vững, ta đang tiếp tục phá hết… Đặc biệt ở Ninh Hòa dân quân thoát ly bây giờ hăm hở về làng hơn đâu hết… đánh nhiều trận oanh liệt… các bộ đội đều về làng, đóng ở làng, đánh địch ban ngày ở làng, rượt địch chạy ngay bên cạnh Ninh Hòa (tức Phủ lỵ)".(28)
(28) Báo cáo của Tỉnh ủy Khánh Hòa năm 1948 gửi Liên khu 5 (Bản sao lưu tại Ban Tuyên giáo Huyện ủy).
Trong chiến đấu, nhiều chiến sĩ du kích nêu những tấm gương chiến đấu hết sức kiên cường, dũng cảm: em Nguyễn Trống, quê thôn Tân Hưng (Ninh Hưng), giữa đêm, tổ du kích của em bị biệt kích Pháp đánh úp chỗ ở, em bị bắt, không để rơi vào tay giặc, em tháo canh lựu đạn cho nổ tại chỗ, em hy sinh, 3 tên Pháp chết và bị thương, có một sĩ quan chỉ huy. Địch vội vã rút quân không kịp lục soát, một số đồng đội của em thừa cơ chạy thoát. Tuổi của em còn nhỏ (18 tuổi) nhưng ý chí, tinh thần của em rất lớn, em đã chọn sự hy sinh đổi mạng với quân thù sừng sỏ, để đồng đội được sống tiếp tục chiến đấu. Em đã nêu cao tấm gương cao đẹp cho muôn đời sau.
Chị Nguyễn Thị Đối, người cùng quê Tân Hưng, đồng đội với em Trống, một hôm, chị đang đi thu hủ gạo nuôi quân của đồng bào thôn Tân Hưng không may bị địch đồn Tân Hưng bắt được, vì có tang vật, nên chị bị địch tra tấn tại chỗ cực kỳ dã man, khốc liệt, để tìm ra là gạo của những ai, trong cơn đau đớn quằn quại chị chỉ bảo "bọn mày giết tao đi". Bọn lính Pháp lồng lộn cấu xé chị như thú dữ giành mồi. Trong hơi thở yếu ớt chị cũng chỉ nói "bọn mày giết tao đi". Địch giết chị, cột dây kéo xác chị dọc đường làng để răn đe nhân dân. Nhưng nhân dân không khiếp sợ mà càng căm thù, ghê tởm bộ mặt dã man, tàn bạo của giặc Pháp, càng xót thương và khâm phục tinh thần dũng cảm của chị trước kẻ thù. Chị Nguyễn Thị Đối quyết hy sinh để bảo vệ khí tiết, bảo vệ đồng bào thôn Tân Hưng của chị. Tấm gương của chị sống mãi trong lòng nhân dân trong vùng.
Phụ nữ ở nhiều thôn xã không cam tâm chịu nhục như chị Lê Thị Trọn cán bộ phụ nữ thôn Xuân Mỹ (nay thuộc xã NinhThọ) thà chết cương quyết chống lại hành động cưởng hiếp của lính địch đồn Lạc Ninh, bị chúng bắn chết tại chổ. Các anh Nguyễn Phước và Nguyễn Hiệu cán bộ cơ sở ở thôn Lạc Hạ (Ninh Thọ) gặp địch càn chạy vào nhà lẫn tránh, địch phát hiện được kêu gọi 2 anh ra đầu hàng nếu không ra chúng đốt nhà. Hai anh đã chịu chết cháy không ra để địch bắt.
Tuy vậy, phong trào mạnh không đều, tình hình ở vùng Tây (khu Xuân Hòa) còn rất khó khăn. Địch lập được tề, kiểm soát được dân, cán bộ đi lại hoạt động bị tiêu hao ngày một nhiều. Bức xúc trước tình hình đó, bộ đội và du kích ở đây trừng trị bọn phản động tay sai địch thiếu phân biệt, thiếu cân nhắc thận trọng, một số trường hợp có tính khủng bố trả thù gia đình bọn chúng ở các thôn Đại Tập, Chấp Lễ… với suy nghĩ nông cạn là chúng đã tịch thu, cướp tài sản của gia đình Việt Minh làm giàu, thì phải đền tội và phải trả lại tài sản cho nhân dân.
Địch lợi dụng những sai sót của ta xuyên tạc, khoét sâu mâu thuẫn và lôi kéo nhân dân chống lại kháng chiến, gây hậu quả xấu cho phong trào một thời gian khá dài.
TỔ CHỨC LẠI LỰC LƯỢNG CHUẨN BỊ CHO PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ MỚI. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ LẦN THỨ 2.
Năm 1949, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bước sang năm thứ tư. Tháng 1.1949, Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng nhận định: "Ta càng đánh càng mạnh, Pháp càng đánh càng suy nhược, càng lâm vào cảnh lúng túng… tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi", Hội nghị chủ trương "Động viên mọi lực lượng tinh thần và vật chất của toàn dân vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc, giành kỳ được độc lập và tự do thực sự". Với khẩu hiệu "Tất cả để chiến thắng".
Thực hiện phương hướng nhiệm vụ mới của Trung ương Đảng, hội nghị cán bộ bất thường toàn tỉnh ngày 13.2.1949 đề ra nhiều nhiệm vụ cụ thể về tổ chức bộ máy, về kiện toàn cơ quan lãnh đạo và bộ máy giúp việc từ tỉnh đến cơ sở, bổ sung cán bộ tốt cho lực lượng vũ trang, bảo đảm tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo mọi mặt của kháng chiến trong giai đoạn mới - giai đoạn “tích cực cầm cự, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công".
Thực hiện các chủ trương nói trên, tháng 2.1949, Hội nghị Phủ ủy mở rộng vào tháng 4.1949 ra nghị quyết: tổ chức lại lực lượng vũ trang, đẩy mạnh hoạt động chống thủ đoạn bình định mới của địch, chuẩn bị Đại hội đại biểu lần thứ 2 của Đảng bộ.
Tháng 1.1949, Ban chỉ huy Phủ đội Ninh Hòa tiến hành hợp nhất tất cả các đơn vị địa phương ở các khu vực thành Đại đội Ninh Hòa. Đại đội có 3 trung đội chiến đấu, một trung đội trinh sát. Ban chỉ huy đại đội gồm:
Châu Võ: Đại đội trưởng.
Nguyễn Văn Bình: Chính trị viên.
Nguyễn Cụ và Nguyễn Văn Vịnh: Đại đội phó.
Ban Chỉ huy phủ đội, đồng chí Trần Đồng làm Phủ đội trưởng thay đồng chí Hứa Đại Chuân từ cuối năm 1948, đồng chí Nguyễn Thặng, chính trị viên Phủ đội được phân công cùng đi với Đại đội Ninh Hòa trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy đơn vị trong thời gian đầu mới thành lập.
Đồng thời với tổ chức lại lực lượng vũ trang địa phương, trong năm 1949, Ninh Hòa còn bổ sung cho Trung đoàn 80 và cho Tỉnh đội Khánh Hòa 250 cán bộ tiểu đội và chiến sĩ đã qua chiến đấu tỏ ra vững vàng và sức khỏe tốt để bổ sung cho Tiểu đoàn 360 xây dựng thành tiểu đoàn chủ lực 365 và bổ sung cho Đại đội trinh sát 240 thành Đại đội độc lập 360 đứng hoạt động ở chiến trường Bắc Khánh thay cho Tiểu đoàn 360 cũ.
Đại đội Ninh Hòa vào cuối năm 1949 chỉ còn khoảng 2 trung đội, đa số là thương binh, bệnh binh vừa phục hồi sức khỏe, phải đưa về căn cứ Hòn Hèo nghỉ dưỡng, huấn luyện, khôi phục sức chiến đấu.
Cuối tháng 8.1949, Đảng bộ mở Đại hội đại biểu lần thứ 2 tại thôn Ninh Yển xã Phát Đạt (nay là xã Ninh Phước) có gần 100 đại biểu, đại diện cho 260 đảng viên chính thức trong toàn Phủ về dự.
Đại hội có đồng chí Trịnh Huy Quang, Ủy viên Liên khu ủy 5 thay mặt Liên khu ủy và đồng chí Tôn Thất Vỹ , Bí thư Tỉnh ủy dự, chỉ đạo Đại hội.
Các đồng chí: Đặng Vinh Hàm, Bí thư Phủ uỷ đọc Báo cáo chính trị; Lưu Văn Trọng, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Đảng vụ đọc báo cáo về công tác xây dựng Đảng; Trần Sử, Chủ tịch UBKCHC Phủ đọc báo cáo công tác chính quyền; Trần Đồng, Phủ đội trưởng đọc báo cáo công tác quân sự. Phạm Ích Khiêm, Ủy viên Ban Thường vụ đọc báo cáo công tác dân vận, mặt trận.
Các báo cáo đều khẳng định, qua hơn hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng bộ (12.1946 - 8.1949) dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Phủ ủy, phong trào kháng chiến của quân và dân Ninh Hòa đã vượt qua vô vàn khó khăn, có bước phát triển rất quan trọng, có lĩnh vực đạt điểm cao nhất tỉnh. Số đảng viên của Đảng bộ tăng gấp 3 lần so với năm 1946, hơn 1/3 dân số tham gia vào các tổ chức Mặt trận Việt Minh, Liên Việt Phong trào du kích chiến tranh phát triển rất mạnh. Bộ máy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể được xây dựng hoàn chỉnh, có số lượng cán bộ, nhân viên đầy đủ từ phủ đến cơ sở. Ngoài ra, trong năm 1947, 1948, theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ninh Hòa còn cử 8 cán bộ cấp bí thư, chủ tịch xã hỗ trợ cho tỉnh bạn Ninh Thuận.
Tuy nhiên, Ninh Hòa vẫn tồn tại nhiều yếu kém, khó khăn, thách thức mới, đó là : Qua hơn 2 năm chiến đấu, cán bộ, đảng viên ở cơ sở hy sinh tổn thất nhiều. Số bám được trong vùng địch kiểm soát để hoạt động còn rất ít. Công tác phát triển Đảng chậm, số mới chỉ đủ bù cho số bị địch giết hại. Chưa phát triển được nhiều đảng viên trong quần chúng vùng sâu. Nội bộ đảng ở một số chi bộ, nơi phong trào gặp khó khăn, nẩy sinh vấn đề mất đoàn kết. Tình hình vùng Tây vẫn tiếp tục khó khăn gay gắt…
Đại hội đi sâu phân tích đánh giá làm rõ nguyên nhân, ưu khuyết điểm, đề ra các biện pháp khắc phục, đồng thời đề ra phương hướng nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới, nhiệm vụ cụ thể cho năm 1950, nội dung cơ bản nhằm thực hiện phương hướng chiến lược mới của Đảng là "Tích cực cầm cự, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công".
Những vấn đề được Đại hội quan tâm là: Bám làng, bám dân, phát triển mạnh cơ sở vào vùng sâu đông dân và trên các trục giao thông chiến lược của địch. Xúc tiến xây dựng bộ đội địa phương, phát triển dân quân du kích, đẩy nhanh chiến tranh du kích chống chính sách dồn dân, dồn lúa vào vùng sâu của địch. Động viên nhân dân đóng góp sức người, sức của phục vụ tiền tuyến, chuẩn bị chiến trường. Chấn chỉnh công tác xây dựng Đảng, tích cực phát triển đảng viên mới trong vùng địch. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng chi bộ tự động công tác. Củng cố hệ thống chính quyền: Hợp nhất các xã nhỏ thành các xã lớn, tiến hành bầu cử HĐND và UBND các cấp khóa 2. Các công tác giao thông liên lạc, công tác văn hóa giáo dục… đều được đặt ra với những chỉ tiêu phấn đấu rất cao, thời gian hoàn thành rất cấp bách.
Đại hội cũng đặt ra kế hoạch xây dựng Đảng theo hướng "Đảng quần chúng đông đảo và mạnh mẽ" cũng từ đại hội này được thông báo tên gọi Phủ được thay bằng tên gọi Huyện để thống nhất trên cả nước.
Đại hội bầu Huyện ủy mới gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Các ủy viên Thường vụ:
- Đặng Vinh Hàm - Bí thư.
- Nguyễn Diện - Phó Bí thư.
- Võ Lượng - Ủy viên Thường vụ, phụ trách chính quyền.
- Lưu Văn Trọng - Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban Đảng vụ.
- Phạm Ích Khiêm - Ủy viên Thường vụ, phụ trách Dân vận Mặt trận.
Các ủy viên Ban Chấp hành:
- Nguyễn Thặng : Phụ trách Quân sự.
- Nguyễn VănThành : Chánh Văn phòng.
- Nguyễn Xuân Ngật : Ban Tuyên huấn.
- Nguyễn Châu (Châu Râu) kiêm Bí thư xã Hòa Nghĩa.
- Võ Châu (Châu II) : Bí thư xã Hòa Nhân.
- Lê Trọng Lợi : Bí thư xã Hòa Chính.
- Nguyễn Bào: Bí thư xã Hòa Trí.
- Trần Như Hổ - Ủy viên dự khuyết : Phó ban Tuyên huấn.
- Phạm Bổn - Ủy viên dự khuyết : Phó Văn phòng.
Sau Đại hội, địch đánh phá ác liệt phong trào kháng chiến của nhân dân, chỉ trong tháng 9.1949, chúng đốt 207 nóc nhà dân, bắn chết gần 100 cán bộ và nhân dân, bắt vào nhà tù tra tấn giam giữ hàng trăm người khác. Trong 106 thôn ta đã phá tề, chúng đã lập lại 61 thôn. Bắt đầu bắt dân đem lúa gạo vào để trong đồn, ban đêm phải vào ngủ tập trung trong đồn.
Tuy vậy, Ninh Hòa vẫn phải khẩn trương dồn sức vào việc thực hiện những nhiệm vụ cấp thiết trước mắt của Nghị quyết Đại hội lần thứ hai như: Hợp nhất xã; bầu cử HĐND và UBND xã; hợp nhất các ngành, các đoàn thể theo xã mới.
Toàn huyện có 18 xã nhỏ, hợp lại thành 7 xã lớn, quy mô mỗi xã từ 5000 đến 1 vạn dân.
- Xã Hòa Nhân: Do 2 xã Xuân Phương và Trịnh Phong hợp thành (nay thuộc phạm vi các xã: Ninh Hải, Ninh Diêm, Ninh Thủy).
- Xã Hòa Nghĩa: Do 2 xã Việt Hưng và Liên An hợp thành (nay thuộc phạm vị các xã: Ninh Phú, Ninh Đa, Ninh Đông).
- Xã Hòa Trí: Do 2 xã Tân Hương và Tây Sơn hợp thành (nay thuộc phạm vi các xã: Ninh Thượng, Ninh Trung, Ninh Thân, Ninh Phụng, Ninh Xuân).
- Xã Hòa Dũng: Do 2 xã Vạn Thắng và Phong Thành hợp thành (nay thuộc phạm vi các xã: Ninh Quang, Ninh Bình).
- Xã Hòa Liêm: Do 3 xã Hiệp Hưng, Phong Thạnh, Dân Tiến hợp thành (nay thuộc phạm vi các xã: Ninh Hưng, Ninh Tân, Ninh Lộc, Ninh Ích).
- Xã Hòa Chính: Do xã Ninh Chiến đổi thành (nay thuộc phạm vi 2 xã: Ninh Giang và Ninh Hà).
- Xã Hòa Tín do xã Phát Đạt đổi thành (nay thuộc phạm vi 2 xã: Ninh Phước, Ninh Vân).
- Khu phố Ninh Hòa vẫn lấy tên như cũ.
Ngoài ra, Ninh Hòa còn lập Phòng Thượng du trực tiếp phụ trách vùng dân tộc thiểu số Suối Môn, Bến Lễ, Suối Sim (xã Y Bút), Phòng có trưởng phòng, do một Ban cán sự Đảng thay mặt Huyện ủy lãnh đạo trực tiếp và toàn diện công tác thượng du vận của huyện. Phòng lúc đầu do đồng chí Thu làm Trưởng phòng, đồng chí Thu hy sinh, đồng chí Võ Văn Thành thay, đồng chí Võ Văn Thành hy sinh, đồng chí Võ Duy Đồng thay. Ban cán sự do Nguyễn Cầu làm Bí thư.
Hội đồng nhân dân xã có từ 15 – 20 thành viên, tùy theo dân số của mỗi xã. Được bầu cử dưới hình thức hội nghị đại biểu Mặt trận, cán bộ các đoàn thể, chính quyền các thôn trong xã… lựa chọn, bỏ phiếu kín. Hội đồng nhân dân bầu ra Ủy ban nhân dân (tức Ủy ban kháng chiến hành chánh) xã, thành phần từ 5 đến 7 người. Bộ phận Thường trực của UBKCHC cũng là thường trực của HĐND gồm 3 người: Chủ tịch, Phó chủ tịch và Ủy viên thư ký điều hành công việc hàng ngày của Ủy ban và Hội đồng.
Về Đảng, vì còn đang hoạt động trong vòng bí mật nên cơ quan thường trực Huyện ủy danh nghĩa công khai là cơ quan Mặt trận Việt Minh huyện, do đồng chí Bí thư Huyện ủy làm Chủ nhiệm. Đảng lãnh đạo chính quyền thông qua đảng đoàn gồm các cấp ủy viên trong UBKCHC cùng cấp.
Sau Đại hội, thực hiện chủ trương xây dựng Đảng thành "Đảng quần chúng đông đảo mạnh mẽ" của Trung ương Đảng (thường gọi là thời kỳ Đảng mở cửa) đảng viên mới được phát triển rất nhanh, bắt đầu phát triển được vào vùng địch hậu, nhất là vào lực lượng công đoàn muối và công đoàn hải nghệ Hòn Khói. Đến cuối năm 1949, khu phố Ninh Hòa phát triển được 15 đảng viên, thành lập ở đây một chi bộ, lấy tên là chi bộ đặc biệt.
Cuộc Hội nghị kiểm điểm công tác xây dựng Đảng của Tỉnh ủy tháng 12.1949 tại thôn Ninh Tịnh ghi nhận "Hiện nay toàn tỉnh có 735 đảng viên, trung bình mỗi đảng viên lãnh đạo 714 quần chúng. Diên Khánh tỷ lệ 1/324, Ninh Hòa là huyện khá nhất về mọi mặt nhưng tỷ lệ vẫn thấp, một đảng viên lãnh đạo 168 quần chúng. Chi bộ có đảng số đông nhất là chi bộ Ninh Chiến (Hòa Chính) 27 đảng viên. Hai chi bộ xuất xắc toàn diện được Tỉnh ủy khen là Chi bộ xã Ninh Chiến và Chi bộ xã Phong Thành (nay là xã Ninh Bình).
Về kinh tế, Đảng bộ chỉ đạo theo hướng tích cực bao vây phá hoại kinh tế địch, bảo vệ mùa màng, chống địch cướp lúa và tập trung lúa gạo, đẩy mạnh và mở rộng sản xuất tự túc, làm ruộng hoang, động viên nhân tài vật lực phục vụ kháng chiến với khẩu hiệu "Tất cả để chiến thắng". Những chủ trương này bước đầu thu được những kết quả đáng kể: Các trại sản xuất của cơ quan như: Trại 50 Hòn Ngang (Hòn Hèo), trại sản xuất của huyện đội ở Đầm Vân, Ninh Tịnh, trại Nguyễn Huệ ở Phú Nhơn (Hòn Lớn) được tăng cường nhân lực, sức kéo, sản xuất mở rộng và phát triển. Trại Huỳnh Trượng (xã Tây Sơn cũ) làm chung, ăn chung không những đủ ăn mà còn có cung cấp giúp đỡ cho cán bộ của xã mỗi khi về trại nghỉ dưỡng, chữa bệnh…
Trong vùng địch, đồng thời với đấu tranh dân sinh, dân chủ, các hình thức vần đổi công trong sản xuất, trong xây cất nhà cửa tiếp tục được duy trì và mở rộng. Ở Hòn Khói, 30 điền chủ nhỏ góp 8 đôi trâu cùng nhau làm 200 mẫu ruộng hoang. Ở xã Tân Hương (nay là 2 xã Ninh Thân, Ninh Thượng), 30 gia đình kháng chiến lập qũy tương tế bằng cách cùng nhau làm ruộng hoang. Việc giảm tô tuy phạm vi hẹp hơn trước, nhưng vẫn được tiếp tục thực hiện (Trong 43 điền chủ phải giảm tô, vụ 8.1949, có 8 người thực hiện).
Sản xuất trong vùng ta tiếp tục phát triển. Xã Hòa Tín (Ninh Phước, Ninh Vân) trỉa hàng trăm giạ giống lúa, giống bắp, khắc phục được nạn đói. Năm 1949, thanh toán xong nạn mù chữ. Ở các cơ quan huyện mở được lớp bổ túc văn hóa từ lớp hai đến lớp 3 cho cán bộ sơ cấp.
Về quân sự, đầu năm 1949, trên chiến trường huyện Ninh Hòa, địch có 1010 tên lính Âu-Phi. Chúng bắt đầu thay quân giao dần các đồn lẻ trong nông thôn cho lính Gi (garde indigène) đóng giữ. Chúng tập trung lính Âu-Phi về tiểu đoàn cơ động chi khu và tăng cường cho các đồn bót trên các quốc lộ, cho các chi khu và phân chi khu. Chúng sử dụng lực lượng cơ động này đẩy mạnh càn quét các vùng giáp ranh, đánh phá căn cứ kháng chiến. Dùng chiến thuật đội biệt kích nhỏ bí mật luồn sâu vào căn cứ, vào các khu vực đóng quân của lực lượng vũ trang ta… lần tìm dấu vết, khói, tiếng động… rồi giữa đêm hay mờ sáng tập kích vào cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang hay trại sản xuất của ta. Bằng cách này, địch đã tập kích được vào Cơ quan tình báo, Ty công an, Cơ quan Ban Chỉ huy trung đoàn 80 tại căn cứ Hòn Hèo.
Trong vùng địch kiểm soát, các cuộc càn quét, vây ráp bắt lính quy mô rộng lớn hơn. Chúng sử dụng nhiều bộ phận lực lượng bao vây từ xa rồi khép dần lại, có mũi thọc sâu, có lực lượng đơm lõng… để bắt thanh niên, bắt cán bộ sống trà trộn trong dân. Bằng cách này, trong năm 1949 - 1950, địch bắt được 500 thanh niên đi lính cho chúng.
Từ vụ lúa Hè - Thu năm 1949, địch buộc dân thu hoạch xong phải đưa lúa vào để ở vùng sâu gần đồn, rồi chúng cho bộ máy tay sai theo dõi kiểm soát mỗi khi lấy về ăn. Chúng khống chế, mỗi hộ dân chỉ đem về nhà một tháng ăn và bắt đầu chận thu đủ các khoản hàng năm dân phải nộp cho chúng, (mặc dù chưa đến hạn), lương thực của dân bắt đầu nằm trong sự kiểm soát của địch. Các nguồn thu của chúng chủ động và đầy đủ hơn trước. Đến cuối năm thì chúng tập trung lúa và tập trung dân (trừ người già và tre em) vào ngủ trong đồn.
Đối với đồng bào dân tộc miền núi phía Tây huyện, từ năm 1946, địch dùng chính sách chinh phục, vừa dùng vũ lực uy hiếp, vừa dùng vật chất như muối, vải, thuốc chữa bệnh… để mua chuộc lôi kéo số đầu lớn bí mật làm tay sai cho chúng. Bí mật trang bị vũ khí xây dựng thành từng ổ Goum (ổ vũ trang) ở những buôn có bọn tay sai đắc lực của địch. Ban ngày chúng dấu súng ngoài rừng đi làm ăn bình thường, ban đêm đem súng vào làng canh gác bảo vệ bọn tay sai. Có cơ hội là chúng kích động dân chúng đứng lên chống lại kháng chiến.
Đầu năm 1949, ở một xóm dân cư người Raglai vùng núi Bà Bái (nay thuộc xã Ninh Tây) lợi dụng cán bộ ta có một số sai lầm trong công tác vận động đồng bào thực hiện nếp sống mới như: không nuôi heo dưới sàn nhà, giảm bớt kiêng cữ (cỡ nhang) ảnh hưởng đến mùa vụ sản xuất… vi phạm tập quán của nhân dân. Địch lợi dụng kích động tên đầu lớn Xã Đỏ, tổ chức giết chết liên tiếp 2 trưởng phòng thượng du của ta là đồng chí Thu và đồng chí Võ Văn Thành, rồi kéo dân chạy ra rừng chống lại kháng chiến, hậu cứ phía Tây huyện mất ổn định, tình hình càng thêm khó khăn.
Huyện ủy chỉ đạo Đại đội Ninh Hòa tăng cường lên phòng thượng du một tiểu đội võ trang phối hợp ổn định tình hình vùng này. Ban cán sự phòng cử cán bộ phối hợp với đội vũ trang đi tìm gặp dân đang sống tản mát trong rừng để vạch rõ âm mưu địch, chủ trương chính sách của Chính phủ và Bác Hồ, vận động đồng bào trở về nương rẫy cũ làm ăn.
Lúc đầu việc hoạt động của ta gặp rất nhiều khó khăn, đồng bào sợ ta trả thù, lánh mặt không muốn tiếp xúc. Bọn phản động gài lựu đạn, gài mang cung, dùng vũ khí của địch trang bị và ná bắn tên tẩm thuốc độc (tên Căm) phục kích ta trên các ngả đường tìm gặp đồng bào. Có trận, như trận tại suối Bà Bái, chúng vây đánh tổ công tác của ta hàng tiếng đồng hồ, bên ta một chiến sĩ hy sinh.
Thời gian hoạt động tại đây, các chiến sĩ của ta phải nuôi trùn khoang sống trong ống nứa (như ống lương khô) mang theo trong người để nuốt sống giải độc, khi bị trúng tên căm. Năm 1950, qua tuyên truyền vận động của ta, đồng bào nhận ra âm mưu của địch, đã phát hiện và cùng ta giết chết tên Xã Đỏ tại Tà Mậu (Diên Khánh), tình hình ở đây mới ổn định. Trong thời gian này, đồng bào ở Thùng Gió (nay thuộc huyện Khánh Vĩnh) trước sức ép của bọn phản động ở Thung-Ning, bỏ nhà, bỏ rẫy kéo ra làm ăn sinh sống ở dải núi Suối Dọc (29) (phía Bắc Quốc lộ 21, Tây Bắc buôn Tương) quan hệ với 5 buôn người Êđê đường 21, lập chính quyền kháng chiến bí mật nằm trong dân, lấy tên là xã Trung Thành do già làng Cao Hào làm Chủ tịch, Y Bách (Êđê) và Cao Lô (Raglai) làm Phó Chủ tịch, Ma Mạch làm xã đội trưởng. Ở các buôn đều có cán bộ chính quyền, đoàn thể cứu quốc để hướng dẫn nhân dân chống địch, làm nhiệm vụ kháng chiến.
(29) Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thôn Suối Dọc chuyển sang Hòn Chùa rồi dời sang Ba Non để làm nhiệm vụ bảo vệ trục hành lang Nam – Bắc của ta qua vùng núi này.
Năm buôn người Êđê, trước năm 1930, từ Đaklak kéo xuống làm ăn sinh sống ở vùng này, do ông Y- Bút làm chánh tổng cai quản. Năm 1949, buôn Sim, buôn Lác của ông bị máy bay Pháp oanh tạc, ông bị thương nặng, trước khi chết, ông cho gọi dân làng đến gặp để nói lời từ biệt và di chúc rằng: "Tôi làm tổng cho Pháp, mà Pháp vẫn bắn chết, dân làng chỉ có đi theo con đường của Cụ Hồ thì mới sống được". Sau sự kiện này, xã Trung Thành đổi thành xã Y - Bút. Xã nằm trong vùng địch kiểm soát, nhưng dân làng nhớ lời ông Y-Bút vẫn giữ lòng trung thành với Cụ Hồ, tham gia kháng chiến tích cực như, cùng nhau bảo vệ đoạn đường liên lạc của ta qua lại Quốc lộ 21, chuyển tải vũ khí từ Dốc Dài vào Bến Lễ, Suối Môn. Cùng với cán bộ đội công tác cắt máu ăn thề, nguyện giữ trọn lòng thủy chung với cách mạng, với Bác Hồ…
Năm 1949, tuy tình hình bắt đầu khó khăn, nhưng hoạt động quân sự của ta vẫn diễn ra mạnh mẽ. Ngày 8.1.1949, Trung đội Tam Phước phối hợp với Đại đội 200 của Tiểu đoàn 360, do đồng chí Phạm Thứ, Đại đội trưởng chỉ huy đánh trận Quảng Thiện (Ninh An) tiêu diệt một trung đội đồn Phú Sơn lùa dân và bắt tù chính trị đi gặt lúa ở Cung Hòa, Quảng Thiện trở về, diệt tại chỗ tên Pôlô và 22 lính, bắt sống 3 tên, thu toàn bộ vũ khí (có 1 trung liên, 5 tiểu liên) giải thoát 80 tù chính trị và đồng bào bị bắt đi gặt lúa. Tên Pôlô, một tên ăn thịt người man rợ bị diệt, nhân dân trong vùng rất hả lòng, hả dạ.
Đại đội Ninh Hòa sau ngày thành lập, với sức mạnh và khí thế mới đã đánh thắng liên tiếp các trận Phụng Cang, Phú Hòa, Tân Lâm, Quảng Cư, Tân Ninh… diệt trên 50 địch, thu 29 súng các loại.
Tháng 9.1949, đội du kích xã Ninh Chiến với 7 tay súng, do xã đội phó Lê Bủa chỉ huy phục kích tại Cồn Kèo, trên sông Hà Liên, diệt 6 tên Pháp từ Hòn Cóc dùng thuyền đi ra thôn Tân Tế trở về, thu 3 súng có 1 trung liên.
Sau trận Quảng Thiện, Đại đội 200 chuyển vào hoạt động phía Nam Khánh, Đại đội 145 của Trung đoàn, do Phạm Đào làm Đại đội trưởng vào hoạt động giữ thế chiến trường. Ngày 7.5.1949, đơn vị đánh trận Mỹ Lương diệt một trung đội của Chi khu Lạc Ninh đi càn quét vùng này, thu nhiều vũ khí.
Ở khu phố Ninh Hòa, đơn vị Xung phong đội bố trí chị Lê Thị Lá và chị Trần Thị Kia, cả 2 chị đều quê thôn Phước Đa, đưa lựu đạn vào đánh tiếp ở chợ Ninh Hòa (chị Lá vào đánh, chị Kia bảo vệ đường rút). Mặc dù, lúc này địch tổ chức kiểm soát rất chặt các ngả đường vào khu phố, Chị Lá vẫn khôn khéo cải trang đưa được lựu đạn vào đánh diệt được mấy tên tại chợ Ninh Hòa. Trên đường thoát ra cả 2 chị đều bị địch bắt được. Noi gương chị Nguyễn Thị Trừ, cả 2 chị đều chiến đấu hết sức kiên cường. Địch không khuất phục được, giữa đêm chúng đem 2 chị bắn tại đầu cầu sắt sông Dinh. Xen trong tiếng súng của kẻ thù, đồng bào thôn Vĩnh Phú nghe hai chị hô khẩu hiệu "Hồ Chí Minh muôn năm".
Giữa năm 1949, địch phát hiện chủ lực của trung đoàn 80 vào mở chiến dịch Xuân Hè phía Nam Khánh. Lực lượng vũ trang trên chiến trường Ninh Hòa còn mỏng, chúng tập trung lực lượng đàn áp quyết liệt các thôn vành đai căn cứ Hòn Hèo. Chúng đốt phá xóm làng, lùa dân các thôn Tam Ích, Tân Thủy, Hòa Sơn (xóm đìa) lên khu tập trung ba làng tại cầu Sông Găng, xúc dân thôn Tân Long (Hòn Thị), Hòn Cóc (Tân Đảo) vào đất liền xã Dân Tiến (Ninh Ích). Khủng bố bắt nhân dân các thôn Chánh Thanh, Sơn Định bỏ nhà, bỏ làng ra sát tỉnh lộ 7 (nay là tỉnh lộ 1) lập khu dân cư mới.
Dồn được dân, địch phong tỏa gắt gao các hành lang giao thông đường bộ, đường biển của ta từ các nơi đến Hòn Hèo và từ Hòn Hèo về các huyện trong tỉnh. Tung biệt kích liên tục xâm nhập đánh phá ta trong căn cứ: ở xã Dân Tiến, hợp nhất xã đội chưa xong, 2 tiểu đội du kích bị địch tập kích chỗ ở, bị thương vong và mất vũ khí trên một nửa. Một trung đội của đại đội Ninh Hòa đưa đoàn cán bộ về căn cứ Hòn Hèo, tạm trú quân tại suối Sộp (Hòa Nghĩa) bị địch tập kích, 4 chiến sĩ hy sinh, đồng chí trung đội trưởng (Nguyễn Tòng) bị bắt sống. Tiếp đến một trung đội khác của đại đội, cũng làm nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ về Hòn Hèo, trú quân tại Suối Mõ cũng bị địch đánh úp, 4 chiến sĩ của đơn vị và 1 cán bộ lãnh đạo của khu phố hy sinh, đồng chí trung đội trưởng (Nguyễn Gừng) bị bắt, mất tích. Tháng 11.1949, cơ quan Huyện ủy ở Đá Luồng bị tập kích, 2 cán bộ hy sinh, đồng chí Lê Đình Thu - Huyện ủy viên bị bắt. Cũng thời gian này, đoàn cán bộ của tỉnh đi ra Liên khu dự hội nghị bằng đường biển, bị tàu địch phục kích bắn chìm thuyền gần thôn Ninh Yển (Ninh Phước), đồng chí Trương Minh Viễn, Trưởng công an tỉnh hy sinh, đồng chí Võ Phước Lý - Phó bí thư Tỉnh ủy bị bắt, bị giết, một số đồng chí khác như Hồ Ngọc Nhường… nhờ bơi giỏi thoát chết.
Địch tăng cường đánh phá phong trào nhằm lúc ta vừa tập trung các đơn vị vũ trang của huyện ở các khu vực và một số du kích các xã về huyện để thành lập đại đội tập trung (Đại đội Ninh Hòa, Đại đội Độc Lập 360) và bổ sung cho Tiểu đoàn 360 của Trung đoàn làm cho lực lượng bên dưới yếu. Nay trước sức ép của địch không còn có lực lượng vũ trang ở từng địa phương hỗ trợ kịp thời.
Đại đội 360 do Hoàng Tiệp làm Đại đội trưởng, Từ Chi làm Chính trị viên, Hoàng Ngọc Cầm làm Đại đội phó, sau ngày thành lập được đưa ra vùng tự do Phú Yên để xây dựng, huấn luyện, không có mặt trên chiến trường.
Đại đội Ninh Hòa có mạnh lên, nhưng địa bàn của huyện rộng, nhiều cách bức không sao cơ động hỗ trợ kịp thời cho phong trào các khu vực. Chưa kể thời gian này đơn vị vừa đánh địch, giành lúa với địch từ ngoài đồng đến các kho trong đồn, để chuẩn bị lương thực cho chiến dịch Trường Chinh sắp mở màn, vừa phải đưa liên tiếp những đoàn cán bộ của cấp trên vào phía Nam, cho nên lúng túng bị động, không đánh được địch, lại còn bị địch lần theo dấu vết tập kích nơi đóng quân, lực lượng bị tiêu hao, tinh thần giảm sút.
Việc rút lực lượng ở cơ sở về bổ sung cho lực lượng cấp trên là đúng theo quy luật, đúng theo yêu cầu nhiệm vụ phát triển lực lượng vũ trang, nhưng rút trong lúc lực lượng ở cơ sở chưa đủ mạnh, là một trong những nguyên nhân làm cho phong trào bị hụt hẫng từ bên dưới, mất thế, gặp khó khăn, tụt dần.
Giữa lúc tình hình ngày một khó khăn thì ngày 13.5.1949, tưóng Rơ-ve (Revers), Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương nghiên cứu tình hình đưa ra kế hoạch bình định mới rất thâm độc. Ở Ninh Hoà, địch dùng chiến thuật tháp canh (Delatuor) làm chổ dựa cho chính sách bình định chiêu an đánh phá phong trào và bằng chính sách tập trung dân, tập trung lúa gạo vào đồn để kiểm soát, đánh vào lực lượng dự trữ sức người, sức của ta, làm cho ta không còn nguồn bổ sung quân số, nguồn tiếp tế lương thực để từ đó tiêu diệt lực lượng ta.
Đến cuối năm 1949, địch bắt đầu kiểm soát được dân, được nguồn lúa gạo của nhân dân. Phần lớn cán bộ thôn, xã của ta bị bật trở lại lên núi. Phong trào kháng chiến của quần chúng gặp khó khăn. Đời sống của lực lượng thoát ly vốn dựa vào dân, nay nguồn tiếp tế nằm trong sự kiểm soát của địch, đời sống của bộ đội, du kích và cán bộ mỗi lúc một khó khăn dần, nhiều nơi phải ăn bữa rau, bữa cháo. Nhưng nói chung phong trào vẫn giữ được, nhiều nơi cơ sở vẫn tồn tại và phát triển, nhất là ở vùng Đông, vùng Nam và vùng Phước Thiện. Được như vậy là nhờ cán bộ, đảng viên bám được trong dân, luôn đi sát dân, tuyên truyền giải thích, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch kịp thời.
Theo báo cáo của Tỉnh ủy Khánh Hòa và phái đoàn kiểm tra của Liên khu ủy 5 năm 1949 có đoạn viết: "Bắc Khánh hiện giờ phong trào có sút, nhưng về cơ bản phong trào thì vẫn chắc. Nguỵ quyền địch đã lập lại 61 thôn trong tổng số 106 thôn, nhưng chỉ ở các thôn gần đồn ban hội tề của chúng còn đôi chút thực quyền, các nơi xa đồn ban hội tề chỉ thu gọn lại một tên lý hoặc vài tên hương nằm trong đồn… việc thu thuế, bắt xâu trước kia do ban hội tề, nay giao cho lính Partisan làm… tinh thần ngụy quân tiếp tục sa sút, năm 1949, qua vận động của gia đình và đoàn thể phụ nữ, 30 ngụy quân mang súng về với hàng ngũ kháng chiến…"
NINH HÒA TRONG CHIẾN DỊCH TRƯỜNG CHINH
Trên cơ sở thắng lợi Xuân-Hè năm 1949, tháng 12.1949, thực hiện chủ trương của Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Trung đoàn chủ lực 803 của Liên khu mở tiếp Chiến dịch Thu Đông ở Nam Khánh lấy tên là Chiến dịch Trường Chinh. Ninh Hòa là chiến trường phối hợp, có nhiệm vụ đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, kìm chân địch, hỗ trợ cho chiến trường chính Nam Khánh. Đồng thời tranh thủ phát huy thắng lợi của chiến dịch để khôi phục và phát triển phong trào, chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị lương thực để trên đường rút quân, chủ lực sẽ dừng lại mở đợt hoạt động trực tiếp hỗ trợ cho phong trào Bắc Khánh.
Được biết Liên khu mở chiến dịch lớn ở Nam Khánh, rồi Bắc Khánh, cán bộ, quân và dân Ninh Hòa hết sức phấn khởi, coi đây là cơ hội hiếm có để Ninh Hòa tranh thủ khắc phục khó khăn, khôi phục và phát triển phong trào. Lực lượng vũ trang, dân quân du kích, cán bộ các cấp các ngành, các đoàn thể… trong huyện được huy động dồn sức cao nhất vào việc chuẩn bị chiến trường cho chủ lực dừng lại đánh địch trên địa bàn.
Bộ đội, du kích hàng đêm bám đồn, canh gác cho cán bộ, nhân dân huy động lương thực đưa vào kho trong rừng, hoặc dưới các hầm ven rừng. Ban ngày bộ đội đánh địch, bảo vệ nhân dân gặt lúa đưa ra rừng, đưa về nhà. Lúa gạo bị địch kiểm soát rất gắt gao, nhân dân vẫn tìm mọi cách cất dấu để đóng góp ủng hộ, hoặc bán cho kháng chiến lấy 80% bằng bạc Việt Nam hay tín phiếu (200 đồng tín phiếu bằng một đồng Đông Dương). Phụ nữ trong vùng địch kiểm soát không kể hiểm nguy, luồn lách ra rừng xay lúa, giã gạo chuẩn bị cho chiến dịch. Mọi người đều vui vẻ, chịu đựng gian khổ, thiếu đói, đem hết sức mình lo cho chiến dịch lòng tràn ngập niềm tin, niềm hy vọng chiến dịch sẽ thắng lớn.
Nhưng chiến dịch không đạt được mục đích ban đầu đề ra, trên đường rút quân, chủ lực không dừng lại ở Bắc Khánh. Cán bộ, bộ đội, nhân dân hàng tháng liền nỗ lực phục vụ chuẩn bị chiến dịch mệt mỏi. Mặt khác, trong công tác chuẩn bị tư tưởng, ta chỉ nói một chiều lạc quan, thắng lợi, nên khi chiến dịch không đạt yêu cầu, phần lớn tỏ ra thất vọng, bi quan, uể oải. Sau chiến dịch, phong trào tiếp tục sa sút.