Chương IV - Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong huyện tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền (1940 - 1945)
TÌNH HÌNH NINH HÒA TỪ 1940 ĐẾN 1941.
Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ vào ngày 01.9.1939. Tháng 6.1940, Đức chiếm đóng nước Pháp. Tháng 9.1940, Pháp đầu hàng để phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương. Cuối năm1940, một đơn vị quân Nhật đến đóng ở Ninh Hoà. Từ đây, nhân dân Ninh Hoà cũng như nhân dân trên cả nước phải chịu cảnh "một cổ hai tròng" của đế quốc Pháp và phát xít Nhật đè nặng lên đời sống nhân dân.
Ngày 09.02.1941, Nhật, Pháp ký kết Hiệp ước "Phòng thủ chung" thống nhất với nhau trong việc đàn áp phong trào cách mạng, tiêu diệt Đảng Cộng sản, thủ tiêu tổ chức dân chủ và những quyền lợi mà nhân dân ta đã giành được trong những năm 1936-1939. Những lãnh tụ và những đảng viên của Đảng bị truy lùng gắt gao.
Cùng với việc đàn áp bắt bớ, chúng tuyên truyền đánh lạc hướng tư tưởng nhân dân. Pháp và bộ máy bù nhìn bày ra nhiều phong trào cải lương như Phong trào Thanh niên Đuy-cua-roi (Ducouroix), các thuyết "Cần lao, Gia đình, Tổ quốc", "Pháp Việt đề huề"; Phát xít Nhật lừa mị bằng các thuyết "Đại Đông Á", "Đồng văn, đồng chủng", "người Nhật giúp người Việt Nam giành độc lập"… Chúng ra lệnh tổng động viên để bắt lính bổ sung cho cái gọi là "Phòng thủ Đông Dương", đồng thời đưa hàng ngàn thanh niên Việt Nam sang Pháp làm "bia đỡ đạn" cho chính quốc. Phu phen tạp dịch bị huy động ngày một nhiều để xây dựng đường sá cầu cống, các công trình quân sự phòng thủ..
Chúng thi hành chính sách thời chiến, tăng các loại thuế, trưng thu, trưng dụng các cơ sở sản xuất phục vụ quốc phòng, vơ vét sức người, sức của của nhân dân ta phục vụ cho chiến tranh của chúng. Ở Ninh Hoà, chúng buộc nông dân các vùng Hòn Khói, Phước Thiện hạn chế trồng lúa, bắp để trồng các loại cây lấy dầu như đậu phụng, thầu dầu … và các loại cây lấy sợi như gai, bông nhằm phục vụ cho chiến tranh. Trưng thu, trưng dụng xe cộ, thuyền bè, trưng mua lúa gạo, bông xơ, bắt dân mua vé số, quốc trái, cấm dệt vải bằng thủ công. Nạn đầu cơ tích trữ hoành hành, giá cả tăng vọt, sinh hoạt đắt đỏ, làm cho đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Báo cáo của mật thám Pháp ở Nha Trang năm 1942 ghi: "Bất bình nghiêm trọng về những biện pháp kinh tế khắt khe trong việc bán và lưu thông một số sản phẩm có dầu, bông… gạo tăng giá và khan hiếm cũng ảnh hưởng một phần đến dân chúng." Trong xã hội, bọn thân Pháp, thân Nhật tranh giành ảnh hưởng, chạy đua tập họp lực lượng, đánh đổ lẫn nhau gây cho tình hình xã hội nhiều xáo động mới.
Khi đế quốc bị lôi cuốn vào chiến tranh thế giới lần thứ 2, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 vào tháng 11.1939, đặt vấn đề chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong tình hình mới. Hội nghị nhấn mạnh "đánh đổ đế quốc, giành giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương" chủ trương tạm gác khẩu hiệu "Cách mạng ruộng đất" để tập trung lực lượng chống bọn đế quốc và tay sai, lôi kéo các phần tử tiến bộ trong giai cấp địa chủ, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Khi phát- xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng vào tháng 11.1940, vạch rõ nguy cơ của các dân tộc Đông Dương bị "một cổ hai tròng". Kẻ thù chính của các dân tộc Đông Dương lúc này không chỉ là thực dân Pháp mà cả phát -xít Nhật; hai tên đế quốc này ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh, do đó một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy sứ mạng thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức Đông Dương, võ trang bạo động giành chính quyền, giành độc lập tự do.
Tháng 7.1940, đồng chí Trần Hữu Dực được Xứ uỷ Trung kỳ phái vào hoạt động ở miền Nam Trung bộ, cơ quan đóng tại Tháp Chàm (Ninh Thuận). Tháng 10.1940, đồng chí Trần Hữu Dực liên lạc chấp nối với cơ sở cũ ở Suối Ré, Xuân Hoà và Phủ lỵ Ninh Hoà, truyền đạt cho các đồng chí ở đây những điểm chính trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 và lần thứ 7 của Trung ương Đảng.
(1) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà 1930 - 1975 trang 106.
|
|
Các hoạt động của đồng chí Trần Hữu Dực đã tạo điều kiện cho một số đảng viên ở Ninh Hoà nối được liên lạc với Đảng. Từ đó, đường lối chủ trương của Đảng, tình hình thời sự trong nước và thế giới được phổ biến đến Ninh Hoà, thông qua tờ báo "Chiến thắng" được in tại Tháp Chàm, do đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp phụ trách, mỗi tháng 2 lần, được đồng chí Trần Hữu Gia, liên lạc của đồng chí Trần Hữu Dực, bí mật chuyển đến nhóm đảng viên ở Suối Ré và Phủ lỵ Ninh Hoà, do đồng chí Đặng Văn Lợi, nguyên là cơ sở của Xứ uỷ Trung kỳ đang dạy học ở Trường tiểu học Pháp Việt tiếp nhận và phổ biến. Dựa theo tinh thần chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa trong Nghị quyết lần thứ 7 của Trung ương Đảng, trong lần gặp các đồng chí ở Suối Ré, đồng chí Trần Hữu Dực có gợi ý cho các đồng chí ở đây chuẩn bị lập chiến khu ở vùng hồ Đá Xẻ Suối Ré (nay thuộc xã Ninh Lộc). Trong lúc phong trào cách mạng của Ninh Hoà vừa được nhen nhóm lại, một số cơ sở Đảng bắt đầu củng cố, thì tháng 9.1941, đồng chí Trần Hữu Dực bị địch bắt tại Ninh Thuận. Báo Chiến thắng bí mật lưu hành đến số 9 thì chấm dứt. Ninh Hoà lại bị đứt liên lạc với cấp trên, phong trào cách mạng của phủ lại gặp khó khăn mới.
Lúc này, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến rất quan trọng. Ngày 22.6.1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô. Trong nước dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa ở Bắc Sơn (22.9.1940), ở Nam kỳ (23.11.1940) giành được chính quyền một thời gian ngắn ở một số nơi trong vùng, rồi bị địch đàn áp, dập tắt. Cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn và Nam kỳ tuy bị thất bại, do nổ ra trong những điều kiện chủ quan và khách quan chưa chín muồi, nhưng đã có tiếng vang rất lớn trong nhân dân cả nước. Công cuộc chuẩn bị tổng khởi nghĩa vẫn được xúc tiến khẩn trương. Đặc biệt là ngày 08.02.1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng Việt Nam. Đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 tại Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày 19.5.1941. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị phát triển và hoàn chỉnh các nghị quyết Trung ương lần thứ 6, lần thứ 7. Về vấn đề giải phóng dân tộc, Hội nghị xác định "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc quốc gia còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"(20).
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương, thành lập Mặt trận Việt minh (21) thay Mặt trận phản đế Đông Dương và áp dụng một sách lược hết sức mền dẻo, nhằm phân hoá và cô lập cao độ kẻ thù, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ để cứu nước, giải phóng dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập căn cứ địa cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị phát động những cuộc khởi nghĩa từng phần, khi có thời cơ đến tiến hàng tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Ngày 06.6.1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi Nhật- Pháp: "Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gách vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng"(22)…
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng và Thư kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi quốc dân đồng bào đáp ứng được những yêu cầu rất bức thiết của cách mạng và khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân.
Tình hình chung thuận lợi, nhửng cơ sở cách mạng của Ninh Hoà chưa phục hồi, chưa nối liên lạc được với Đảng cấp trên. Tháng 11.1942, đồng chí Nguyễn Văn Chi, đảng viên năm 1930 mãn hạn tù về bị địch quản thúc tại quê nhà ở Trường Đông (Vĩnh Xương). Đồng chí ra Ninh Hoà bắt liên lạc với đồng chí Nguyễn Long (Suối Ré), Huỳnh Trượng (Xuân Hoà), Nguyễn Thế (Điềm Tịnh) truyền đạt tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng mà đồng chí tiếp thu được.
Tháng 3 năm 1945, đồng chí Mai Dương, nguyên là Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ lâm thời Khánh Hoà mãn hạn tù từ Ban Mê Thuột về, có mang về Chương trình, Điều lệ của Mặt trận Việt Minh mà đồng chí chép được từ trong nhà tù. Đồng chí bắt liên lạc với một số thanh niên dân chủ ở vùng Hoà Huỳnh, nhóm Lý Khuê ở phủ lỵ Ninh Hoà, Nguyễn Long ở Suối Ré, nhóm Nguyễn Lịnh, Nguyễn Bảy (tức Lê) ở Hòn Khói … truyền đạt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Trung ương và cùng nhau tuyên truyền gầy dựng cơ sở Việt minh. Qua hai đồng chí Nguyễn Văn Chi và đồng chí Mai Dương, các đảng viên và các nhóm đảng viên cũ (chính trị phạm) của Ninh Hoà nắm được chủ trương của Trung ương Đảng bắt đầu bung ra hoạt động rộng rãi.
CAO TRÀO TIỀN KHỞI NGHĨA
Từ tháng 01.1944 đến tháng 01.1945, Hồng quân Liên Xô ồ ạt phản công quét sạch toàn bộ quân phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ Liên Xô, giải phóng các nước Đông Nam châu Âu và bao vây Béc-Lin. Số phận phát xít Đức sắp kết liễu.
(20). Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 8. Văn kiện Đảng 1930-1945 Ban NCLS của Trung ương xuất bản, Hà Nội 1997, trang 198.
(21). Tên gọi tắt của Việt Nam độc lập đồng minh.
(22). Hồ Chí Minh tuyển tập, tập 1. Nhà xuất bản sự thật Hà Nội, 1980, trang 322.
|
|
Ở Thái Bình Dương, quân Nhật đang lâm vào tình thế khốn quẫn nghiêm trọng. Trước tình hình đó, để trừ nguy cơ bị quân Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương, ngày 09.3.1945, phát xít Nhật làm đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương, tuyên bố cho Việt Nam "độc lập". Để phù hợp với cái độc lập "giả hiệu" ấy và cho có vẻ dân chủ hơn, ở cấp phủ huyện chúng lập ra "Hội đồng tư vấn" và củng cố các hội đồng hương chính làng xã, nhưng về cơ bản Nhật vẫn giữ nguyên bộ máy tay sai của Pháp, chuyển sang làm tay sai cho Nhật. Chúng cho tay sai quảng bá rùm beng thuyết "Đại Đông Á", Thuyết “Đồng văn, đồng chủng", tuyên truyền ca ngợi cái "độc lập bánh vẽ", nhằm lừa mị nhân dân, kéo ảnh hưởng từ Pháp sang Nhật, kéo nhân dân ra khỏi ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh. Cổ động thanh niên vào các tổ chức hướng đạo, thanh niên Phan Anh, lôi kéo thanh niên vào các cuộc vui chơi, thể dục thể thao, đua xe đạp, đấu bóng … hòng làm cho các tầng lớp thanh niên quên cái nhục mất nước, cam chịu ách thống trị của chúng.
Mặt khác, chúng cho quân lính toả đi khắp làng quê, xóm chợ lùng bắt thanh niên đi lính, đào tạo thông dịch viên, cho gián điệp len lỏi khắp xóm làng để theo dõi hoạt động của Việt minh. Về kinh tế, sau đảo chính Nhật nắm bá chủ về kinh tế, tăng cường các chính sách bóc lột thời chiến đến mức khốc liệt. Chúng bắt nhân dân kê khai diện tích canh tác, sản lượng sản phẩm, để qui định chặt chẽ số lượng sản phẩm phải nộp. Thiết lập hệ thống tỉnh thương, tổng thương thu mua vơ vét lúa gạo, thực chất là ăn cướp của nhân dân với giá rẻ mạt. Tập trung dân công, xe ngựa, thuyền bè để chuyển hàng cho chúng… Càng thua trận quân Nhật càng phát xít trắng trợn, càng vơ vét bóc lột thậm tệ, đời sống nhân dân trong phủ càng khốn cùng, điêu đứng.
Trước tình hình đó, ngày 9.3.1945, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng nhận định "Cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình thế khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc tổng khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng".
Hội nghị chủ trương đem khẩu hiệu "đánh đuổi Phát xít Nhật" thay cho khẩu hiệu "đánh đuổi Pháp - Nhật", phát động cao trào chống Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Nơi nào có điều kiện thì phát triển chiến tranh du kích giành chính quyền ở địa phương. Hội nghị cũng chỉ ra điều kiện và thời cơ cho nổ ra cuộc tổng khởi nghĩa. Cụ thể hoá những quyết định và nghị quyết của Hội nghị, Chỉ thị lịch sử "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" ra ngày 12.3.1945 của Thường vụ Trung ương Đảng, có tác dụng chỉ đạo rất kịp thời, phát huy tinh thần độc lập sáng tạo của các Đảng bộ địa phương.
Ở Ninh Hoà sau ngày đảo chính Pháp, bọn Nhật huy động hàng vạn dân mít tinh tại sân vận động để "hoan hô thuyết "Đại Đông Á", hoan hô "Chính phủ Trần Trọng Kim". Bọn Việt gian thân Nhật như: Tham Lịch đảng viên Đảng Hắc Long, Đỗ Hy Sinh mật thám Nhật, Nguyễn Sanh đội lốt đạo Cao Đài, tên Thuận thủ lĩnh Thanh niên Phan Anh nhảy ra làm tay sai, gia nhập Đảng "Việt Nam Ái Quốc đồng tâm hội", gọi tắt là Việt-Ái, do Vương Gia Ngại ở Nha Trang cầm đầu, quyến dụ thanh niên đi lính cho Nhật, vận động nhân dân vào đạo Cao Đài. Tên Hán gian thân Nhật Liên Bình Đông ra tuyên cáo công khai làm tay sai cho Nhật trong hàng ngũ người Hoa…
Trong khi đó, thực tế diễn ra hàng ngày, bọn phát xít Nhật rất tàn ác nhưng không mạnh. Ở phương Tây, đồng minh của Nhật là phát xít Đức, Ý đang bị đánh bại hoàn toàn, bản thân chúng cũng đang bị thua liểng xiểng. Ngoài khơi vùng biển Khánh Hoà, từ Đại Lãnh đến Cam Ranh, tàu hải quân Nhật bị máy bay đồng minh đánh chìm, nhiều xác lính Nhật và đồ dùng quân sự trôi dạt vào bờ. Trên không, máy bay Nhật bị bắn rơi ở nhiều nơi như : Vùng miếu Cỏ May, Sơn Định (Hòn Hèo), Trảng Cám (Hòn Lớn). Máy bay đồng minh làm chủ hoàn toàn bầu trời, ném bom, đánh sập các cầu cống trên các trục giao thông chiến lược, bắn cháy các đoàn tàu lửa quân sự chuyển vũ khí và lương thực của Nhật. Quân Nhật chỉ dám chuyển quân ban đêm rất chậm chạp.
Chính phủ Trần Trọng Kim, tay sai của Nhật, hình thành trong cảnh thay thầy đổi chủ, một chính quyền không có quân đội, không có uy tín. Tổ chức chính quyền ở cơ sở nhiều nơi bị tê liệt, kinh tế tài chính kiệt quệ, hàng hoá khan hiếm, thiếu vải mặc, dầu thắp … giá cả tăng vọt. Trong lúc đó, tin tức chiến thắng của Việt Minh như khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi, khu giải phóng rộng lớn được hình thành ở Việt Bắc…thôi thúc rất mạnh phong trào cách mạng của nhân dân.
Sau cuộc đảo chính hất cẳng Pháp, do sức ép đấu tranh của nhân dân, của các chính trị phạm và cũng do chính sách mị dân của chúng, phát xít Nhật buộc phải thả tù chính trị ra khỏi Nhà tù Ban Mê Thuột và các căng an trí Trà Kê (Phú Yên), Đắc Tô (Kon Tum)…Mặc dù lúc còn ở trong nhà tù, một số đồng chí còn có những quan điểm khác nhau về thái độ đối với Nhật, đối với chính phủ Trần Trọng Kim, đối với đồng minh, đối với Pháp Đơ-gôn…nhưng đều nắm được tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng, Chương trình Mặt trận Việt minh, có kinh nghiệm công tác quần chúng. Các đồng chí ấy về lại địa phương là điều rất quý, sẽ giúp cho Ninh Hoà có thêm lực lượng để gầy dựng và đưa phong trào của phủ theo kịp phong trào chung.
Ở Ninh Hoà, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tại làng Xuân Mỹ, tổng Phước Thiện có cuộc gặp mặt giữa các đồng chí đại diện cho một số nhóm cách mạng như: Mai Dương (Hoà Huỳnh), Nguyễn Long (Suối Ré), Lý Khuê, Phạm Thâm (phủ lỵ Ninh Hoà) tại nhà đồng chí Mai Dương để trao đổi tình hình, bàn phương hướng hoạt động. Các đồng chí nhận định "Nhật không mạnh, Nhật nhất định thua, phải đẩy mạnh các hoạt động chống Nhật, gấp rút phổ biến rộng Chương trình Việt minh, khẩn trương phát triển cơ sở, xây dựng thực lực" Cùng lúc này, Uỷ ban vận động cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi cử đồng chí Hồ Độ vào bắt liên lạc và đặt mối quan hệ giữa hai tỉnh Quảng Ngãi và Khánh Hoà, thông báo cho các đồng chí Khánh Hoà biết tình hình phong trào cách mạng Quảng Ngãi đang phát triển sôi nổi, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ thành công, đội du kích Ba Tơ được thành lập và phát triển.
Tiếp theo, vào giữa tháng 3.1945, đồng chí Trịnh Huy Quang, quê tỉnh Thanh Hoá là một cán bộ cách mạng bị thực dân Pháp bắt giam ở Nhà tù Ban Mê Thuột, khi mãn hạn tù đồng chí bị quản thúc tại căng an trí Trà Kê (Phú Yên). Sau ngày Nhật làm đảo chính, đồng chí thoát khỏi căng an trí về Khánh Hoà, tìm bắt liên lạc với đồng chí Mai Dương, phổ biến những điều đồng chí vừa tiếp thu thêm được ở nhà lao. Đồng chí Mai Dương báo cho đồng chí Trịnh Huy Quang biết tình hình các mặt ở Hoà Huỳnh (Vạn Ninh) và ở phủ Ninh Hoà giới thiệu đồng chí vào ở tại nhà đồng chí Trần Đỉnh, cơ sở cứu tế đỏ thời kỳ 1930, thuộc nhóm cơ sở Lý Khuê ở phủ lỵ Ninh Hoà để tiện việc liên hệ hoạt động. Hai đồng chí tự thoả thuận phân công nhau: Đồng chí Trịnh Huy Quang phụ trách chung trên địa bàn toàn tỉnh Khánh Hoà, trực tiếp phụ trách Ninh Hoà; đồng chí Mai Dương phụ trách Vạn Ninh. Được đồng chí Mai Dương và nhóm cơ sở phủ lỵ Ninh Hoà giới thiệu, chỉ một thời gian ngắn, đồng chí Trịnh Huy Quang đã nhanh chóng liên lạc được với các nhóm cách mạng ở Ninh Hoà và tiến hành công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở.
Tài liệu tuyên truyền gồm Chương trình Việt Minh, Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, do đồng chí Trịnh Huy Quang bí mật đưa từ nhà tù ra sao chép và in lại, cùng nhiều tài liệu khác phân tách độc lập thật, độc lập giả, vạch mặt thuyết "Đại Đông Á" vạch mặt Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim … Tài liệu in bằng đông sương, tại nhà đồng chí Đặng Thao ở làng Mỹ Lệ (nay thuộc xã Ninh Đa) là cơ sở Nông hội đỏ thời kỳ 1930. Các tài liệu được lưu hành rộng rãi trong nội bộ các nhóm cách mạng. Đồng thời, lúc này những tin tức về đấu tranh cách mạng từ các địa phương trong vùng dội về thôi thúc, nên cơ sở cách mạng của phủ Ninh Hoà phát triển khá nhanh.
Đầu tháng 4.1945, một cuộc hội nghị được triệu tập tại Suối Ré, trong vùng rừng thuộc đất của đồng chí Nguyễn Long, sau làng Vạn Khê, gồm đại biểu các nhóm Việt Minh: Nguyễn Thạnh, Nguyễn Long (Suối Ré), Lý Khuê (phủ lỵ Ninh Hoà), Nguyễn Bảy (Hòn Khói), Võ Phước Lý (Lạc An) Huỳnh Quang Anh (Lạc Xuân), Mai Dương (Xuân Mỹ); đồng chí Nguyễn Long lo việc tổ chức và bảo vệ. Đồng chí Trịnh Huy Quang chủ trì Hội nghị. Đồng chí phổ biến về tình hình chiến tranh trên thế giới và tình hình trong nước sau ngày Nhật đảo chính Pháp, giải thích chương trình Mặt trận Việt Minh, bàn việc mở rộng tuyên truyền gây ảnh hưởng cho Mặt Trận Việt Minh, xây dựng cơ sở, phát triển các tổ chức cứu quốc và Mặt trận Việt Minh. Hội nghị xác định, tất cả các đại biểu dự Hội nghị này đều là thành viên Ban vận động Mặt trận Việt Minh Khánh Hoà và cử đồng chí Trịnh Huy Quang phụ trách chung, trực tiếp phụ trách Ninh Hoà, đồng thời có nhiệm vụ liên hệ bắt mối với các tổ chức Việt Minh phía nam tỉnh. Đồng chí Mai Dương phụ trách huyện Vạn Ninh, đồng chí Bảy (Bình Tây) có nhiệm vụ liên hệ bắt mối với cơ sở vùng Vạn Giã, Tu Bông và hoạt động ở vùng này. Trước khi giải tán, mỗi thành viên hội nghị đều tuyên thệ hoàn thành nhiệm vụ và giữ bí mật cho tổ chức.
Cuối tháng 4.1945, Tỉnh uỷ lâm thời được thành lập tại nhà đồng chí Đặng Thao ở làng Mỹ Lệ (Ninh Đa), gồm ba đồng chí Trịnh Huy Quang, Mai Dương, Võ Phước Lý, do đồng chí Trịnh Huy Quang làm Bí thư trực tiếp phụ trách Ninh Hoà.
Sau Hội nghị thành lập Tỉnh uỷ lâm thời, theo sự phân công, đồng chí Trịnh Huy Quang vào phía Nam tỉnh liên hệ được với đồng chí Nguyễn Văn Chi và đồng chí Tôn Thất Vỹ và được biết Nha Trang, các huyện phía Nam đã có tổ chức và lực lượng Việt Minh, trước tình hình đó, do yêu cầu phải có sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, nên các đồng chí thoả thuận tự ghép thành "Ban vận động cứu quốc", bên trong là Tỉnh uỷ lâm thời, có thêm đồng chí Nguyễn Văn Chi.
Do phía Nam tỉnh, nhất là ở Nha Trang đã có tổ chức và cơ sở Việt Minh đông đảo nhưng chưa có sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ lâm thời, nên việc thống nhất giữa các tổ chức Việt Minh trong tỉnh là vấn đề đặc biệt quan trọng, có tính quyết định cho cuộc khởi nghĩa ở Khánh Hoà thành công. Do vậy, vào một đêm trong tháng 5.1945, cuộc họp giữa hai đoàn đại biểu Việt Minh Khánh Hoà và Việt Minh Nha Trang được tổ chức tại nhà đồng chí Đặng Thao để bàn việc thống nhất giữa hai tổ chức và lực lượng này, về phía Việt Minh Nha Trang, có các đồng chí Trần Oanh, Trần Việt Châu, phía Việt minh Khánh Hoà, có các đồng chí Trịnh Huy Quang, Mai Dương, Võ Phước Lý. Qua trao đổi, hai bên đều nhất trí là phải thống nhất, nhưng khi đi vào bàn cụ thể về mặt tổ chức và lãnh đạo thì giữa hai bên chưa thống nhất được. Hai bên đồng ý để trao đổi thêm và sẽ giải quyết trong kỳ họp sau, do Việt Minh Khánh Hoà chủ động triệu tập.
Những ngày cuối tháng 5, đầu tháng 6.1945, một số tù chính trị ở nhà tù Ban Mê Thuột được trả tự do. Theo sự phân công của tổ chức Đảng trong nhà tù trước đó, các đồng chí Trần Thạnh (tức Bưởi), Lê Văn Tân (quê Nghệ An), Nguyễn Cầu (quê Quảng Trị) về hoạt động ở Ninh Hoà. Đồng chí Đỗ Long cũng về hoạt động tại đây. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh về Khánh Hoà ở trong Tỉnh uỷ lâm thời, nhưng vì trách nhiệm chung đồng chí không thể ở lại đây lâu. Đồng chí đã tranh thủ xuống phủ Ninh Hoà kiểm tra nắm tình hình, dự cuộc họp giữa các đồng chí đảng viên và cơ sở Việt Minh tại nhà đồng chí Nguyễn Xuân Long ở làng Phước Đa (nay thuộc thị trấn Ninh Hoà), sau đó đồng chí về Trung ương, do các đồng chí Tô Văn Ơn và Lê Tiến Hoá ở tổng Phước Thiện tổ chức đưa đi bằng tàu lửa tại ga Hoà Huỳnh.
Tình hình thế giới lúc này phát triển rất nhanh, phát xít Đức và Ý đã đầu hàng đồng minh, phát xít Nhật đang đại bại. Phong trào cách mạng trong nước, trong tỉnh đang phát triển mạnh, vấn đề thống nhất lực lượng càng thêm cấp bách. Giữa tháng 7.1945, cuộc họp để thống nhất lực lượng lần thứ hai được tổ chức tại nhà đồng chí Nguyễn Châu (Châu Râu) lúc đó đang làm phó lý trưởng làng Phú Diêm (nay thuộc xã Ninh Đa). Ngoài thành phần đại biểu của hai nhóm lần trước, cuộc họp này còn có đại biểu các nhóm Việt Minh mới hình thành, như nhóm của các đồng chí Bùi San, Đỗ Long. Đoàn đại biểu Việt Minh Khánh Hoà có thêm các đồng chí Võ Lượng, Phạm Thâm, Lê Hùng Đệ… Đồng chí Hồ Độ, phái viên của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi vào liên lạc với Tỉnh uỷ Khánh Hoà cũng tham dự.
Cuộc họp lần này diễn ra trong lúc phong trào cách mạng đang lên mạnh, nhiều tổ chức Việt Minh mới hình thành trong tỉnh đều có đại biểu đến dự. Mới vào họp, đã có sự bất đồng về thành phần dự họp, về đại biểu đi dự hội nghị Việt Minh cấp trên, nhưng do phải đáp ứng kịp thời yêu cầu chung, cuộc họp đã gác việc bất đồng, đi sâu đánh giá tình hình, đề ra kế hoạch đẩy mạnh phong trào cách mạng phát triển nhanh hơn nữa. Về mặt tổ chức và lãnh đạo vẫn chưa đi đến một thoả thuận nào. Hẹn sẽ giải quyết trong lần họp sau nữa.
Sau cuộc họp, đồng chí Hồ Độ trở về Quảng Ngãi mang theo bức thư đề ngày 14.7.1945 của Uỷ ban vận động cứu quốc (Việt Minh) Khánh Hoà gửi du kích Ba Tơ "Chúng tôi xin tình nguyện đem hết năng lực kêu gọi dân chúng Khánh Hoà ủng hộ du kích Ba Tơ… Chúng tôi sẽ đem hết năng lực kêu gọi, vận động tổ chức du kích tại Khánh Hoà để làm cho lực lượng du kích ngày càng bành trướng". Kèm theo bức thư có 30 đồng bạc Đông Dương do đồng bào Khánh Hoà gửi ủng hộ du kích Ba Tơ.
Đầu tháng 8.1945, Hội nghị lần thứ ba được tổ chức tại nhà bà Lý Thị Liên (mẹ vợ của đồng chí Lê Ngọc Bán) ở ấp Đông Thành, làng Mỹ Hiệp (nay thuộc thôn 3, thị trấn Ninh Hoà). Các nhóm Việt Minh trong tỉnh đều có đại biểu đến dự. Trịnh Huy Quang, Lý Khuê (Mỹ Hiệp), Nguyễn Long ( Suối Ré), Nguyễn Lịnh (Hòn Khói), Võ Phước Lý, Mai Dương (Vạn Ninh), Nguyễn Văn Chi, Lê Cường (Vĩnh Xương), Trần Danh, Nguyễn Kim Toàn (Diên Khánh), Nguyễn Trọng Kỷ (Cam Ranh), Nguyễn Duy Tính, Trần Việt Châu, Trần Oanh (thị xã Nha Trang) và một số đồng chí khác như Bùi San, Đỗ Long, Hoàng Hữu Chấp cũng có mặt.
Hội nghị họp trong bối cảnh phát xít Đức, Ý ở châu Âu đã bị Hồng quân Liên Xô đánh bại hoàn toàn, ngày 9.5.1945, Đức đã ký văn bản đầu hàng Liên Xô và Đồng minh. Ở phương Đông, phát xít Nhật đang trong nguy cơ bị đánh bại tiếp. Bọn Nhật và bọn tay sai ở địa phương đang hoang mang dao động; Chính quyền bù nhìn thân Nhật Trần Trọng Kim đang trong tình trạng rệu rã; Phong trào cách mạng trong tỉnh lên cao và đều khắp hơn lúc nào hết …Tình hình đó đòi hỏi phải thống nhất ngay mọi lực lượng, gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị nhất trí quyết định hợp nhất tất cả các lực lượng Việt Minh, thành lập Uỷ ban Mặt trận Việt Minh tỉnh, nhất trí coi các đại biểu dự họp đều là thành viên Ban lãnh đạo Việt Minh tỉnh Khánh Hoà.
Hội nghị Mỹ Hiệp thống nhất được các tổ chức Việt Minh trong tỉnh dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ lâm thời là một bước tiến mới, bước chuẩn bị về tổ chức lực lượng rất quan trọng để cuộc khởi nghĩa bùng nổ kịp thời và thành công nhanh gọn.
Ở Ninh Hoà, từ sau Nhật đảo chánh Pháp, nhất là từ khi có các đồng chí tù chính trị từ Nhà tù Ban Mê Thuột về hoạt động, phong trào cách mạng của phủ phát triển ngày một mạnh, đến đầu tháng 8.1945 trở thành cao trào tiền khởi nghĩa mạnh mẽ và sôi nổi. Mặc dù bước đầu do ảnh hưởng của sự phân hoá về quan điểm từ trong nhà tù, có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của một số ít đồng chí, nhưng khi về Ninh Hoà trước tình hình cách mạng đang sôi sục, các đồng chí đã gạt bỏ tất cả cùng nhau lăn xả vào công việc, tìm liên hệ với các nhóm đảng viên cũ truyền đạt tinh thần của Nghị quyết Trung ương 8, Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Thường vụ Trung ương Đảng … Nắm được chủ trương đường lối của Trung ương Đảng, các nhóm đảng viên cũ rất phấn khởi, đã cùng nhau bung ra vận động quần chúng, phát triển lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa.
Do có sự đoàn kết, hợp sức giữa các đồng chí cũ và các đồng chí mới về, nên đến tháng 7, tháng 8.1945, Ninh Hoà đã xây dựng mới được nhiều nhóm cơ sở, nòng cốt cách mạng ở hầu hết các khu vực trong phủ, thành phần số đông là giáo chức và thanh niên có học: Khu Hòn Khói có Đặng Vinh Hàm ở làng Bình Tây, Lê Đình Thu ở Thạnh Danh; khu Phước Khiêm có Nguyễn Xuân Long, Lưu Văn Trọng, Trần Bổng, Nguyễn Văn Thành ở làng Phước Đa, Nguyễn Huề, Nguyễn Xuân Trợ, Nguyễn Xuân Ngật ở làng Quang Đông; khu Thanh Mỹ có Nguyễn Duy Phiên, Võ Xuân Long (tức Xạo) Lê Khắc Mai, Trần Văn Trình ở làng Phong Ấp, Ngô Đồng Lành, Nguyễn Ngọc Đại ở làng Bình Thành…Lê Đốc, Nguyễn Quang, Nguyễn Lưu… ở làng Bình Trị, Trần Sử ở làng Vạn Hữu, Lê Chước, Nguyễn Thặng, Cao Sĩ Tồ ở làng Tân Hưng, Nguyễn Văn Thành ở làng Vạn Khê, Lê Bồi ở làng Mỹ Lợi, Huỳnh Bá Vân ở làng Phú Hữu; khu Ích Hạ có Lê Trọng Lợi ở làng Hà Liên, Nguyễn Diện ở làng Mỹ Chánh… ở tổng Phước Thiện có Huỳnh Quang Anh, Huỳnh Quang Nga (tức Vinh), Mai Xuân Hồng, Lê Huấn, Châu Văn Phi (Phước Tây), Võ Cường (Phước Đông)… Huỳnh Hữu Vinh, Phan Quý (Phước Trung)…
Trong trung tâm phủ lỵ, nhiều công chức, trí thức cũng hăng hái gia nhập vào hàng ngũ Việt Minh như Đồng Sĩ Hiền, kỹ sư ở cơ sở kiểm lâm, Võ Bá Quỳ, Võ Bá Pháp ở nhà dây thép, Nguyễn Văn Vịnh ở cơ sở chế biến thuốc lá Nguyễn Thảng; Nguyễn Duy Kỷ ở làng Vĩnh Phú, Đào Xuân Quý ở ấp Đông Thành, làng Mỹ Hiệp; Nguyễn Như Đỉnh làm công tác đạc điền trong bộ máy nha lại. Đồng thời, ta cũng vận động được khoảng 10 binh sĩ đồn khố xanh từ binh nhì đến cấp thượng sĩ như Huỳnh Hữu Thái (quản Thái), đội Chấp, Châu Bá Diễn, Nguyễn Tể…
Ở vùng nông thôn, phong trào đã thu hút nhiều tổng lý ngả về phía Việt Minh và tham gia hoạt động rất tích cực như: Nguyễn Châu (Châu Râu), phó lý; Lê Hùng Đệ, lý trưởng làng Phú Diêm; Nguyễn Diện, phó lý làng Mỹ Chánh; Trần Đình Quang, lý trưởng làng Thạch Thành …
Nhiều cơ sở trước đó thuộc hệ thống ngoài phủ, nay cũng liên hệ với tổ chức Việt Minh ở địa phương để hoạt động như các đồng chí Hà Văn Lâu, Phạm Cự Hải… ở Công ty Thương chánh Hòn Khói, đồng chí Đặng Văn Lợi ở Trường tiểu học Pháp Việt Ninh Hoà.
Thông qua nòng cốt ở các khu vực, Việt Minh phủ Ninh Hoà phát triển gần 1.000 cơ sở cách mạng trong các tầng lớp nhân dân, trong các tổ chức quần chúng cứu quốc như : Công hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ, qua đó có khả năng huy động hàng ngàn quần chúng tham gia hành động cách mạng.
Đồng thời với xây dựng và phát triển thực lực chính trị, thực hiện chủ trương của Ban Vận động cứu quốc tỉnh, bên trong là Tỉnh uỷ lâm thời, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Việt Minh Ninh Hoà gấp rút phát triển lực lượng tự vệ, khuyến khích phong trào học võ của các tầng lớp thanh niên ở các lò dạy võ sẵn có trên địa bàn phủ, để khi thời cơ đến có thể chuyển số này sang thành lập các đội tự vệ võ trang giỏi võ, làm nòng cốt cho cuộc võ trang khởi nghĩa của toàn dân.
Được khuyến kích, phong trào học võ được đông đảo thanh niên tham gia rất sôi nổi, trong đó có một số là thanh niên cứu quốc. Các trung tâm dạy võ ở các khu vực Xuân Hoà, Suối Ré, Ích Hạ , Phước Thiện, Bình Thành… mỗi nơi hàng đêm, có hàng chục thanh niên luyện tập đao, kiếm, côn quyền… bất chấp sự theo dõi, đe doạ của bọn tay sai của Nhật.
Trong quá trình luyện tập, nhiều người trong số này đã được sử dụng canh gác bảo vệ các cuộc họp bí mật của Đảng, của Việt Minh, bảo vệ cho nhân dân cất giấu lương thực, bông xơ, dệt vải, làm nòng cốt trong các cuộc đấu tranh chống Nhật, chống trộm cướp, bảo vệ tài sản và sự yên lành cho nhân dân như là lực lượng tự vệ thực sự của Việt Minh.
Riêng tổng Phước Thiện (nay thuộc xã Ninh Thọ) đã thành lập được hai đội tự vệ sớm nhất. Đội Ninh Điền thành lập vào ngày 25.6.1945, có 13 người, do đồng chí Mai Hổ (tức Mai Xuân Hồng) làm Đội trưởng. Đội Xuân Mỹ thành lập ngày 10.8.1945, có 13, người do ông Nguyễn Phú (tức Hai Phó) làm Đội trưởng.
Việt Minh các cấp thông qua cơ sở trong các tổ chức truyền bá quốc ngữ và Thanh niên Phan Anh làm võ bọc, ráo riết tập hợp lực lượng lôi kéo Thanh niên Phan Anh sang hàng ngũ Việt Minh, vận động đánh đổ bọn thủ lĩnh thân Nhật, hưởng ứng phong trào quyên góp tiền bạc, lúa gạo cứu giúp đồng bào Bắc bộ và Bắc Trung bộ đang đói. Thông qua hình thức tổ chức biểu diễn văn nghệ kết hợp với công tác tuyên truyền xung phong, phổ biến chớp nhoáng Chương trình Việt Minh, Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Phối hợp với Hội Truyền bá quốc ngữ tổ chức hội nghị liên tịch kiểm điểm và bàn công việc của Hội, của Đoàn tại nhà bên vợ đồng chí Nguyễn Văn Huyền ở làng Phước Đa nay là nhà số 472 (Trần Quí Cáp Ninh Hòa) để phổ biến chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa của Việt Minh phủ.
Khắp vùng nông thôn liên tục nổ ra những cuộc đấu tranh của nông dân chống bắt lính, chống thuế, chống Nhật trưng mua lúa gạo, vơ vét bông xơ, chống lệnh cấm dệt vải bằng thủ công. Nhân dân các làng trồng bông ở tổng Phước Thiện đưa khung cửi ra rừng tổ chức canh gác và tiếp tục dệt, đào hầm bí mật, làm vách đôi cất vải và bông. Nhân dân những làng trồng bông ở Hòn Khói đấu tranh giằng co kéo dài không cân bông cho Nhật, cử đại diện đưa yêu sách đấu tranh đòi hạ mức bán bông xơ, Tri phủ Hồ Hưng phải xuống tận nơi thuyết phục và phải hạ mức từ 2000kg xuống còn 200 kg, nhân dân vẫn dây dưa kéo dài cho đến ngày khởi nghĩa vẫn chưa bán đủ.
Công nhân và nông dân làm muối Hòn Khói đòi tiếp tục hạ mức tô muối từ 7/3 xuống 4/6 phần (chủ 4 phần, nông dân 6 phần) buộc chủ phải chấp nhận. Chủ hiệu buôn, chủ cửa hàng, những người buôn bán nhỏ ở chợ Dinh chống thuế cao…
Ở các vùng phong trào cách mạng cao như Suối Ré, Phước Thiện nhân dân bàn bạc thời sự, kế hoạch chống Nhật, phổ biến chương trình Việt Minh, phản bác những luận điệu mị dân của Nhật, của chính phủ Trần Trọng Kim, của các đảng phái thân Nhật gần như công khai ở nhiều thôn xóm.
Trước khí thế cách mạng của nhân dân lên cao, bọn quan lại, tổng lý và bè lũ tay sai hoang mang, thấy được tính chất bù nhìn và tay sai của Chính phủ Trần Trọng Kim, thấy Nhật sắp thua, đồng minh sẽ thắng, tất yếu Việt Minh sẽ thắng, hàng ngũ chúng phân hoá mạnh. Một số tên lo chạy xin đổi đi nơi khác hòng tránh món nợ tội lỗi đối với nhân dân, số đông làm việc cầm chừng, chấp hành mệnh lệnh cấp trên một cách qua loa, miễn cưỡng, Tri phủ Hồ Hưng làm việc dễ dãi để lấy lòng dân, nhiều tổng lý, kỳ hào bắt đầu ngả về phía Việt Minh, ủng hộ các cuộc đấu tranh của nhân dân, một số ít bí mật liên hệ với Việt Minh, hoạt động lập công với cách mạng. Trong số đó có người mua 5 khẩu súng của Nhật cho Việt Minh. Một số trước đây là cai đội cũ của Pháp ở Đồn khố xanh, khi Nhật đảo chính Pháp đã giấu 10 khẩu súng không nộp cho Nhật, nay bí mật đem nộp cho Việt Minh. Anh Cha-Pui, người Pháp, quản lý sở thuốc lá cho sở Mic ở Lạc Ninh cũng tình nguyện xin vào Mặt trận Việt Minh, đồng chí Trịnh Huy Quang trực tiếp kết nạp vào tổ chức. Hàng ngũ tay sai của Nhật phân hoá, một số muốn trở chiều, thế lực thân Pháp muốn ngóc đầu dậy hoạt động phục hồi chế độ thống trị cũ. Trong lúc đó phong trào cách mạng của nhân dân Ninh Hoà dưới sự lãnh đạo của Việt Minh phát triển rất mạnh, phát xít Nhật tìm mọi cách đối phó, đàn áp, nhưng chính quyền tay sai mất hiệu lực, không còn quản lý được dân. Mất chỗ dựa, quân Nhật không còn khả năng ngăn chặn được phong trào, báo hiệu một tình thế bùng nổ cách mạng sắp bắt đầu.
TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
Vào những ngày đầu tháng 8.1945, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Sau khi tiêu diệt phát xít Đức, Ý, giải phóng châu Âu, ngày 9.8.1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ một tuần lễ sau đó quân đội Xô Viết tiêu diệt hoàn toàn đội quân Quang Đông thiện chiến nhất của Nhật đóng ở Đông Bắc Trung Quốc. Quân đội Nhật ở Đông Dương như rắn mất đầu hoang mang cực độ. Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã.
Đêm 13.8.1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi đồng bào cả nước "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến, toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta". Hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, bão táp cách mạng trên cả nước cuồn cuộn dâng cao.
Ở Khánh Hoà, ngày 11.8.1945, được tin Nhật Hoàng đặt vấn đề đầu hàng Đồng minh, đêm 12.8.1945, Tỉnh uỷ lâm thời triệu tập hội nghị mở rộng tại Nha Trang. Căn cứ vào chủ trương của Trung ương Đảng, Hội nghị quyết định nắm thời cơ Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh để phát động khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Sau Hội nghị, đồng chí Trịnh Huy Quang trở về ngay Ninh Hoà để chuẩn bị. Ngày 15.8.1945, Thường trực Việt Minh tỉnh triệu tập hội nghị đại diện Việt Minh các địa phương tại Nha Trang, đồng chí Trịnh Huy Quang lại phải vào dự. Từ khi được tin phát xít Nhật sắp đầu hàng, khí thế cách mạng của quần chúng Ninh Hoà dâng lên rất cao. Trước tình hình đó, các nhóm Việt Minh ở các khu vực đã linh hoạt tập họp lực lượng, thành lập các đội tự vệ võ trang, sử dụng các lò rèn là cơ sở Việt Minh bí mật rèn giáo mác, dao găm, gậy gộc, cờ, khẩu hiệu, truyền đơn chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa. Không khí chuẩn bị ở Phước Thiện, Suối Ré và nhiều nơi khác hối hả, tấp nập gần như công khai trong nhiều thôn xóm. Thanh niên cứu quốc và Đội tuyên truyền xung phong trong phủ lị tổ chức diễn vở kịch "Hội nghị Diên Hồng", phổ biến bài ca kêu gọi sinh viên đổi thành kêu gọi thanh niên lên đường chiến đấu, rải truyền đơn, dán biểu ngữ ở các nơi tập trung dân cư đông đúc với các khẩu hiệu "Đả đảo phát xít Nhật, đả đảo chính phủ Trần Trọng Kim, diệt trừ bọn việt gian bán nước, ủng hộ Việt Minh …"
Chiều ngày 13.8.1945, theo lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa huyện Vạn Ninh, hai đội tự vệ Ninh Điền và Xuân Mỹ ở Phước Thiện hợp nhất thành một đội, do ông Nguyễn Phú làm Đội trưởng. Trên đường hành quân ra Vạn Giã, ông Nguyễn Phú vắng mặt, đồng chí Mai Hổ (Mai Xuân Hồng) làm Đội trưởng. Đêm đó, Đội đã cùng với tự vệ và nhân dân ở đây chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền huyện.
Sáng ngày 14.8.1945, cuộc khởi nghĩa ở huyện Vạn Ninh bùng nổ thắng lợi, như phát pháo lệnh mở màn cho khí thế cách mạng phủ Ninh Hoà đang dâng rất cao. Nhưng lúc này các đồng chí lãnh đạo Việt Minh Ninh Hoà là đồng chí Trịnh Huy Quang và Trần Thạnh vào dự cuộc họp Việt Minh tỉnh ở Nha Trang chưa về, lệnh khởi nghĩa của tỉnh chưa đến. Trước yêu cầu bức xúc của phong trào cách mạng của quần chúng đang hừng hực, các đồng chí lãnh đạo Việt Minh ở các khu vực trong phủ đã linh hoạt tranh thủ thời cơ thuận lợi, chỉ đạo tiến hành khởi nghĩa, mở đầu là khu Hòn Khói vào sáng ngày 15.8.1945.
Ở Hòn Khói, ngoài bộ máy nguỵ quyền tay sai, còn có một tiểu đội quân Nhật đóng ở nhà trường Đông Hải, và bộ phận lính Đoan đóng ở lầu Thương Chánh. Theo đề nghị của các đồng chí lãnh đạo Hòn Khói trước đó, sáng ngày 15.8.1945, đội tự vệ Phước Thiện được điều sang hỗ trợ, bố trí lực lượng tại dốc núi Đò, đề phòng bọn Nhật có thể can thiệp, ngăn chặn cuộc khởi nghĩa từ hướng này.
Có thêm lực lượng hỗ trợ, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hòn Khói bùng nổ thắng lợi. Hàng ngàn quần chúng tập trung xuống đường biểu tình, trương cờ, khẩu hiệu, gương cao giáo mác, gậy gộc, kéo vào bao vây hương xá làng Phú Thọ, tịch thu ấn tín, tuyên bố xoá bỏ chính quyền tay sai, thành lập chính quyền cách mạng, rồi toả về hỗ trợ cho các làng trong khu vực nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân.
Sau thắng lợi ở Hòn Khói, cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tiếp từ các làng Phước Thuận, Nội Mỹ… tiếp giáp với tổng Phước Thiện, rồi lan ra khắp các khu vực, đến ngày 16.8.1945, ở Ninh Hoà đã nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở hầu hết vùng nông thôn. Tiếng trống mõ inh ỏi suốt ngày đêm, đèn đuốt sáng rực các làng xung quanh phủ lỵ, bộ máy tay sai Nhật hoang mang tê liệt. Trong bối cảnh đó, chiều ngày 16.8.1945, đồng chí Trịnh Huy Quang, Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời trực tiếp phụ trách Ninh Hoà, cử đồng chí Trần Thạnh, một đảng viên lãnh đạo Việt Minh phủ đến gặp tri phủ Hồ Hưng thông báo cho y biết phải tuân thủ theo lệnh của cách mạng. Sau đó, đồng chí Trần Thạnh và 6 tự vệ đến gặp viên sĩ quan chỉ huy đơn vị quân Nhật đóng tại phủ lị Ninh Hoà, thông báo cho y biết công cuộc cách mạng của người Việt Nam và yêu cầu quân Nhật không can thiệp. Quân Nhật không dám hành hung, nhưng dây dưa không tiếp đoàn của ta cho đến sáng hôm sau. Mặt khác, chúng rải quân trên các trục giao thông đi vào phủ lỵ, cho tịch thu, bắt giữ và hành hung những người vào chợ mua sắm các loại vải, các loại giấy màu đỏ, màu vàng để làm cờ Việt Minh. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền Phủ vẫn nổ ra mạnh mẽ.
Sáng ngày 17.8.1945, hàng vạn nhân dân các làng xung quanh phủ lỵ đổ ra đường, trương cờ, khẩu hiệu xuống đường biểu tình, rồi từ các ngả đường ùn ùn kéo vào phủ lỵ, đi đầu là tự vệ giương cao giáo mác, gậy gộc, với khí thế hùng dũng sẵn sàng quật ngã bọn ngoan cố ngăn cản. Khi đoàn biểu tình phía Đông và phía Đông bắc vào đến Trường Tiểu học Pháp Việt, đơn vị quân Nhật đóng tại đây cho 2 tên lính ra chận lại. Theo phương án đã tính trước, hai cán bộ Việt Minh đứng ra đối diện trả lời, còn dòng người cứ ồ ạt dồn lên phía trước. Khu phố Ninh Hoà lúc này tràn ngập một biển người, cờ đỏ sao vàng rợp trời, tiếng trống, tiếng hô khẩu hiệu vang lên như sấm dậy, rầm rập kéo vào Phủ đường. Trước khí thế long trời, dậy đất của quần chúng cách mạng, Tri phủ Hồ Hưng mang giấy tờ ấn tín và 800 đồng Đông Dương đã chuẩn bị sẵn ra giao cho đại diện của Việt Minh. Sau đó, cuộc biểu tình tập trung làm mít tinh tại sân vận động cạnh Phủ đường (nay là Nhà Văn hoá huyện). Đồng chí Trịnh Huy Quang lên diễn đàn trịnh trọng tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù nhìn, thành lập chính quyền cách mạng công bố thành phần Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời Phủ Ninh Hoà, do Trịnh Huy Quang làm Chủ tịch. Công bố 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh và kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng. Cuộc mít tinh biến thành cuộc võ trang tuần hành, thị uy, toả về lại các khu vực, với khí thế phấn khởi tràn ngập xóm làng. Lúc này trước cửa công đường, cờ quẻ ly hạ xuống, cờ đỏ sao vàng kéo lên tung bay trong không gian mùa thu lộng gió, đánh dấu thời điểm lịch sử huy hoàng ghi đậm một chiến công kỳ diệu của nhân dân Ninh Hoà.
Quân Nhật tuy đã đầu hàng Đồng minh, nhưng muốn dây dưa, kéo dài chờ Đồng minh vào giao vũ khí và giao cả nền thống trị lại cho Đồng minh, thực chất là giao lại cho thực dân Pháp, nên mưu toan can thiệp ngăn chặn cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta. Nhưng chính nghĩa và sức mạnh của quần chúng cách mạng đã chiến thắng, buộc chúng phải án binh bất động với thái độ hậm hực chờ cơ hội khác.
Sau khởi nghĩa giành chính quyền phủ thắng lợi, Việt Minh các khu vực tiếp tục thành lập chính quyền cách mạng lâm thời ở cơ sở. Tổng lý vùng dân tộc thiểu số lần lượt đem nộp ấn tín, một số súng kíp cho Mặt trận Việt Minh, tự nguyện hình thành tổ chức chính quyền cách mạng ở các buôn làng và chịu sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh.
Chỉ trong 3 ngày (15.8 - 17.8.1945) nhân dân Ninh Hoà dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ lâm thời và Uỷ ban Mặt trận Việt Minh tỉnh, trực tiếp là đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt Việt Minh phủ đã đứng lên khởi nghĩa thắng lợi, xoá bỏ hoàn toàn chính quyền tay sai của giặc Nhật, thiết lập xong hệ thống chính quyền cách mạng lâm thời từ phủ đến làng, xã. Từ phủ lị đến các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu cũng phất phới cờ đỏ sao vàng và ngân vang những bài ca cách mạng.
Ngày 2.9.1945, tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời tuyên bố trước nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Trong ngày này, nhân dân Ninh Hoà cùng đồng bào cả nước hết sức vui mừng, nô nức tổ chức trọng thể những cuộc mít tinh lớn đón mừng ngày độc lập của dân tộc, của đất nước.
Sau 15 năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ, trải qua biết bao gian khổ, ác liệt, nay cách mạng đã thành công, Tổ quốc được độc lập, nhân dân Ninh Hoà cũng như nhân dân cả nước từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân Ninh Hoà bước vào giai đoạn mới với những biến đổi cách mạng sâu sắc. Nhân dân Ninh Hoà quyết tâm cùng với nhân dân trong tỉnh và cả nước vượt qua muôn vàn thử thách hiểm nguy để xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng cuộc đời mới.