TRẬN “VÂY ĐỒN DIỆT VIỆN”
HỒ ĐẮC HƯNG
Chiến thắng từ các chiến trường dồn dập báo tin vui vào những ngày tháng 5 năm 1954. Toàn đơn vị chúng tôi ai cũng phấn khởi muốn tiếp tục nhận nhiệm vụ mới ngay. Thực ra anh em chưa có thì giờ để nghỉ ngơi, chỉ được một vài ngày tạm dừng rút kinh nghiệm, bổ sung đạn dược và chuẩn bị chiến trường. Mấy tuần trước đây từng trung đội của Đại đội 222 đã thay phiên nhau làm nhiệm vụ chốt chặn địch trên đèo Phượng Hoàng quốc lộ 21 tiêu hao từng bộ phận địch, ngăn chặn, làm chậm bước các đoàn “Cồng-voa” chở lính, lương thực và phương tiện chiến tranh chi viện cho Tây Nguyên đang bị chủ lực quân khu đánh cho tơi tả. Hình thức chủ yếu là chặt cây ngã ngổn ngang trên đường, gài mìn ở những đoạn dự kiến địch tập trung lại để chống trả, bắn súng tỉa từng tên, quăng lựu đạn diệt từng tốp. Vất vả gian khổ nhưng rất vui. Ai cũng muốn lập công, ai cũng muốn có thành tích.
Lần này cũng trên đường 21, đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ kiềm chân diệt địch với yêu cầu nhiều ngày liên tục, nhưng bằng vận dụng chiến thuật “vây đồn, đánh viện”. Cụ thể đại đội chúng tôi phải vây đồn Dục Mỹ, vây cho đến khi nào chúng phải kêu viện binh lên giải tỏa mới đạt yêu cầu. Vây đồn là thủ đoạn, diệt viện mới là mục đích của chiến dịch lần này. Địa điểm đánh viện là Đèo Cạnh ở km 9 từ Ninh Hòa lên. Đây là điểm phục kích lý tưởng. Đường đèo dốc quanh co, một bên đồi núi, một bên là ruộng sâu đội hình lọt vào đây chỉ có thiệt mạng cả lũ. Nhiệm vụ ấy đặt ra cho chúng tôi phải tổ chức lực lượng thích hợp, nghiên cứu chiến trường tỉ mỉ, dự kiến những tình huống có thể xảy ra. Đơn vị tổ chức thành 2 bộ phận: bộ phận vây đồn và bộ phận đánh viện, phải chia như vậy nhưng khi đánh viện phải tập trung, có tập trung mới đủ lực lượng chặn đầu, khóa đuôi và một lực lượng đủ mạnh đánh địch ở khu vực quyết chiếm điểm.
Tôi là chính trị viên phó đại đội và anh Trần Trọng Sơn đại đội phó làm nhiệm vụ vây đồn, anh Mậu đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy ở trận địa phục kích. Giữa tôi và anh Sơn cũng được phân công cụ thể, tôi làm nhiệm vụ tấn công binh vận với chiếc loa làm bằng mo cau. Anh Sơn chỉ huy bộ phận hỏa lực, cảnh giới, từng lúc chỉ huy bắn vài phát súng thị uy hỗ trợ cho tôi làm nhiệm vụ kêu gọi địch đầu hàng, bỏ đồn.
Lần nào cũng vậy, cứ vào buổi chiều sau khi ăn cơm xong chúng tôi hành quân chiếm lĩnh vị trí chiến đấu. Khoảng 20 giờ bắt đầu lên tiếng kêu gọi địch và cứ sau 10 phút thì khẩu “Brem” đầu bạc do xạ thủ Luật điểm vài loạt ngắn, tiếp đến anh Dúi tiểu đội trưởng hỏa lực đại đội nã vài quả cối 60 ly vào đồn uy hiếp tinh thần.
Những đêm sau thông qua quần chúng và cán bộ địa phương, chúng tôi biết được tư tưởng và hoàn cảnh của quân sỹ trong đồn, có nội dung kêu gọi thích hợp, thúc bách hơn. Nhiều đêm, rồi nhiều đêm, chúng tôi cứ lặp đi lặp lại cái công thức vừa kêu gọi vừa bắn súng hù dọa nhưng chẳng thấy lực lượng của chi khu Ninh Hòa lên giải cứu giải vây. Cuối cùng, vây ép mãi đến lúc chịu không nổi phải có hành động phản ứng.
Đêm ấy có lẽ là đêm thứ 10 của đợt hoạt động. Đơn vị đến vị trí tập kết sớm hơn thường lệ, phải chờ một vài giờ nữa trời mới tối. Anh em vừa tranh thủ kiểm tra trang bị vũ khí, vừa kể chuyện tâm tình, thôi thì đủ thứ chuyện trên đời, nào chuyện chiến dấu, chuyện tình yêu, chuyện đơn vị, chuyện quê nhà.
Sau khi chọn được vị trí thích hợp, thuận theo chiều gió, tôi dõng dạc gọi lớn: “Hỡi anh em binh sỹ, khắp các chiến trường cách mạng đang thắng lớn đại bộ phận Kon Tum và thị xã Kon Tum đã được giải phóng. Đồn Dục Mỹ ở đây đang bị vây chặt các anh chỉ còn một con đường duy nhất là phải bỏ đồn về sống với gia đình nếu nấn ná sẽ bị thiệt mạng. Các anh cứ theo con đường lớn ra đến cổng, rẽ trái chừng vài chục mét sẽ có chúng tôi đón”. Tôi thông báo như thế, nhằm gây tâm lý căng thẳng, giữa bọn chúng không biết thật hư thế nào và cũng để hướng dẫn hành động cụ thể cho chúng. Thỉnh thoảng tôi lại nói thêm như đã có đứa đang đi ra ví dụ tôi nói anh thứ nhất, thứ hai đang đi ra đã đúng hướng rồi, các anh khác cứ thế tiếp tục. Nhiều đêm tiếng nói chính nghĩa của cách mạng, chính sách khoan hồng của chính phủ đối với tù hàng binh, cứ như rót vào tai những người lao động buộc phải khoác áo lính làm bia đỡ đạn cho Tây cũng phải suy nghĩ, chúng tôi đoán như thế. Nếu như những đêm trước khi kêu gọi bọn lính chỉ im lặng - không hiểu chúng im lặng vì lẽ gì, chịu nghe chăng? Hay chúng mãi sát phạt đỏ đen với nhau trong đồn nên không chịu chú ý. Nhưng đêm nay cái đêm thứ mười này, sau khi kêu gọi xong, trong bọn chúng đã có đứa lên tiếng nói: các anh nới lỏng sự bao vây đừng bắn súng máy, súng cối vào đồn nữa, chúng tôi sắp xếp đồ đạc, sẽ ra, sẽ ra…
Sau vài giờ theo dõi động tĩnh của lính đồn, đơn vị im lặng hành quân về trận địa phục kích. Bộ phận nào về bộ phận nấy, anh Sơn về với bộ phận chận đầu, tôi về với bộ phận chận đuôi bố trí cạnh tiểu đội hỏa lực của anh Dúi.
Anh Nguyễn Hà trung đội phó trinh sát cứ theo năn nỉ với anh Mậu xin được bố trí trong đội hình chiến đấu, các anh Lưu Văn Mẫu, Hồ Thiện Khánh, Nguyễn Văn Nguyên, Ngụ trung đội trưởng, anh Nguyễn Liễn tiểu đội trưởng người ở thôn Trường Lập xã Ninh Hưng, Nguyễn Luống xạ thủ súng máy, Nguyễn Ngọc Chiến tiểu đội phó, Đoàn Minh Cứ tổ trưởng 3/3 là lực lượng nòng cốt đáng tin cậy của đại đội được phân công trong đội hình chính diện.
Đêm ấy sau khi bố trí xong đội hình, chúng tôi đã nghe tiếng rì rầm xa xa của động cơ xe. Ai cũng mừng thầm nghĩ trong bụng hôm nay chắc có “ăn” rồi. Đúng vậy vào khoảng 3 giờ sáng tiếng động cơ càng rõ dần. Đài quan sát đã thông báo cho Ban chỉ huy biết có đèn pha xuất phát từ phía Ninh Hòa đang di chuyển về phía Tây. Từng bộ phận động viên nhau giữ quyết tâm, phải đánh thắng trận này để phối hợp chiến trường. Đã từ lâu, tư tưởng phối hợp chiến trường trong anh em chúng tôi ở Đại đội 222 Bắc Khánh này như ăn sâu vào tim óc của mỗi người - đánh thắng đêm nay là thực hiện phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, xa hơn nữa là phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ: là hỗ trợ cho quân và dân các vùng tự do khu 5 đánh bại cuộc hành quân “At-lăng” của tướng Nava hòng đưa quân chiếm lại vùng tự do... Và chúng tôi đã đánh thắng.
Vào cái khoảnh khắc mà chúng tôi mong đợi quân viện binh của chi khu Ninh Hòa lên thì chúng tôi đã dẫn xác đến, khi đoàn xe cơ giới có xe bọc thép dẫn đầu chạm vào điểm chông mìn của bộ phận chận đầu, lập tức mìn nổ. Chiếc xe bọc thép rùng mình, loạng choạng rồi tắt máy, dừng hẳn. Tất cả súng máy, súng thường, lựu đạn đồng loạt nổ vang, chát cả lỗ tai, ánh lửa sáng loáng trong bóng đêm sáng cả một góc đèo. Bọn lính từ trên xe nhảy xuống định lợi dụng mép đường đối diện để chống trả, đã bị hàng loạt quả mìn nổ tung, lớp chết, lớp bị thương kêu rên í ới - Lúc này đại đội trưởng Nguyễn Mậu với bộ quần áo bà ba truyền thống, với khẩu P38 mới được trang bị từ sau chiến thắng ở dốc Đá Trắng ra lệnh toàn đại đội xung phong. Mũi B2 được súng máy chi viện, Nguyễn Ngọc Chiến tiểu đội phó và Đoàn Minh Cứ xung phong ra, thấy xe bọc thép đi đầu chẳng còn tên lính nào vội bắn mấy loạt tiểu liên, nhảy phóc lên xe tháo khẩu trọng liên, thu dọn vũ khí, quân trang quân dụng trong xe. Lúc này Chiến thấy đau buốt ở chân, nhìn xuống thấy máu chảy ướt cả ống quần. Băng vội vết thương cho Chiến, Cứ lao về phía còn tiếng súng lẻ tẻ chi viện cho mũi khác.
Ở chính diện, mũi B3 do trung đội phó Nguyên dẫn đầu vừa xung phong ra, Nguyên bị một loạt đạn súng máy ngã xuống, số khác tiếp tục xông ra đường chiến đấu - sau đó cái hỏa điểm ma quái vừa bắn ngã anh Nguyên đã bị trả lời bằng một tiếng nổ đanh của một đồng đội, tạo thuận lợi cho các mũi chính điện kiểm soát trận địa, diệt nốt những tên còn sống sót. Bộ phận khóa đuôi đã dùng súng máy, súng cối kèm chặt, chận đứng các xe sau để bộ phận chính diện giải quyết chiến trường, thu dọn chiến lợi phẩm. Đoàn xe dài chở những tên lính của lực lượng còn lại không dám lên, chỉ đứng dưới dốc bắn rải đạn lên đồi.
Khoảng 5 giờ sáng đại đội 222 Bắc Khánh Hòa hoàn toàn làm chủ chiến trường, đưa liệt sỹ, thương binh, chiến lợi phẩm về phía sau. Nhưng anh em chúng tôi tìm mãi, tìm mãi vẫn không thấy anh Mậu. Ban chỉ huy đành chỉ thị cho y tá đại đội tiếp tục băng bó cho số lính địch bị thương, xếp nằm trên đường để đồng bọn đến khiêng đi rồi cùng tổ cảnh giới rút về vị trí tập kết.
Mãi đến 7 giờ sáng ngày hôm ấy, chừng như biết được chúng tôi đã rời khỏi trận địa, một đoàn xe chở đầy lính rải đạn lung tung hai bên đường, hô hét inh ỏi để trấn an tinh thần, rồi chia nhau từng khu vực xem lại chỗ chúng bị đánh. Sau trận thua đau ở Đèo Cạnh, bọn chỉ huy ở chi khu Ninh Hòa ra lệnh rút bỏ đồn Dục Mỹ. Đơn vị chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ góp phần đáng kể vào thắng lợi chung của chiến dịch, diệt gần hết đại đội đi đầu của quân ứng viện giải vây cho Dục Mỹ. Nhưng đồng chí Nguyễn Mậu đại đội trưởng của đơn vị chúng tôi và các anh Hà, Nguyên, Thanh đã anh dũng hy sinh cho chiến thắng trước khi Hiệp định Geneve có hiệu lực, với tuổi đời còn rất trẻ, trong sự mong chờ của gia đình và người yêu.