NHEN NGỌN LỬA CÁCH MẠNG TỪ LÒNG DÂN
NGUYỄN TƯỜNG: kể
NGUYỄN TẤN KA: ghi
Sau khi được học tập trên đất Bắc thì chúng tôi được lệnh trở lại chiến trường miền Nam để chiến đấu. Đêm 15 tháng 8 năm 1960 chúng tôi lưu luyến chia tay với anh em bạn bè và rạng sáng ngày hôm sau lên đường về miền Nam yêu dấu.
Vượt suối băng ngàn, đối đầu với biết bao gian khó và nguy hiểm. Phần bị địch truy kích trên đường, phần bị bệnh tật bám đuổi, chuyến đi gồm 26 đồng chí nhưng khi về đến miền Nam thì chỉ còn vỏn vẹn 3 người: Tôi, Võ Danh và Nguyễn Sâm.
Đồng chí Võ Danh về thẳng tỉnh công tác, đồng chí Sâm làm y tá, còn tôi về tận Tô Hạp để nhận nhiệm vụ. Tôi được giao nhiệm vụ về lại Ninh Hòa liên lạc và móc nối cơ sở cách mạng để hoạt động. Và sau đó phải thành lập được "Tổ vũ trang tuyên truyền tiền phong". Nhận chỉ thị, tôi vừa mừng vừa lo. Không biết mình có làm tròn trách nhiệm của Đảng giao không? Về Ninh Hòa, tôi thành lập ngay tổ vũ trang. Tôi làm tổ trưởng, đồng chí Nguyễn Thanh (tức Thiệt) và Nguyễn Duy (nguyên lính đặc công) làm tổ viên. Cơ sở được đặt ở mạn Tây Nam Ninh Hòa (Hòn Một - Hòn Lớn) hoạt động trên một địa bàn khá rộng gồm Ninh ích, Ninh Lộc, Ninh Quang, Ninh Hưng và Ninh Bình. Sắp xếp công việc đâu vào đó, chúng tôi quyết định thăm đò quần chúng và có kế hoạch nối cơ sở hoạt động. Ngày 01 tháng 03 năm 1961, tổ chúng tôi lần ra điểm Bầu Chùa, ngay cửa rừng phía Tây Ninh Hưng. Tôi ngồi trên một ụ gò mối, hai đồng chí còn lại nằm ở 2 vị trí khác làm nhiệm vụ canh phòng và trinh sát. Chín giờ sáng có 3 người xuất hiện, chẳng rõ là ai nên chúng tôi không dám gặp. Một giờ sau lại xuất hiện thêm 5 người nữa, trong số này tôi nhận diện được ông Tứ nhưng cũng không dám làm quen vì tôi không tin tưởng ở con người này. Chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi thêm đến 4 giờ chiều nhưng cũng không có kết quả. Ngày đầu tiên ra quân chỉ là con số không, về căn cứ đá Lục Cục ăn uống và tiếp tục bàn bạc kế hoạch cho ngày mai. Vẫn địa điểm cũ, chúng tôi ngồi chờ trong tâm trạng hồi hộp và nôn nao. Rừng núi yên tĩnh đến lạ. Cả tiếng ong kêu cũng nghe rõ mồn một. Trong khoảng thời gian từ 9 giờ đến 11 giờ sáng, chúng tôi phát hiện có tất cả 15 người đi về phía rừng. Trong số ấy có ông Thiệu là người Phú Hòa (cùng quê với tôi) nhưng vì không rõ sau 13 năm xa quê, ông Thiệu là người như thế nào nên tôi chỉ nhìn theo dáng của ông ta khuất sâu vào rừng... Thế là ngày thứ 2 cũng không kết quả. Chúng tôi quyết định về làng vào ngày thứ 3. Trước khi đi chúng tôi đã vạch ra sơ đồ đường đi và đưa ra nhiều tình huống có thể xảy ra. Hành trình chúng tôi sẽ qua chùa Lỗ Mây, băng Đồng Gieo, xuống Cầu Từ và men theo đường đình Phú Hòa để về làng. Nếu gặp địch là tránh, không nổ súng. Đó là lệnh tối ưu của chuyến đi.
Ba giờ chiều chúng tôi khởi hành, đến bến Cây Sao là 5 giờ chiều. Chúng tôi ngồi chờ mặt trời lặn. Nhìn xuống làng quê mà lòng tôi bồi hồi xao xuyến. Rặng tre muôn đời vẫn cần cù ôm ấp, chở che cho làng xóm quê hương. Thấp thoáng nơi ấy là bóng dáng cổ kính của ngôi đình làng. Thỉnh thoảng vài cánh cò bay qua bầu trời xanh ngắt. Cảnh vật trông thanh bình đến thế mà số phận của những người dân bên kia lũy tre lại là những chuỗi ngày lầm than và tủi nhục. Nanh vuốt kẻ thù luôn rình rập và đe dọa họ. Sống giữa lũ chó săn độc ác và bẩn thỉu, chúng tôi hiểu rằng họ đang rất cần một chút lửa cách mạng để soi đường họ đi. Làng xóm đã lên đèn! Chúng tôi bắt đầu vượt suối. Đúng 7 giờ tối thì đến được Gò Bông. Xa xa có tiếng máy nổ vọng lại, đoán chừng là tiếng máy của những người chạy nước cho ruộng, chúng tôi lần đến. Tôi cử Thanh gác trục đường Ninh Hưng lên và Duy trục đường chùa Lỗ Mây xuống. Còn tôi men lại gần thửa ruộng có tiếng máy nổ. Dưới ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn treo gần máy nước, tôi nhận ra người đàn ông đứng giữa là ông Bầu Cư (người Phú Hòa - Ninh Quang) là con bác họ tôi. Thời Pháp ông cũng giúp cho cách mạng một ít việc. Vì vậy tôi thật sự bình tĩnh và lạc quan. Thế là tôi quyết định lộ diện. Thật là may mắn, người đầu tiên tôi gặp sau 13 năm xa quê lại là một người trong họ. Gặp nhau thật ngắn ngủi, thật đột ngột nhưng tôi đã nắm rõ được địa hình vào làng, những địa danh quen thuộc, những dấu tích ngày xưa đều vẫn còn nguyên. Chia tay ông và 2 người phụ việc, chúng tôi không quên đề phòng và cảnh giác họ. Bước chân chúng tôi lại tiếp tục tiến về làng, qua những lối cũ ngày xưa. Những ngày mà cánh trẻ chúng tôi vô tư thả hồn theo cánh diều trên đồng lúa, ngất nghểu trên lưng trâu, miệng nghêu ngao những bài đồng dao quen thuộc.
Đêm hôm đó, chúng tôi vui mừng đến trào nước mắt, khi về đến ngôi nhà thân yêu của mình. Gặp lại cha sau mười mấy năm xa cách. Tay nắm tay mà nước mắt cứ tuôn trào. Qua lời kể của cha tôi, chúng tôi càng hiểu thêm nhiều về quê hương. Đồng bào vất vả đói nghèo, bọn ác ôn càn quấy, khủng bố mọi nơi. Khát khao lớn nhất của họ là được đứng dậy chiến đấu dẫu có hy sinh cũng cam lòng. Chia tay gia đình, chúng tôi lại mang nặng trong lòng đều trăn trở: Thời cơ đã đến nơi rồi, hãy xây dựng nhanh chóng những cơ sở cách mạng ngay trong lòng dân. Chỉ có dân mới quyết định sự sống còn của dân tộc. Ngày 6 tháng 3 năm 1961, khoảng 9 giờ sáng, tại đồng Bà Dung (phía Đông Nam Hòn Một) tôi lại gặp ông Lương Ngô (Phú Hòa) là anh em kết nghĩa với tôi ngày trước. Ông Ngô là người có học nên am hiểu thời thế. Gặp tôi tay bắt mặt mừng khi biết tôi làm cách mạng. Trao đổi với nhau ngắn gọn mà ý tình như đã hiểu hết với nhau. Ông như con cá gặp nước, con chim gặp trời. Trái tim ông đã giác ngộ ngọn lửa cách mạng ngay từ hôm đó. Năm 1966 ông đã cho con trai của mình là Lương Bửu thoát ly làm liên lạc, sau này anh là những liệt sĩ đầu tiên thời chống Mỹ ở Ninh Quang. Vợ ông là bà Ngô Thị Tích, nén nỗi đau mất con để xây dựng một cơ sở cách mạng ở Phú Hòa. Từ cơ sở này, bà đã móc nối và xây dựng nhiều cơ sở khác, tạo ra một vùng hoạt động rộng lớn và mạnh mẽ. Ngày đất nước giải phóng bà đã được Nhà nước phong tặng "Gia đình có công với nước" và nhiều Huân Huy chương. Riêng ông Lương Ngô chồng bà bị địch bắt đày Côn Đảo, sau bị bệnh và qua đời. Ngoài gia đình cách mạng kiên trung trên, tổ chúng tôi cũng đã xây dựng nhiều cơ sở khác như cơ sở nhà bà Niễn (Phú Hòa), bà Giảo (Trường Lộc - Ninh Hưng).
Nhiệm vụ coi như bước đầu hoàn tất, tháng 4 năm 1962, tôi rời khỏi tổ vũ trang để về Huyện đội nhận công tác khác, giao lại cho đồng chí Bình làm tổ trưởng (sau đồng chí hy sinh ở cầu Máng - Ninh Quang). Tổ vũ trang vùng Tây Nam Ninh Hòa tiếp tục phát triển và trưởng thành dưới sự chỉ huy của các đồng chí tổ trưởng: Bốn Quảng, Phạm Lý Trung, Tư Quảng Ngãi, Nguyễn Du, Dũng, Tơ, Năm Râu... và cuối cùng là đồng chí Phạm Đài (hiện là Bí thư Huyện ủy Ninh Hòa) như vậy qua nhiều lớp hoạt động, đến nay chỉ còn có tôi và đồng chí Đài là những tổ trưởng tổ vũ trang còn sống. Các đồng chí khác đã anh dũng hy sinh.
Thời gian hoạt động của tổ vũ trang tuy ngắn. Song đã gây một tiếng vang khá lớn. Địch thật sự hoang mang về một tổ chức cách mạng ở Tây Nam Ninh Hòa. Quần chúng nhân dân dần dần tin tưởng vào cách mạng và đặc biệt là ngọn lửa cách mạng đã nhen nhóm khắp nơi trong quần chúng. Đó là yếu tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng trong những ngày phôi thai.