TẤM LÒNG MỘT GIA ĐÌNH CƠ SỞ
HOÀNG THỊ DÂN
Mẹ Ngô Thị Tích năm nay đã 73 tuổi ở thôn Phú Hòa, xã Ninh Quang. Mẹ có bốn người con trai. Lương Công Bửu con trai lớn của mẹ đã hy sinh tháng 5 năm 1970 tại Suối Hàn. Mẹ cùng chồng con tham gia cách mạng từ sau ngày đình chiến. Tuy lúc đó vợ chồng mẹ chưa hiểu nhiều về Đảng nhưng lần dự mitting mừng chiến thắng ở đình Phú Hòa tháng 8 năm 1954 mẹ được chứng kiến niềm vui sướng của cán bộ gặp lại đồng bào, tất cả nhìn Bác, nhìn cờ đỏ sao vàng bay phấp phới lòng đầy xúc động có người cảm động rơi nước mắt. Hình ảnh cán bộ ốm yếu, xanh xao do ngủ hầm, nằm núi, ăn đói, mặc rách, chịu đựng muôn vàn gian khổ vậy mà nét mặt vẫn tươi vui, hồ hởi đầy lạc quan tin tưởng.
Vợ chồng mẹ lam lũ làm đồng để có nhiều lúa gạo ủng hộ cách mạng, tham gia chống tố cộng, chống khủng bố, rải truyền đơn, đào hầm bí mật, nuôi giấu cán bộ, tiếp tế lương thực, thực phẩm, gạo, muối, thuốc men từ cơ sở lên chiến khu. Trong những năm chiến tranh ác liệt vợ chồng mẹ len lỏi vào rừng giả làm người hái lượm tìm cách liên lạc, báo cáo tình hình địch cho cán bộ, phản ánh kịp thời những âm mưu mới nảy sinh của bọn chó săn nằm vùng…
Lúc bấy giờ ông Nguyễn Văn Thường phụ trách, bám sát cơ sở công nhận gia đình mẹ là một trong những cơ sở trung kiên nhất.
Vợ chồng mẹ làm ruộng ở đồng Gieo cứ mỗi mùa gặt mẹ góp cho cách mạng từ 30 đến 50 giạ lúa tại ruộng. Mẹ lấy ống gô US đong đổ vào ba lô, ruột tượng, giỏ nà….rồi giao cho ông Vân nhận để nuôi quân.
Nhiều lần địch phát hiện, chúng bắt vợ chồng mẹ bỏ tù, chúng đánh đập, tra tấn rất dã man nhưng mẹ vẫn chịu đựng, nhất định không khai. Vợ chồng mẹ đã ba lần đào hầm nuôi giấu cán bộ tại nhà.
Một lần anh Lý cán bộ kháng chiến quê ở Nam Sách (Hải Dương) từ chiến khu về làng bắt liên lạc với cơ sở, bị địch phát hiện, chúng bắn xối xả, la hét ầm ĩ. Không thoát được, anh đã trúng đạn ngã gục ở hàng rào phía trên nhà mẹ. Nhanh trí, mưu mẹo mẹ đã đưa anh về hầm nhà băng bó. Do bị thương nhiều chỗ: đầu, mạng sườn, chân…nên máu chảy nhiều thành vệt dài từ chỗ anh nằm đến miệng hầm. Mẹ vội xách nước giả đò tưới cây, xối trôi các vệt máu, mẹ lấy chân chùi xóa thật nhanh để địch không kịp phát hiện. Mất anh, bọn giặc lùng sục tìm khắp trong nhà ngoài vườn mẹ, chúng tra hỏi mẹ nhiều, mẹ trả lời “tao không biết!..” chúng đành rút lui, mẹ nuôi anh Lý hai ngày rồi tìm cách đưa anh về chiến khu tiếp tục điều trị. Có lần bọn địch lùng sục vào nhà, không thấy vợ chồng và các con lớn của mẹ. Chúng bắt cu Bườm dụ dỗ, tra hỏi rồi hù doạ: cắt cổ, bỏ xuống giếng cu Bườm chỉ biết nói ‘tôi không biết”. Tối về nghe con nói cả nhà chảy nước mắt vì thương con.
Năm 1970 chồng mẹ bị giặc bắt đày đi Côn Đảo, con trai lớn mới hy sinh. Bao nỗi đau đớn dày vò trong trí não của người mẹ, người vợ…
Bỗng nhiên đêm đến ông Tấn ẵm một em bé mới 4 tháng tuổi từ trên cứ đem về xuống nhờ mẹ nuôi (khoảng cuối năm 1971). Nhìn cháu bé nhỏ xíu, xanh tái, lòng mẹ đau xót vô cùng, nhưng không chút do dự mẹ dang tay đón bé rồi ôm chặt vào lòng như đón đưa con chính mẹ đẻ ra. Nghẹn ngào – khâm phục, trao bé cho mẹ, ông Tấn ra đi lòng đầy tin tưởng.
Cháu bé được đặt tên là Đinh Tiên Phước con của liệt sĩ Đinh Tiên Ngọc quê ở Ninh Hưng. Lúc bấy giờ cả hai vợ chồng ông Ngọc là cán bộ ở chiến khu.
Mẹ nuôi Phước thật vất vả, thiếu sữa, lại bị những trận sốt rừng hành hạ, bé khóc, mẹ khóc, nhiều đêm mẹ thức trắng đêm. Thương bé lắm, mẹ muốn cất lên lời ru nhưng rồi lại phải nín lặng vì rất sợ: sợ địch phát hiện rồi tra hỏi, sợ kẻ xấu tung tin xấu trong lúc chồng mẹ đang ở tù ngoài Côn Đảo.
Cũng may cạnh mẹ cũng còn có người thương giấu kín bé Phước cùng mẹ.
Mọi việc rồi cũng qua đi nhanh chóng theo thời gian. Được “ông bà thương” Phước bú sữa ngoài, bú vú da của mẹ mà hay ăn chóng lớn, mẹ mừng thầm, mẹ chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ, mẹ lo cho Phước học hành chu đáo.
Năm 18 tuổi Phước xin mẹ đi làm ở Nhà máy thuốc lá Phan Rí. Phước gửi quà, về thăm mẹ luôn để mẹ khỏi tủi.
Chiến tranh đã qua rồi một vài lần mẹ nhận được thư của anh Lý. Anh hứa sẽ đưa vợ con vào thăm mẹ. Mẹ đang vui trong niềm vui chung thì chồng mẹ bị đau nặng bởi các vết thương bị tra tấn trong lao tù, chạy chữa hoài nhưng không qua được, chồng mẹ đã mất sau chiến tranh vài năm. Giờ đây cuộc sống của mẹ vẫn còn vất vả lắm, mẹ nói với tôi trong nghẹn ngào: “Mẹ vẫn còn hạnh phúc hơn nhiều so với nhiều gia đình, người thân đã hy sinh trong hai cuộc chiến đến nay vẫn chưa tìm thấy phần mộ..!”
Dạo này mẹ hay đau, đêm về mẹ ngồi lặng lẽ trong căn nhà, thắp nén nhang lên bàn thờ, mẹ nhớ lại khuôn mặt, tính nết của chồng, con ngậm ngùi và thương nhớ.