Nhớ tiểu đội bảo vệ bệnh xá Bắc Khánh Hòa
Hồi ký của bác sĩ ĐÀO DUY SANG
Đã gần 30 năm rồi (1968-1997) mà hình ảnh tiểu đội bảo vệ bệnh xá Bắc Ninh Hòa vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi.
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mùa xuân Mậu Thân năm 1968, Mỹ - ngụy tập trung quân đội và các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất đánh phá các cơ sở cách mạng, vùng giáp ranh giữa ta và địch; đặc biệt là chiến khu, vùng hậu cứ của ta, trong đó chiến khu Bắc Khánh Hòa là một trong những trọng điểm của chúng.
Bệnh xá Bắc Khánh Hòa là trung tâm cứu chữa thương bệnh binh của cả ba vùng: Vạn Ninh, Hòn Hèo và phía bắc của huyện Ninh Hòa; có quy mô 80-100 giường. Tổng số cán bộ, công nhân viên của bệnh xá lúc bấy giờ là 20 người, trong đó có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 5 y tá, 1 chính trị viên, còn lại là nhân viên phục vụ.
Cũng như các cơ quan khác bệnh xá Bắc Khánh thường xuyên bị địch đánh phá nào là: biệt kích rình mò; bom pháo bắn dội; máy bay rải chất độc hóa học bắn phá nương rẫy… Thương bệnh binh nặng về ngày càng đông; lương thực, thực phẩm; thuốc men, phương tiện cấp cứu, điều trị người bệnh ngày càng cạn kiệt!...Trước tình hình đó, cấp trên cho phép bệnh xá thành lập tiểu đội bảo vệ. Nhưng lấy người đâu ra? Và lấy gì để ăn?...Nhiều vấn đề đặt ra mà cấp ủy, lãnh đạo của bệnh xá phải suy nghĩ và phải tự giải quyết lấy… Và rồi, chúng tôi đã giải quyết được, chỉ vì tính mạng của thương bệnh binh và sự tồn tại của bệnh xá Bắc Khánh.
Tiểu đội bảo vệ được hình thành 9 người, trong đó gồm một tổ chủ lực (3 người) được cấp trên điều về từ Trung đoàn Sao Thủy – từng chiến thắng ở Khe Sanh (Quảng Trị); một tổ hậu vệ (3 người) được tuyển chọn trong số nhân viên phục vụ và một tổ hỗ trợ (3 người) rút chọn trong số y tá của bệnh xá. Vì đã lâu nên họ của 9 người đó tôi quên, nhưng tên tuổi của anh em tôi còn nhớ, đó là: Ân - Thế - Hùng (tổ chủ lực), Được - Tư - Ngò (tổ hậu vệ) và Định - Hồng - Dư (tổ hỗ trợ). Nhiệm vụ của tiểu đội này được cấp ủy và lãnh đạo bệnh xá xác định rất rõ: Bằng mọi cách phát hiện địch sớm và quyết tâm đánh trả đến cùng; khiêng cáng thương bệnh binh khi di chuyển bệnh xá; huy động, vận động chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men phục vụ thương bệnh binh, đấy là ba nhiệm vụ chính, trong đó nhiệm vụ phát hiện địch từ xa và quyết tâm đánh địch là nhiệm vụ chủ yếu và xuyên suốt.
Những đêm trăng thanh gió mát, núi rừng yên lặng, chỉ nghe tiếng suối róc rách xa xa và đều đều…chúng tôi mới có dịp nằm kề bên nhau tâm sự việc chung có, việc riêng có, an ủi động viên nhau hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Trong suốt 9 anh em đó, có người mới đi hỏi vợ chưa kịp cưới đã phải thoát ly gia đình lên chiến khu công tác, có người mới có người yêu đang trông chờ ngày gặp mặt, có người vừa mới tốt nghiệp cấp III đã vào quân đội đến với chiến trường Miền Nam, có người phải lam lũ làm ăn phụng dưỡng cha mẹ già yếu nhưng vì giặc lùng bố phải rời làng để vào các đội công tác của huyện v.v…
Tất cả họ mới ở độ tuổi 17 20, đều là con em người nghèo hay thân quen với người đi làm cách mạng và được cơ sở cách mạng giới thiệu lên hay từ miền Bắc đưa vào. Họ có sức khỏe và tinh thần công tác rất tốt, luôn hăng say với công việc được giao, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ thương binh, bảo vệ bệnh xá, không ngại hy sinh, không sợ khó khăn gian khổ. Tình cảm của họ thật dồi dào, cứ quấn quýt bên nhau như anh em ruột thịt. Họ chia bùi, xẻ ngọt, hạt muối cắn đôi….Đêm gốc rừng chân núi, ngày bờ suối gốc cây, luôn luôn dồn tai mắt để nghe ngóng, nhìn rõ quân thù, phát hiện chúng từ xa chủ động đánh địch, bảo vệ an toàn cho bệnh xá.
Thật quý mến, thật yêu thương; có thể nói đó là 9 con người dũng cảm của bệnh xá Bắc Khánh lúc bấy giờ, cấp ủy Đảng, chi bộ luôn luôn quan tâm chăm sóc họ về mọi mặt.
Trong quý I năm 1969, lương thực, thực phẩm của bệnh xá cạn kiệt, thương bệnh binh, cán bộ công nhân viên phải ăn rau rừng, củ rừng thay cơm, vì thế một số thương bệnh binh và nhân viên bệnh xá bị ngộ độc nặng làm chết 2 người, say dại 6 người, trong đó có một cháu 5 tuổi. Tình hình thật là bi đát! Nạn đói đã thế, địch tình còn uy hiếp…Trước tình thế đó cấp ủy và lãnh đạo bệnh xá đã phải quyết định cử một tổ 3 người trong tiểu đội bảo vệ xuống làng để mua lương thực, thực phẩm và thuốc men về nuôi dưỡng cứu chữa thương bệnh binh, tuy lúc này dưới làng địch cũng đang lùng sục đánh phá rất căng thẳng. Sau 20 ngày đêm chờ đợi, một tin buồn đem về: 2 người hy sinh, 1 người bị thương nặng được nhân dân cứu chữa che giấu và chuyển về chiến khu!....
Mùa xuân đã qua, mùa hạ lại đến, tiếng ve rừng lại phát ra những âm điệu buồn, quân thù lại mở những đợt hoạt động càn quét, đánh phá cả vùng chiến khu Bắc Khánh. Bệnh xá từ Hòn Chảo phải di chuyển sang Hòn Gục giữa lúc đó địch đổ quân xuống. Để bảo đảm sự di chuyển an toàn, chúng tôi cử một tổ trong tiểu đội bảo vệ làm nhiệm vụ trinh sát và bảo vệ cuộc chuyển hướng này. Khi tổ trinh sát đến gộp ‘Quý Chừ” thì gặp địch. Cuộc tao ngộ chiến xảy ra không cân sức, 2 người trong tổ hy sinh, còn 1 vừa chiến đấu vừa rút về để bảo vệ bệnh xá. Nhờ cuộc chiến đấu đó mới cản được bước tiến của quân địch và cả bệnh xá di chuyển an toàn!...
Khi mùa hạ vừa đi, gió thu lãnh lẽo đã tràn về! Thuốc men, lương thực của bệnh xá vẫn trong tình trạng bế tắc! Đang tìm hướng khai thông thì địch lại đổ quân xuống càn quét vùng này; tổ bảo vệ vẫn còn lại ít người nhưng vẫn chủ động phát hiện địch trước và từ xa đã nổ súng làm cho chúng ta bị thương một số, do đó chúng phải quay sang tiến công hướng khác, tổ bảo vệ phải hy sinh một!...Cái lạnh lẽo, đói khát của mùa thu ấy không làm giảm được ý chí cách mạng của thương bệnh binh, của bệnh xá; tiếp đến là những cơn giông và những trận mưa nguồn ào ào như thác đổ của mùa đông ở chiến khu, kẻ thù lại hùa theo thiên nhiên đem quân rải khắp núi rừng, cài mìn trên các nẻo đường đi lại của lực lượng ta; cho biệt kích lùng sục và tập kích vào một số cơ quan, đơn vị ta ở vùng Bắc Khánh.
Trước tình thế đó, bệnh xá lại phải di chuyển đi nơi khác; lên dốc “Ông Chính” đến núi Ba-non rồi vòng ra Dốc Chanh dưới những cơn mưa đông, giữa những dòng suối lũ, vừa khiêng cáng thương bệnh binh, vừa gùi cõng phương tiện bệnh xá, vừa bám địch lại vừa tránh lách xa chúng để bảo toàn đơn vị. Một hôm vào tháng 10 năm 1969, trời còn tối, núi rừng đang yên lặng bỗng gà rừng la ó, chim chóc tung cánh loạn xạ tiếp theo súng và lựu đạn nổ lung tung vào hang gộp, lán trại của bệnh xá, nguy rồi…bệnh xá đã bị địch đánh úp bất ngờ! Thương bệnh binh, cán bộ công nhân viên bệnh xá mạnh ai nấy chạy, tổ bảo vệ còn lại vừa nổ súng vừa đánh trả, vừa cõng thương bệnh binh nặng chạy khỏi vòng vây của địch…Sau một ngày đêm chúng tôi mới tìm gặp nhau được, hai nhân viên bị thương, hai người trong tiểu đội bảo vệ còn lại cũng đã hy sinh, mẹ con chị y tá chạy lạc sau ba ngày mới tìm được lán trại, tài sản của bệnh xá bị đích phá hỏng hầu hết!
Năm 1969 đã qua, nỗi gian truân của bệnh xá tưởng chừng đã giảm, nhưng đâu phải vậy, cuộc chiến tranh chưa kết thúc thì gian truân nào lại không còn? Quả vậy, vào tháng 3 năm 1970 địch lại tiếp tục càng quét chiến khu Bắc Khánh, tiểu đội bảo vệ bệnh xá giờ chỉ còn một người!...
Như vậy, chỉ trong vòng mười lăm tháng mà “chín chiến sĩ” bảo vệ bệnh xá chỉ còn lại một người, đó là Hùng! Tám anh em: Ngò, Tư, Dư, Định, Ân, Hồng, Thế, Được đã lần lượt hy sinh để bảo vệ thương bệnh binh, bảo vệ bệnh xá Bắc Khánh!
…Đã hai mươi hai năm rồi (1975 - 1997), đất nước hòa bình độc lập thống nhất trọn vẹn; mọi người, mọi nhà đoàn tụ, hoan hỷ bắt tay vào xây dựng gia đình, xây dựng đất nước ấm no, hạnh phúc; kẻ thù đã không còn trên Tổ quốc ta, nhưng các anh thì đã mãi mãi không về!
Nhân ngày hai bảy tháng bảy, là người đồng chí, đồng nghiệp, đồng đội đã từng vào sinh ra tử, no đói có nhau trong những năm tháng không quên ấy xin tỏ lòng thành kính tưởng nhớ các anh. Xin các anh hãy yên lòng chúng tôi nguyện sẽ làm hết sức mình để mảnh đất này ngày thêm giàu đẹp, để ước mơ của các anh về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người sớm trở thành hiện thực và trong mỗi bước đi của quê nhà chúng tôi cũng như những thế hệ kế tiếp luôn nhớ về các anh, những người con thân yêu của dân tộc đã ngã xuống vì sự bình yên của mảnh đất này.