NHỚ MÃI BA NỮ CHIẾN SĨ PHÂN ĐỘI HỒNG GẤM
NGUYỄN THỊ TUYẾT (Viết theo tư liệu của Nguyễn Hồng Phước)
Thời gian trôi qua, những mất mát đau thương trong cuộc chiến đấu giữ nước anh hùng của dân tộc như những vết thương lành dần theo năm tháng. Về với Ninh Phụng hôm nay, nhìn những đổi thay của vùng quê trù phú đang trên đà phát triển, người ta khó có thể hình dung được trên mảnh đất này đã thấm máu biết bao người con thân yêu của đất nước và cũng chính nơi đây đã chứng kiến chiến công của 3 cô gái, ba chiến sĩ của phân đội Hồng Gấm trong một trận đánh mà được nhân dân nơi đây lưu truyền như một huyền thoại.
Đó là vào tháng 3 năm 1972, khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết định. Để phối hợp với chiến trường chung tỉnh Khánh Hòa chủ trương mở chiến dịch xuân hè (HT4), trọng điểm đợt đầu là vùng Tây huyện Ninh Hòa.
Là một xã thuộc vùng Tây huyện, Ninh phụng nằm sâu trong lòng địch cách chi khu Ninh Hòa 2km về phía Tây, là vành đai an toàn của huyện lỵ đồng thời là hành lang bảo vệ quốc lộ 26 (21 cũ) nối liền đồng bằng ven biển miền Trung với các tỉnh Tây Nguyên. Do vị trí quan trọng như vậy nên địch bố trí ở đây một lực lượng quân ngụy mạnh, bên cạnh một hệ thống ngụy quyền được xây dựng chặt chẽ bao gồm những tên chống cộng sừng sỏ từ xã đến thôn xóm, lực lượng “Nhân dân tự vệ” được xây dựng và trang bị mạnh ngày đêm phối hợp canh phòng cẩn mật, kiểm soát gắt gao. Mọi sinh hoạt, hoạt động của người dân được quan sát chặt chẽ bởi những tên cảnh sát mật, gián điệp, chỉ điểm.
Thế nhưng, chúng không thể ngờ rằng bên trong sự canh phòng nghiêm ngặt, kiểm soát gắt gao đó có những hạt giống Cách mạng vẫn lặng lẽ nảy mầm và ngày càng xanh tốt. Nhiều cơ sở Cách mạng được gầy dựng từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trải qua bao biến cố của thời cuộc vẫn được duy trì và phát triển. Đến năm 1971 một chi bộ Đảng hợp pháp ra đời, một chi đoàn thanh niên nhân dân Cách mạng được thành lập. Nhiều cơ sở trung kiên đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ Cách mạng ngay trong nhà mình, trong hàng ngũ “Nhân dân tự vệ”, lính nghĩa quân của địch đều có cơ sở của ta.
Mở màn chiến dịch, để phối hợp với chiến trường, đưa phong trào Cách mạng lên cao, Ninh Phụng nhận được lệnh của Ban chỉ huy chiến dịch là tổ chức đánh địch nhằm tiêu diệt và uy hiếp tinh thần quân địch, làm cho chúng hoang mang, lo sợ và cảm thấy không an toàn ngay trong “hang ổ” của chúng.
Do Ninh Phụng nằm sâu trong lòng địch, bên cạnh là chi khu Ninh Hòa sẵn sàng tiếp ứng nên tính chất trận đánh sẽ rất mạo hiểm và quyết liệt, đòi hỏi phải có sự tính toán chính xác, chuẩn bị chu đáo để đảm bảo thắng lợi, hạn chế thương vong, đặc biệt là bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cơ sở bên trong.
Một phương án tác chiến táo bạo, bất ngờ nhất được thông qua. Ta sẽ đánh địch giữa ban ngày, thời điểm mà địch không ngờ nhất. Mục tiêu là trụ sở xã Ninh Phụng, nơi mà hàng ngày bọn tề ngụy tập trung để bàn bạc triển khai thực hiện âm mưu đánh phá phong trào Cách mạng trong xã, là nơi địch bố trí canh phòng cẩn mật nhất, nơi chúng cho là an toàn nhất vì vậy sẽ là mục tiêu bất ngờ nhất.
Kế hoạch chiến đấu là dùng một tổ bộ đội gồm 3 chiến sĩ cải trang làm dân thường có việc đến gặp bọn ngụy quyền xã rồi bất ngờ tung bộc phá tiêu diệt bọn tề ngụy trong xã rồi rút. Trên đường rút quân bố trí sẵn 2 tổ bộ đội: một tổ ở gần chùa Cao Đài (Đại Cát), một tổ cách cầu Bầu Lát 300m về hướng tây sẽ đón và nổ súng yểm trợ.
Mọi công tác chuẩn bị cho trận đánh đã hoàn tất, giờ nổ súng được ấn định.
Đêm trước trận đánh, với tư cách là Bí thư Chi đoàn và là người trực tiếp hướng dẫn các chiến sĩ chiến trường, tôi được dự buổi lễ xuất quân tại nhà đồng chí Nguyễn Sức, lúc bấy giờ là Bí thư chi bộ “hợp pháp”. Tuy đã biết trước chiến sĩ nào được chọn cho trận đánh ngày mai, nhưng đến buổi lễ, nhìn 3 chiến sĩ chuẩn bị vào trận với tinh thần quyết tử lòng tôi không nén nỗi bồi hồi. Trước mắt tôi không phải là những chiến sĩ “mình đồng da sắt” như những vị anh hùng trong tâm trí tôi qua những dòng văn học xưa và nay, cũng không phải là các “đấng mày râu” để “làm trai cho đáng nên trai”. Họ là 3 cô gái. Vâng! Ba cô gái hiền lành, xinh xắn như 3 bông hoa vừa chớm nở.
Nhìn những nụ cười e ấp, nghe những lời hứa quyết tâm, nhận những cái bắt tay rụt rè, ấm áp... của các chị tim tôi như thắt lại. Tôi được biết tổ trưởng là chị Lương Thị Lứa - phân đội phó của phân đội Hồng Gấm - Người con gái 21 tuổi đời của quê hương Ninh Phú. Mảnh đất của những sự tích anh hùng trong chống Pháp trước đây và chống Mỹ sau này, mảnh đất của loài hoa dâm bụt giản dị, đơn sơ mà thấm, đẫm tình quê.
Hai tổ viên cũng là chiến sĩ của phân đội Hồng Gấm, Trần Thị Huyền ra đi đánh giặc từ vùng quê Ninh An lắm gian khổ, đau thương nhưng cũng rất anh dũng, kiên cường, mang theo trong người truyền thống đánh giặc giữ nước của quê hương cùng với niềm tin và ước mơ cháy bỏng của người con gái 18 tuổi đời về một tương lai tươi sáng, hạnh phúc và Nguyễn Thị Nga sinh ra và lớn lên trên quê hương Ninh Thọ - Hai mươi tuổi đời chị từng chứng kiến bao tội ác mà kẻ thù đã gieo rắc trên quê hương. Chị cũng đã cùng những người mẹ, người chị quê mình tay không dám chặn đường tiến quân của giặc. Ba cô gái, ba vùng quê giờ đây là ba chiến sĩ quyết tử cho trận thắng ngày mai.
Theo kế hoạch đã định, 14 giờ 30 ngày 15 tháng 3 năm 1972 ba cơ sở “hợp pháp” là: Nguyễn Hồng Phước, Trương Hổ, Lê Văn Lân dùng xe máy theo 3 hướng khác nhau đưa 3 chiến sĩ đến điểm tập kết cách trụ sở xã Ninh Phụng chừng hơn 100m (quán Bảy Búa), ba chiến sĩ dưới dáng dấp 3 cô gái quê súng giấu trong người, chất nổ đựng trong giỏ xách được ngụy trang bên trên bằng những bó rau xanh, bình tĩnh, thong thả qua mặt bọn lính gác tiến vào trong trụ sở. Một người dừng lại ở cổng tươi cười phân trần gì đó với tên lính gác, người thứ 2 dừng lại ở thùng thư như đang chăm chú lục tìm lá thư của riêng mình, người thứ 3 tiến thẳng vào trong trụ sở, một tiếng nổ long trời vang lên ngay trong trụ sở xã, ba người cùng chạy ra cổng, một người bị tên lính gác chặn lại, chị rút súng ra, một tiếng nổ đanh vang lên, chị chạy tiếp lên hướng rút quân đã định trước.
Địch báo động khẩn cấp, trung đội nghĩa quân bảo vệ trụ sở xã lập tức được tập trung. Sau khi “hoàn hồn” biết “Việt cộng” chỉ là 3 cô gái chúng liền bố trí truy đuổi và tên cầm đầu vội vàng hạ lệnh “phải bắt sống”.
Một tình huống bất lợi xảy ra: Hai tổ bộ đội được bố trí đón và yểm trợ cho 3 chiến sĩ bị lộ nên rút quân mà không kịp báo trước. Kế hoạch phối hợp bảo vệ trận đánh không thành. Vì vậy, ba cô phải tìm đường rút lui vừa đánh trả quyết liệt. Ra đến khoảng đồng trống sau thôn Đại Cát gần cầu Bầu Lát một người bị trúng đạn ngã xuống, hai người kia dừng lại, bọn địch nhanh chóng bao vây gọi hàng. Bọn chúng ra sức hò hét nhưng không một tên nào dám xông lên trước bởi những phát điểm xạ chính xác của các chị.
Trận chiến đấu giữa một bên là ba cô gái với một bên là hàng chục tên lính ngụy hùng hổ dằng dai gần một giờ đồng hồ. Bọn địch biết không thể khuất phục được càng không thể bắt sống được các chiến sĩ chúng quyết định dùng M79 “câu” đạn vào chỗ các chị.
Không gian như bị xé từng mảnh bởi những tiếng nổ dữ dội vang lên cùng một lúc. Một vùng trời đất mịt mờ khói đạn và 3 cô gái như 3 bông hoa đồng nội mãi mãi nằm lại nơi này.
Đêm hôm đó, tất cả các gia đình cơ sở Cách mạng ở Ninh Phụng nói riêng và vùng Tây nói chung đều cảm thấy như sự mất mát ấy là của chính mình, như chính đứa con, người chị, người em gái thân yêu nhất của mình vừa mới ngã xuống chiều nay. Đồng đội của các chị cũng như những người từng gặp gỡ, công tác với các chị vô cùng đau xót. Niềm đau xót, tiếc thương pha lẫn với lòng kính trọng và sự thán phục trước sự hy sinh vô cùng oanh liệt của các chị. Các chị đã làm cho quân thù khiếp sợ và kinh ngạc bởi vì, chúng không thể ngờ rằng “Việt cộng” lại “dám” vào tận sào huyệt chúng để tiêu diệt chúng, càng khiếp sợ và kinh ngạc hơn trước lòng dũng cảm tuyệt vời và ý chí chiến đấu kiên cường của 3 chiến sĩ gái.
Các chị đã ra đi mãi mãi ở các tuổi mười tám đôi mươi, cái tuổi đẹp nhất ở đời người con gái, nhưng những gì các chị đã làm và để lại cho mảnh đất này sẽ sống mãi bởi vì nó thật lớn lao, thật đáng trân trọng và tự hào.
Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, đất nước giờ đây đã sạch bóng quân thù xâm lược, chúng tôi, những đồng đội của các chị cùng với các thế hệ tiếp theo lớn lên trên mảnh đất này hiểu rất rõ ràng trong màu đỏ của lá cờ Tổ quốc hôm nay, trên nét môi hồng tươi của đàn trẻ thơ đang tung tăng đến lớp cũng như nhiều màu sắc tươi thắm khác của quê hương đều thắm màu máu của những chiến sĩ năm nào. Và hình ảnh cùng chiến công của các chị mãi mãi là niềm tự hào, là tấm gương sáng, là nguồn động viên to lớn của chúng tôi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu của chúng ta hôm nay và mai sau.