Lễ hội cầu ngư bắt nguồn từ tục thờ cúng Cá voi của cư dân vùng biển, là lễ hội lớn nhất của cư dân vùng biển.
Lễ hội cầu ngư gồm có 2 phần:
Phần lễ: lễ rước sắc, lễ nghinh thủy triều, lễ tế sanh, tế chánh.
Phần hội: Gồm hát thứ lễ, tôn vương và các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao.
Phần lễ:
Lễ rước sắc: Được xem như nghi thức mở đầu của lễ hội cầu ngư. Lễ rước sắc được tổ chức quy mô, long trọng; nhất là các làng như: Bình Tây ( Phường Ninh Hải), Bá Hà ( Phường Ninh Thủy).
Lễ rước sắc được bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng . Đi đầu là cờ tiết và cờ mao biểu hiện công đức của Ông Nam Hải; tiếp đến là cờ ngũ hành và cờ bát quái; sau cùng là đoàn Bá trạo học trò lễ và các hào lão cùng đoàn người đi dự.
Lễ nghinh thủy triều: Nếu như lễ rước sắc là một nghi thức lễ được sử dụng chung cho nhiều lễ hội lớn của các làng có những sắc phong của vua từ Bắc vào Nam nhằm tôn vinh các bậc nhân thần, thiên thần và chỉ khác nhau ở quy mô cuộc rước, thì “ lễ nghinh thủy triều” trong lễ cầu ngư lại là một nghi thức đặc thù chỉ có trong lễ hội miền biển các tỉnh phía Nam nói chung. Đặc biệt là trong lễ hội cầu ngư nhằm để rước hồn Ông Nam Hải từ biển khơi về lăng trước khi vào tế chánh. Tùy từng vùng mà lễ nghinh thủy triều có cấu trúc và trình tự khác nhau.
Gọi là “lễ nghinh thủy triều” bởi vì lễ được bắt đầu khi nước triều lên. Lễ hội cầu ngư ở các làng không trùng nhau về thời gian nên giờ tiến hành lễ nghinh thủy triều ở mỗi làng cũng khác nhau. Lễ được kéo dài khoảng hai tiếng rưỡi đồng hồ.
Lễ nghinh thủy triều được bắt đầu lúc 15 giờ. Đi đầu là đội múa bóng với tám cô gái trong điệu “ múa dâng bông”; theo sau là tám thanh niên trong điệu “múa siêu”. Sau đoàn “múa siêu” là ban tế lễ gồm : Chủ tế, bồi tế, tiếp theo là linh vị Ông Nam Hải và cuối cùng 10 lễ sinh mặc áo xanh, mũ vải đỏ, quần trắng.
Lễ tế sanh: bắt đầu vào 10 giờ đêm ngày đầu của lễ hội; vật phẩm hiến lễ tế sanh trong lễ hội cầu ngư ngoài hương đăng, trà quả còn phải có đủ 3 con heo và những con heo đó phải là loại heo toàn sắc, toàn sinh ( tức là loại heo chỉ có 1 màu và tế nguyên con). Trước khi hiến tế heo phải làm “lễ tĩnh sanh”; người ta cho heo tắm thật sạch sẽ, sau đó mời vị chủ tế ra chủ trì và tiến hành các bước tiếp theo của lễ tế sanh.
Tế chánh: Bao giờ cũng là giờ phút thiêng liêng, quan trọng nhất. Là thời khắc giao cảm giữa thần linh và người thường; giữa thế giới siêu nhiên và con người trần thế mà cầu nối của sự giao cảm ấy chính là ban tế lễ và các nghi thức tế lễ. Vì vậy, trong lễ tế chánh không được có bất cứ sự sai sót nào dù là nhỏ nhất. Người ta tin rằng cuộc tế chánh càng trang nghiêm, long trọng bao nhiêu thì sẽ có bấy nhiêu sự độ trì của các đấng siêu nhiên.
Trong lễ hội cầu ngư ở Khánh Hòa nói chung và ở Ninh Hòa nói riêng thì lế tế chánh được tiến hành sau khi đã bái tế tiền hiền và Bà Thiên Y Thánh Mẫu. Lễ tế chánh được cử hành vào cuối giờ Tý ngày thứ hai của lễ hội; ngư dân tin rằng đó là giờ linh, là thời khắc tốt nhất để bày tỏ tấm lòng của mình đối với Ông Nam Hải.
Phần hội:
Thứ lễ: là phần tiếp theo của lễ tế chánh được tiến hành bằng hình thức hát bội. Mở đầu thứ lễ là đại bái không được quá 10 phút; để thực hiện nghi thức này đoàn hát cử một người đại diện để dâng hương lên Ông Nam Hải và đọc lời chúc cho vạn lạch được an khang, thịnh vượng. Hát thứ lễ là hát cúng thần, hát dâng lễ thần linh.
Sau thứ lễ là tôn vương mọi người dân vào lăng thắp hương cho Ông Nam Hải. Sau cùng là các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa, thể dục thể thao, những trò chơi dân gian được diễn ra trong không khí vui vẻ là sự kết nối thiêng liêng của tình làng nghĩa xóm.