1. Ninh Hòa dưới ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân Pháp:
Sau khi đặt được ách thống trị lên đất nước ta, ở Ninh Hòa lúc bấy giờ là huyện Tân Định, thực dân Pháp tiến hành xây dựng bộ máy thống trị từ huyện đến làng. Đứng đầu huyện là tri huyện, từng tổng có chánh, phó tổng, ở mỗi làng có bộ máy lý, hương gồm lý trưởng, phó Lý trưởng và ngũ hương (Hương Bộ, Hương Bản, Hương Kiểm, Hương Mục, Hương Dịch), ách thống trị của thực dân phong kiến đè nặng lên đời sống kinh tế - xã hội, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân ta.
Để vơ vét tài chính, thực dân Pháp đặt một loạt các loại thuế như: thuế thân, thuế điền thổ, thuế nhà, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện, thuế chợ, thuế đò, thuế cư trú…thuế thân đánh vào tráng đinh từ 18 đến 60 tuổi là loại thuế dã man nhất. Ngoài ra người dân còn phải chịu nhiều hình thức bóc lột khác như bắt đi phu, tạp dịch, công ích, tô tức cùng nhiều loại cung phụng nặng nề khác, không chỉ cho bọn quan lại và binh lính Pháp mà còn phải phục dịch cho bọn phong kiến, cường hào làm tay sai cho bọn thực dân xâm lược.
Các nguồn lợi về kinh tế của huyện dần dần bị bọn thống trị, bọn cường hào, địa chủ cả người Pháp, người Hoa và bọn tay sai người Việt chiếm đoạt hầu hết. Tên Công sứ Pháp Bơ-rê-đa chiếm đoạt cả một vùng đất rộng hàng trăm hét-ta ở Đá Bàn để khai thác gỗ (người dân lúc đó gọi sở thằng Lô), dựa vào chính sách độc quyền về muối, rượu, thuốc lá, thuốc phiện… tên chủ hãng MIC chiếm hầu hết vùng đất chuyên trồng cây thuốc lá, tên Lơ-co thì thâu tóm toàn bộ diện tích ruộng muối… Nhiều người Hoa dựa thế bọn thống trị chiếm hữu mỗi người hàng trăm hét-ta đất, nhiều người trở thành chủ hãng, chủ hiệu… giữ độc quyền nghề chế biến, buôn bán. Bọn Tổng, Lý cường hào tay sai chia nhau chiếm hầu hết diện tích đất đai canh tác, chia nhau độc quyền khai thác lâm đặc sản trên rừng cho đến tôm cá dưới biển.
Nhân dân lao động là những người đã từng đổ mồ hôi và cả xương máu để mở mang, khai phá đất đai làm ra của cải bỗng chốc trở thành tay trắng, thành lớp người làm thuê trên chính mảnh đất của mình, bên cạnh đó, sưu cao, thuế nặng đã biến họ thành lớp người cùng đinh trong xã hội, bị bóc lột, bị khinh rẻ đến cùng cực, như công nhân sở MIC, người lao động ở đồn điền Đá Bàn, sở muối Hòn Khói… phải lao động cực nhọc dưới sự quản lý hà khắc của bọn cai ký, đốc công với đồng lương chết đói. Người nông dân bị tước đoạt ruộng đất phải đi làm tá điền cho địa chủ với mức tô tức nặng nề để làm giàu cho bọn “chủ ruộng”, còn mình thì bị bóc lột, bị bần cùng hóa từ đời này sang đời khác.
Trong nỗi khổ nhục chung của nhân dân toàn huyện, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn cơ cực hơn nhiều, nạn đói triền miên, một năm phải ăn củ rừng, lá rừng từ 9 đến 10 tháng, quần áo không đủ che thân, ốm đau không thuốc chữa, thâm độc hơn, bọn chúng còn phân biệt đối xử, coi đây là lớp người “hạ đẳng, mọi rợ”, bị bóc lột hết sức tàn nhẫn.
Trong khi đó, toàn huyện chỉ có một trường tiểu học và một số trường làng, một nhà thương chật hẹp. Hơn 95% dân mù chữ. Các hủ tục mê tín, dị đoan được chúng khuyến khích để mê hoặc và đầu độc nhân dân ta.
2. Phong trào đấu tranh chống Pháp ở Ninh Hòa:
Vốn được thừa hưởng truyền thống yêu nước, thương nòi, không khuất phục trước bất cứ kẻ thù xâm lược nào của dân tộc, ngay từ những ngày đầu Pháp đem quân xâm lược nước ta, hưởng ứng phong trào Cần Vương do các ông TRẦN ĐƯỜNG, TRỊNH PHONG, NGUYỄN KHANH lãnh đạo, nhân dân Tân Định đã dấy lên phong trào chống Pháp sôi nổi, nhiều trai tráng tham gia nghĩa quân, ngày đêm luyện tập sẵn sàng chống giặc. Năm 1885 Pháp đem quân đánh chiếm Khánh Hòa, ở Tân Định, khi tàu Pháp vừa thấp thoáng ngoài khơi biển Hòn Khói, nghĩa quân đốt khói trên đỉnh núi Hòn Đò báo tin cho nghĩa quân của ông Trần Đường ở Dốc Thị (Vạn Ninh) biết (vùng này có tên Hòn Khói từ đó). Khi quân Pháp đổ bộ lên bị đạo quân do ông Trịnh Phong chỉ huy đã mai phục sẵn, chặn đánh quyết liệt. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch nên nghĩa quân chỉ ngăn chặn địch được một thời gian ngắn, sau đó lui ra rừng lập căn cứ ở Thùng Nà Bùi ( Đá Bàn), củng cố lực lượng tiếp tục đánh giặc, lực lượng nghĩa quân do ông Trần Đường chỉ huy chặn đánh quân Pháp nhiều nơi trong huyện, có những trận rất oanh liệt, còn lưu truyền trong nhân dân cho đến nay như: trận đánh rãi trái mù u ở đèo Bánh Ít (Hà Thanh), ở Dốc Thị… Khi quân Pháp tiến đánh căn cứ Thùng Nà Bùi bị nghĩa quân chặn đánh thiệt hại nặng tại bến Cây Gạo ( thôn Thạch Sơn, xã Ninh Trung ngày nay), chúng khủng bố và bắt dân ở đây lập miếu thờ những tên lính Pháp tử trận trên đỉnh Hòn Một (người dân vùng này thường gọi là núi ông Tây, di tích này đến nay vẫn còn).
Sau đó, quân Pháp tăng cường lực lượng vừa vây hãm vừa công kích, nghĩa quân cầm cự được một năm thì tan rã. Các ông Trần Đường, Trịnh Phong, Nguyễn Khanh không chịu đầu hàng, khẳng khái chịu chết đã nêu tấm gương sáng về ý chí kiên cường, bất khuất chống giặc đến cùng, nhân dân vô cùng thương tiếc và khâm phục, tôn vinh ba ông là “Khánh Hòa tam kiệt”.
Tháng giêng năm 1908, Trần Quí Cáp - nhà chí sĩ yêu nước - một trong những người đề xướng phong trào Duy Tân bị đổi vào dạy học ở Tân Định. Dưới con mắt của thực dân Pháp và chính phủ Nam Triều, Trần Quí Cáp là một nhà hoạt động chính trị nguy hiểm. Chúng âm mưu đưa ông đi xa là để ngăn cách ông với các đồng chí của ông, hạn chế những hoạt động của ông và sau đó tìm cách giết hại ông, vì vậy chúng bố trí theo dõi, giám sát ông một cách gắt gao. Tại Tân Định, thông qua mối quan hệ bạn bè, quan hệ công việc ông đã tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước trong những công chức, giáo chức tiến bộ. Tháng 4 năm 1908, ông nhận được thư nhà từ Quảng Nam gởi vào, kể lại cuộc biểu tình chống thuế. Ông vui mừng phê vào sau bức thư bảy chữ : “Ngô dân thử cử, khoái, khoái, khoái” (Dân ta đã vùng lên như thế đó, sướng, sướng, sướng lắm!). Bức thư này lọt vào tay mật thám Pháp, ông bị bắt giam và bị buộc tội cầm đầu, xúi giục dân chúng nổi dậy chống thuế. Ngày 15 - 6 - 1908 (Mậu Thân) ông bị xử chém tại gò sông Cạn (Diên Khánh). Trước khi hy sinh, ông hiên ngang nhìn thẳng vào kẻ thù, không chịu bịt mắt. Nhân dân Tân Định vô cùng thương tiếc ông. Cụ Phan Bội Châu có bài thơ điếu ông trong đó có câu:
“Nam vọng giang sơn tà chiếu ngoại
Thương tâm thất tự cánh thiên thu”
( Non nước trời Nam nhìn bóng xế
Đau lòng bảy chữ hóa nghìn thu)
Trần Quí Cáp, Trần Đường, Trịnh Phong, Nguyễn Khanh... đã bị giặc Pháp giết hại cùng với bao nhiêu người dân Tân Định khác, nhưng tinh thần, khí phách của các ông, của lực lượng nghĩa quân chống Pháp còn sống mãi trong lòng nhân dân Tân Định .
Từ năm 1908 về sau, mặc dù bọn thực dân Pháp cùng với bọn tay sai bán nước ra sức đàn áp, khủng bố dã man những người yêu nước, mặt khác chúng tăng cường vơ vét, áp bức, bóc lột làm cho cuộc sống “cá chậu, chim lồng” của người dân càng thêm cực khổ, tối tăm, nhưng nhân dân Tân Định vẫn liên tục tham gia các phong trào chống Pháp như: phong trào cắt tóc ngắn, xin thuế… nhiều người đã bị giặc Pháp sát hại, phong trào bị chúng đàn áp tàn bạo nhưng điều đó chỉ càng khắc sâu thêm lòng căm thù giặc, tăng thêm lòng yêu nước, khát vọng độc lập, tự do và hun đúc ý chí chiến đấu kiên cường với kẻ thù cho đến ngày khát vọng, ý chí đó được soi sáng bởi lý tưởng của Đảng.
3. Cuộc đấu tranh, vận động thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ở Ninh Hòa:
Trong khi cả dân tộc rên xiết dưới gót giày của bọn thực dân, phong kiến, các phong trào yêu nước bị dìm trong bể máu, thì có một người thanh niên ra đi tìm đường cứu nước, đó là thầy giáo Nguyễn Tất Thành, là nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc, là lãnh tụ Hồ Chí Minh, là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ở đó con đường cứu dân, cứu nước và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Năm 1925, Người lập ra tổ chức “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội” trong đó, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Từ đó, thanh niên, trí thức yêu nước Việt Nam được tiếp xúc với tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời vận dụng vào phong trào đấu tranh yêu nước của quần chúng.
Ở Tân Định, từ năm 1925 - 1926 có hoạt động của Đảng Tân Việt thông qua sự tuyên truyền, vận động của thầy giáo Ngô Đức Diễn, quê Nghệ An, bị đổi vào dạy học tại trường tiểu học Pháp - Việt (Tân Định). Ông có quan hệ mật thiết với thầy giáo Hà Huy Tập đang dạy học ở Nha Trang, là cán bộ lãnh đạo của Đảng Tân Việt, lúc này đã chuyển hướng sang tư tưởng cách mạng của “Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội”. Ông tuyên truyền, giác ngộ được nhiều thanh niên công chức, giáo viên và học sinh về công cuộc cứu nước theo tư tưởng Cộng sản, giúp họ tiếp xúc với sách báo tiến bộ, và những tài liệu nói về học thuyết Mác-Lênin, về chủ nghĩa Cộng sản. Thầy giáo Dương Chước quê ở Quảng Nam cũng bị đổi vào dạy học cùng trường với ông, được ông đưa vào tổ chức “Tân Việt Cách mạng Đảng”. Nhờ đó các cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của công nhân, nông dân cũng như các phong trào có tính toàn quốc như : đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh đều có sự hưởng ứng mạnh mẽ của thanh niên công chức, học sinh, giáo viên.
Năm 1926, thầy Ngô Đức Diễn bị tên công sứ Pháp tại Khánh Hòa tình nghi hoạt động chống Pháp, đổi trả ông về quê sau đó bị cách chức, đày đi Lao Bảo (Quảng Trị). Thầy Dương Chước cũng bị loại khỏi hàng ngũ giáo chức, và đi về làm công cho sở muối ở Hòn Khói. Tuy vậy, phong trào cách mạng như những hạt giống tốt được các ông ươm mầm cứ tiếp tục đâm chồi nảy lộc.
Đầu năm 1928, đồng chí Lê Dung, người Tân Định đầu tiên được kết nạp vào Đảng Tân Việt. Từ đó cơ sở của Đảng Tân Việt ở Tân Định phát triển rất nhanh. Hai nhóm “ Tân Việt cách mạng Đảng” ra đời đầu tiên là:
- Nhóm ở Mỹ Hiệp (thị trấn ngày nay) có: Lê Dung, Đỗ Long và Nguyễn Xướng.
- Nhóm ở Hòn Khói có: Dương Chước, Lê Bá và Trương Công Kỉnh, Trương Hành, Trương Hiệu.
Sau đó, hai nhóm này phát triển lan dần ra các vùng Suối Ré ( nay là xã Ninh Lộc), Xuân Hòa, Điềm Tịnh ( Ninh Phụng), Phước Đa ( Ninh Đa), Phước Thuận, Quan Đông (Ninh Đông).
Ngày 01 tháng 01 năm 1930 Đảng Tân Việt tự cải tổ thành “Đông Dương Cộng sản Liên đoàn”. Những đảng viên của Đảng Tân Việt ở Tân Định được chuyển thành đảng viên của Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn.
Ngày 03 tháng 02 năm 1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc) Bác Hồ với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, đã chủ trì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Đảng trong nước, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 24-2-1930, đồng chí Ngô Gia Tự, đại diện cho Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam ký quyết định công nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Tân Định chính thức thành lập từ ngày 24-2-1930.
Cùng với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Tân Định được thành lập, đánh dấu một bước ngoặc lịch sử quan trọng trong phong trào đấu tranh yêu nước, chống ngoại xâm của nhân dân Tân Định.
Từ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng, với tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Tân Định như được tiếp thêm sức mạnh mới, để vượt qua mọi gian khổ, hy sinh cùng với cả nước vững bước trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
4- Tình hình và chủ trương của cấp trên về cuộc biểu tình lịch sử ngày 16/7/ 1930:
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời , phong trào cách mạng chung trên cả nước có bước phát triển mới. Ở Tân Định, chấp hành chủ trương của Ban Chấp Hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam, về việc củng cố, phát triển cơ sở Đảng và vận động, xây dựng các hội quần chúng như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Hội phụ nữ giải phóng, Thanh niên Cộng sản đoàn, Hội cứu tế đỏ.v.v…
Sau một thời gian hoạt động, cơ sở đảng của Tân Định được củng cố và phát triển khá vững chắc, toàn huyện có 20 đảng viên, lập thành 4 chi bộ, chi bộ ra đời đầu tiên của Tân Định là chi bộ Mỹ Hiệp có 6 đảng viên, do đồng chí Võ Cạnh ( tức Võ Thế Hiển ) làm bí thư, chi bộ Hòn Khói có 6 đảng viên, do đồng chí Trương Công Kỉnh làm bí thư, chi bộ Suối Ré 4 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Long làm bí thư, chi bộ chợ Quán Tre ( gồm: Xuân Hòa, Điềm Tịnh, Nghi Phụng) có 4 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Thế làm bí thư. Đồng chí Lê Dung được Tỉnh ủy lâm thời phân công phụ trách đảng bộ Tân Định. Các hội quần chúng được tổ chức và phát triển trên 400 hội viên.
Tháng 3 năm 1930, Đảng bộ Tân Định tổ chức được cơ quan ấn loát, do đồng chí Lê Anh phụ trách. Từ đây, những tài liệu như Chủ nghĩa Cộng sản đại cương, các loại truyền đơn, biểu ngữ … được bí mật đến với cán bộ, nhân dân, góp phần nâng cao giác ngộ cách mạng, cổ vũ, động viên tinh thần đấu tranh của nhân dân ta.
Ngày 01 tháng 5 năm 1930, lần đầu tiên đảng bộ Tân Định tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế lao động bằng hình thức treo cờ Đảng, treo biểu ngữ, rải truyền đơn… khắp nơi trong huyện lỵ, nội dung truyền đơn đòi ngày làm việc 8 giờ, tăng tiền lương, giảm sưu thuế, phản đối chủ nghĩa Đế quốc, ủng hộ Liên bang Xô Viết… đã gây được ảnh hưởng lớn trong nhân dân, bọn thống trị bị bất ngờ, tỏ ra hốt hoảng, bối rối.
Cùng thời gian này, phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước phát triển sôi nổi, từ thành thị đến nông thôn liên tiếp nổ ra những cuộc đấu tranh có tính quần chúng, đông đảo, rộng khắp và mạnh mẽ, nhất là phong trào công, nông ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Cùng ngày 01 tháng 5, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh xuống đường đấu tranh rầm rộ, mạnh mẽ, địch điên cuồng đàn áp khốc liệt, cuộc đấu tranh ở đây có khả năng chuyển thành khởi nghĩa vũ trang. Trung ương Đảng kêu gọi cả nước, huy động quần chúng đấu tranh dưới mọi hình thức như biểu tình, bãi công… để phối hợp với phong trào chung và hổ trợ cho phong trào Nghệ - Tĩnh.
Thực hiện sự chỉ đạo của xứ ủy Nam Kỳ, (cấp trên trực tiếp của Đảng bộ Khánh Hòa lúc bấy giờ), Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa chỉ thị cho Đảng bộ Ninh Hòa - địa phương được đánh giá có phong trào cách mạng mạnh nhất trong tỉnh - huy động quần chúng, tổ chức cuộc biểu tình đấu tranh phối hợp theo chủ trương của Trung ương Đảng, vào ngày 14 tháng 7 năm 1930 (là ngày Quốc khánh nước Pháp để cuộc biểu tình có thêm điều kiện thuận lợi và có ý nghĩa sâu sắc).
5. Quyết tâm và kế hoạch thực hiện của huyện:
Chiều ngày 12 - 7- 1930, huyện nhận được chỉ thị của Tỉnh ủy, đêm 13-7, đồng chí Lê Dung, Tỉnh ủy viên, bí thư Đảng bộ triệu tập hội nghị Đảng bộ bất thường để bàn kế hoạch thực hiện. Thành phần hội nghị gồm các bí thư chi bộ, (Võ Cạnh, Trương Công Kỉnh, Nguyễn Long, Nguyễn Thế) và các đảng viên phụ trách khu vực. Đồng chí Đỗ Long, Tỉnh ủy viên, thay mặt Tỉnh ủy lâm thời về dự truyền đạt chủ trương và cùng với đồng chí Lê Dung phối hợp chỉ đạo. Địa điểm họp tại nhà đồng chí Lê Dung (193 Trần Quí Cáp thị trấn Ninh Hòa hiện nay). Dưới hình thức một cuộc họp mặt hợp pháp, hội nghị làm việc đến 3 giờ sáng, thống nhất nhận định: biểu tình là hình thức đấu tranh bằng bạo lực chính trị của quần chúng, mang tính chiến đấu cao, đối đầu trực tiếp, quyết liệt với kẻ thù, là bất hợp pháp đối với chế độ thống trị và là hình thức đấu tranh rất mới đối với phong trào quần chúng; nhưng đây là yêu cầu bức xúc của phong trào chung, là chỉ thị của Đảng, đồng thời cũng là đòi hỏi bức thiết của quần chúng, nhân dân đang rên xiết dưới sự thống trị vô cùng tàn bạo của bọn quan lại Pháp và tay sai phong kiến. Hội nghị hạ quyết tâm chấp hành chủ trương của cấp trên và thực hiện nghiêm túc.
Để đảm bảo thắng lợi, Hội nghị chủ trương huy động tất cả hội viên trong các hội quần chúng trên địa bàn toàn huyện tham gia, qua đó lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân trong huyện hưởng ứng. Cuộc biểu tình sẽ được tổ chức vào ngày 16-7 (lui lại 2 ngày vì nhận chỉ thị chậm). Theo kế hoạch, lực lượng quần chúng các khu vực bí mật tập trung về một địa điểm thống nhất là chân núi Ổ Gà, (tức Lỗ Sẫm Mây, thuộc làng Văn Định Thượng, nay thuộc xã Ninh Đông) từ đó hợp thành lực lượng có tổ chức kéo vào Phủ Đường Tân Định. Hội nghị phân công đồng chí Dương Chước dẫn đầu và chỉ huy cuộc biểu tình đồng thời cũng là người chuẩn bị và đưa bản yêu sách, đồng chí Nguyễn Thế phụ trách tự vệ và dự bị chỉ huy, đề phòng đồng chí Dương Chước bị bắt, hoặc hy sinh, từng khu vực chuẩn bị khẩu hiệu, cờ, trống… Hội nghị còn bàn lực lượng dẫn đầu, biện pháp xử lý các tình huống bị đàn áp, khủng bố…
* Các khẩu hiệu được chuẩn bị là:
- Đả đảo Đế quốc Pháp và Nam triều phong kiến!
- Ủng hộ phong trào công nông Nghệ-Tĩnh!
- Đả đảo khủng bố.
- Ủng hộ Liên bang Xô -Viết
- Giảm sưu thuế, bỏ thuế chợ, tăng giá lúa.
Nội dung các khẩu hiệu đề ra phù hợp đòi hỏi bức xúc của nhân dân đang bị áp bức, bóc lột thậm tệ nên được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, hưởng ứng mạnh mẽ.
6. Diễn biến của cuộc biểu tình:
Ngày 14-7, các chi bộ tiến hành vận động quần chúng, chủ trương của đảng xuống đến đâu được cơ sở nồng cốt và quần chúng ủng hộ mạnh mẽ đến đó, tất cả đều sẵn sàng hành động.
Khoảng 4 giờ, sáng ngày 16-7, trên 500 quần chúng ở các khu vực: Hòn Khói, Suối Ré, Xuân Hòa, Mỹ Hiệp, Phước Đa, Phước Thuận… được cơ sở nồng cốt hướng dẫn đã bí mật tập trung an toàn tại dịa điểm đã định. (Đông nhất là vùng Hòn Khói khoảng 200 người). Đến 5 giờ, đoàn biểu tình tiến vào vị trí chuẩn bị xuất phát (khu công viên Tượng đài 16/ 7 hiện nay) đoàn biểu tình ổn định tổ chức, xếp thành 5 hàng dọc, trương băng, cờ, khẩu hiệu tiến vào huyện đường.
Đồng chí Dương Chước, cầm còi chỉ huy và 5 phụ nữ đi đầu, bà Nguyễn Thị Thích, Bà Mai Thị Tý, bà Huỳnh Thị Sương (Suối Ré), bà Nguyễn Thị Chuộc, bà Nguyễn Thị Miến (Hòn Khói) thay nhau cầm cờ, khẩu hiệu và đánh trống lệnh dẫn đầu, tiếp theo là công nhân làm muối, ngư dân đánh cá, nông dân lao động, thợ thủ công, những người buôn bán nhỏ, dân nghèo…và lực lượng tự vệ đi kèm, làm nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn trật tự.
Trên 500 người, hàng ngũ chỉnh tề, trải dài hàng trăm mét, trang phục gọn gàng, hiên ngang, hùng dũng, tiến vào huyện đường, còi thổi, trống lệnh giục liên hồi, vừa đi, vừa hô khẩu hiệu vang dội. Dân chúng đổ ra đường rất đông. Nghe đoàn biểu tình đi đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế nhiều tiểu thương và quần chúng lao động kéo theo, đoàn biểu tình mỗi lúc một đông (lên đến cả ngàn người), khí thế mỗi lúc một dâng cao. Đoàn biểu tình đi ngang qua đồn lính khố xanh ( khu vực chợ mới hiện nay) tên chỉ huy, hốt hoảng, ra lệnh đóng cửa đồn, án binh chờ lệnh. Đoàn biểu tình rầm rập tiến vào huyện đường, viên tri huyện Đinh Bá Cẩn và bọn nha lại kinh hoàng không dám có hành động chống đối. Đồng chí Dương Chước cùng với 2 tự vệ bước vào đối diện với tên tri huyện, nói rõ đường lối chính sách của Đảng, yêu cầu của cuộc đấu tranh và đưa bản yêu sách. Trước khí thế hừng hực của quần chúng, viên tri huyện im lặng, cúi đầu nhận và ký vào bản yêu sách.
Tinh thần ngày 16-7 trở thành tài sản vô giá trong truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân Khánh Hòa.
Thừa thắng đoàn biểu tình phá cửa nhà giam, thả tù chính trị rồi tỏa ra các ngã đường biểu dương lực lượng, sau đó tập trung về chợ huyện (chợ cũ Ninh Hòa hiện nay) tổ chức metting, dân phố và đồng bào đang mua bán trong chợ tập trung rất đông, Đồng chí Dương Chước đứng lên bục cao nói chuyện với đồng bào. Đồng chí giải thích vắn tắc đường lối cách mạng của Đảng, kể tội ác của bọn thực dân, phong kiến, kêu gọi đồng bào đoàn kết đấu tranh đòi quyền lợi đã bị chúng cướp đoạt. Khi dứt lời, tiếng trống lệnh phát ra, đoàn biểu tình hô vang khẩu hiệu, rồi hòa vào dòng người trong chợ, phân tán an toàn. Theo kế hoạch đã định, đồng chí Dương Chước cải trang bí mật lánh đi Đà Lạt trên một chiếc xe con chờ sẵn.
Về sự kiện trọng đại ngày 16-7, báo cáo hàng năm (6-1930-5-1931) của công sứ Pháp tại Nha Trang thú nhận: “Ngày 16-7-1930, từ 6 đến 7 giờ sáng, một đoàn từ 700 đến 1000 người bắt giữ tại huyện đường viên tri huyện Tân Định (Ninh Hòa). Họ thả người bị bắt duy nhất ấy, sau khi bắt buộc ký vào bản bãi bỏ các sắc thuế. Cuộc biểu tình gồm một số lớn người Bá Hà. Đi đầu cuộc biểu tình là trống, và cờ đỏ búa liềm. Một số tương đối lớn phụ nữ đi đầu cuộc biểu tình”.
7. Sự đàn áp, khủng bố dã man của địch:
Bọn Pháp hoàn toàn bị bất ngờ. Đến 2 giờ chiều hôm ấy, bọn cai trị Pháp ở Nha Trang mới đưa 2 xe ô tô chở đầy lính ra Tân Định, phối hợp với bọn quan lại ở huyện mở cuộc khủng bố dữ dội, chúng cho lính tràn vào chợ, vào phố bắt bớ, đánh đập, tra hỏi những người dự metting, biểu tình để săn tìm đảng viên cộng sản và quần chúng trong các tổ chức cách mạng. Chúng còn treo giải thưởng cho ai bắt hoặc chỉ cho chúng bắt được Dương Chước. Hầu hết cơ sở nồng cốt cách mạng và phần lớn đảng viên bị chúng bắt đưa vào nhà lao Nha Trang. Trước tình hình đó, xứ ủy Nam Kỳ chủ trương tiếp tục vận động quần chúng đấu tranh chống khủng bố bằng các hình thức: biểu tình, treo cờ, rãi truyền đơn…
Mặc dù bị địch đàn áp, khủng bố, lùng bắt ráo riết nhưng những đảng viên còn lại vẫn không nao núng, tiếp tục củng cố Đảng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh theo chủ trương của Tỉnh ủy lâm thời.
Thực hiện chủ trương chống khủng bố, đồng thời kỷ niệm Ngày quốc tế chống chiến tranh đế quốc 1-8, cờ đỏ búa liềm và truyền đơn tiếp tục xuất hiện ở nhiều nơi trong huyện lỵ, với nội dung đả đảo đế quốc Pháp và Nam Triều phong kiến, chống chiến tranh, chống khủng bố… Tháng 11/ 1930, Tỉnh ủy lâm thời chủ trương mở cuộc vận động kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, chỉ thị cho Tân Định tổ chức tiếp cuộc biểu tình lần thứ hai. Đồng chí Lê Anh triệu tập hội nghị, thành phần gồm những đảng viên còn lại sau đợt khủng bố của địch tại nhà ông Nguyễn Tương để soát xét lực lượng và bàn kế hoạch thực hiện. Cuộc họp đã bị mật thám Pháp theo dõi, phát hiện và 2 ngày sau, toàn bộ đảng viên còn lại bị bắt cùng với bản danh sách hội viên Công hội đỏ của Tân Định.
Trong cuộc đàn áp, khủng bố dã man của địch, nhiều đảng viên, quần chúng cốt cán của ta bị địch bắt tù đày, bị đánh đập, tra tấn hết sức tàn bạo nhưng tất cả đều giữ vững lòng trung thành và niềm tin sắt đá vào Đảng, thà chết không khai báo, không tiết lộ bí mật của Đảng. Nhiều đồng chí trước khi hy sinh đã hiên ngang vạch mặt kẻ thù, nêu cao khí tiết người Cộng sản.
Trong nhà tù, mặc dù phải chịu một chế độ tù đày hết sức khắc nghiệt, những người Cộng sản vẫn tham gia vào tổ chức Đảng, tiếp tục hoạt động, đoàn kết đấu tranh chống các chế độ hà khắc của nhà tù, vừa tổ chức học tập nâng cao trình độ các mặt, nuôi ý chí, đợi thời cơ tiếp tục hoạt động cách mạng.
Báo cáo chính trị quí I năm 1931 của công sứ Pháp tại Nha Trang viết: “ Nhà tù Tỉnh Nha Trang… đã trở thành một trường học thường xuyên của chủ nghĩa Cộng sản”.
Lần lượt những đồng chí án nặng bị đưa đi đày: Đồng chí Dương Chước, Đỗ Long, Lê Anh …bị đày đi nhà tù Lao Bảo, đồng chí Lê Dung, Nguyễn Long, Nguyễn Thế… bị đày đi nhà tù Ban Mê Thuột.
Những tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng, kiên cường của các chiến sĩ Cộng sản đã để lại trong lòng quần chúng nhân dân sự kính trọng và niềm tin tuyệt đối vào Đảng, đồng thời có tác dụng cổ vũ, động viên phong trào lúc khó khăn.
8. Thắng lợi và nguyên nhân thắng lợi của cuộc biểu tình:
Thắng lợi:
- Cuộc biểu tình ngày 16- 7- 1930 là một đòn bất ngờ giáng xuống uy thế chính trị của bộ máy thống trị tàn bạo của bọn thực dân và tay sai phong kiến huyện Tân Định nói riêng và của tỉnh Khánh Hòa nói chung. Lần đầu tiên, bộ máy cai trị đầy quyền uy, được xây dựng nhiều chục năm bị khuất phục trước sức mạnh áp đảo của lực lượng quần chúng nhân dân.
- Cuộc biểu tình đã có tiếng vang và ảnh hưởng sâu rộng ra ngoài phạm vi của tỉnh Khánh Hòa. Thực đân Pháp buộc phải tăng giá lúa, bỏ thuế chợ, cách chức tên tri huyện Đinh Bá Cẩn, bãi miễn viên tri phủ Phạm Ngọc Đường, thay tên chỉ huy đồn khố xanh và điên cuồng, lồng lộn mở những đợt đàn áp, khủng bố tàn bạo, dã man vào lực lượng đảng viên, cơ sở nồng cốt và cả những người dân vô tội. Sự đàn áp, khủng bố, dã man, tàn bạo của kẻ thù, càng bộc lộ rõ bản chất phi nghĩa, dã tâm độc ác của chúng, nhân dân ta càng hiểu rõ bản chất kẻ thù, càng căm thù chúng sâu sắc hơn và càng mài sắc ý chí trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh để giải phóng dân tộc.
- Bọn địch hoang mang, dao động, lo sợ trước sức mạnh của phong trào cách mạng của quần chúng. Ngược lại, thắng lợi của cuộc biểu tình đã làm nức lòng nhân dân trong huyện, nó chứng minh sức mạnh to lớn của nhân dân, lao động khi được tổ chức lại và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, càng củng cố lòng tin của nhân dân vào vào Đảng, vào sức mạnh đoàn kết của chính họ.
Nguyên nhân thắng lợi:
- Thắng lợi của cuộc biểu tình, trước hết bắt nguồn từ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những mục tiêu cơ bản trong luận cương chính trị của đảng đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam về một đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng, ý chí lớn nhất của dân tộc là đấu tranh giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, chấm dứt ách nô lệ mà bọn thực dân, phong kiến đặt lên đất nước ta, nhân dân ta hơn nửa thế kỷ qua.
- Vai trò lãnh đạo tiên phong của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa và Đảng bộ huyện Tân Định, ý thức chấp hành chỉ thị Trung ương một cách nghiêm túc và sự sáng tạo, năng động trong tổ chức quần chúng đấu tranh cách mạng của Đảng bộ.
- Những khẩu hiệu đấu tranh đưa ra vừa hướng tới mục tiêu chung, lâu dài của cuộc cách mạng, vừa đề cập đến những vấn đề mang tính cụ thể, cấp bách trước mắt, vì vậy đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của quần chúng, đó là chống lại ách thống trị tàn bạo, khắc nghiệt của bọn thực dân, phong kiến, đòi cải thiện dân sinh, thực hiện dân chủ… nên thu hút được đông đảo nhân dân lao động tham gia .
- Phong trào cách mạng của huyện Tân Định trong năm 1930, nhìn chung chưa rộng, chưa đều nhưng cơ sở của Đảng đã bám rể đúng vào lực lượng quần chúng cách mạng, cơ bản và đông đảo nhất trong huyện lúc bấy giờ, đó là công nhân làm muối, nông dân lao động, tầng lớp dân nghèo, buôn bán nhỏ… , đây là lực lượng bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội, vì vậy, khi được đảng giác ngộ, tổ chức đấu tranh đã tỏ ra rất ngoan cường, dũng cảm trước kẻ thù.
- Nhân dân Tân Định vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, có ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống, ý chí đó được phát huy và nhân lên gấp bội, trở thành sức mạnh to lớn có khả năng chiến thắng kẻ thù.
9. Ý nghĩa lịch sử của cuộc biểu tình ngày 16 -7-1930:
- Cuộc biểu tình ngày 16- 7- 1930 là cuộc đấu tranh do Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa lãnh đạo và tổ chức thực hiện, có qui mô lớn đầu tiên của tỉnh ta và cũng là cuộc biểu tình đầu tiên ở các tỉnh Nam Trung bộ giành được thắng lợi sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, nối tiếp cuộc đấu tranh nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5 của công nhân Trường Thi, Bến Thủy (tỉnh Nghệ An), góp phần xứng đáng vào cao trào cách mạng cả nước trong những năm 1930 -1931.
- Thắng lợi của cuộc biểu tình, đánh dấu bước phát triển cao của phong trào cách mạng trong tỉnh, hòa vào trào lưu chung của phong trào cách mạng cả nước, mở ra thời kỳ mới cho phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của tỉnh Khánh Hòa nói chung và huyện Tân Định nói riêng, thời kỳ từ đấu tranh yêu nước trên tinh thần dân tộc chuyển sang thời kỳ đấu tranh yêu nước và cách mạng trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Tinh thần cách mạng của cuộc biểu tình ngày 16-7-1930, những tấm gương chiến đấu, hy sinh kiên cường, bất khuất của đảng viên cộng sản và quần chúng cách mạng đã in một dấu son chói ngời trong lịch sử truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng của đảng bộ và nhân dân Tân Định, là niềm tự hào, là sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn, giúp cho nhân dân Tân Định vượt qua mọi khó khăn, thử thách đi đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
10. Phát huy tinh thần cách mạng ngày 16-7-1930:
Tiếp bước truyền thống ngày 16/ 7/ 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Ninh Hòa tiếp tục cuộc chiến đấu chống Thực dân, phong kiến và ngày 17/ 8/ 1945, đã đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thành công trong cả huyện, góp phần cùng với cả nước làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 lịch sử.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2, đáp lại lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Ninh Hòa chỉ bằng vũ khí thô sơ: cung, tên, giáo mác, gậy gộc … vẫn anh dũng đứng lên, đương đầu mạnh mẽ và tự tin với đội quân xâm lược nhà nghề, đông đảo và thiện chiến của chúng. Cuộc chiến đấu trãi qua những chặng đường khó khăn phức tạp, đầy gian khổ, hy sinh. Quân và dân Ninh Hòa vẫn một lòng, một dạ theo Đảng, kiên cường, bền bỉ chiến đấu cho đến ngày cùng với cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu.
Đuổi được giặc Pháp, quân và dân Ninh Hòa cùng với dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Một lần nữa, lòng yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất và truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Ninh Hòa được phát huy. Vượt lên trên những gian khổ, hy sinh, những mất mát, đau thương, đoàn kết một lòng, chiến đấu ngoan cường dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân Ninh Hòa đã góp phần xứng đáng cùng với cả nước làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975.
Đất nước thống nhất, giang sơn đã sạch bóng quân xâm lược, Ninh Hòa cùng với cả nước bước vào giai đoạn cách mạng mới, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; củng cố tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng; từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Sau gần 30 năm xây dựng và phát triển, nhất là sau 17 năm thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân trong huyện luôn giữ vững sự đoàn kết, nhất trí, phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương trên cơ sở vận dụng sáng tạo các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa đã đạt được những thành tựu đáng kể:
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục ổn định và có bước phát triển, tổng sản lượng lương thực hàng năm đều tăng: năm 2001 đạt 80.447 tấn/80.000 tấn chỉ tiêu kế hoạch, năm 2003 đạt 84.7000 tấn đạt 105% kế hoạch. Diện tích mía đến nay đã phát triển được trên 7.050ha, sản lượng 244.640 tấn, rừng trồng tập trung 640ha. Nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện hiện có 2.950 ha, năm 2003 thu hoạch 2.800 tấn tôm thịt, xuất ra thị trường gần 800 triệu con tôm giống. Sản lượng đánh bắt thủy sản 6.300 tấn.
Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 783,7 tỷ đồng, các ngành sản xuất có mức tăng khá như đường kết tinh, mây, tre lá, xuất khẩu.
Xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện đã được đầu tư đúng hướng. Nhiều công trình đã đưa vào sử dụng như: Đường Sông Cạn, đường Nguyễn Trường Tộ, đường Trần Quí Cáp,Công viên tượng đài 16/7, trụ sở UBND các xã, thị trấn, trụ sở của Huyện ủy, UBND huyện, khối mặt trận đoàn thể. Nhà thiếu nhi huyện, nhà văn hóa huyện và hàng trăm công trình điện, giao thông, thủy lợi, trường học, trạm xá… phục vụ cho sản xuất và đời sống, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp và nông thôn toàn huyện.
Thu ngân sách hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu: Năm 2001, thu 57,3 tỷ đồng vượt 42% kế hoạch; năm 2002, thu 56,3 tỷ đồng vượt 26 % so với kế hoạch, năm 2003, thu 45,787 tỷ đồng tăng 37%.
Hệ thống giáo dục từng bước được quy hoạch, sắp sếp và có những chuyển biến đáng kể về qui mô, chất lượng và hiệu quả. 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Hiện đang tiến hành phổ cập THCS ở 27/27 xã, thị trấn, phấn đấu đến năm 2005 Ninh Hòa đạt chuẩn quốc gia về PCTHCS.
Mạng lưới y tế từ tuyến huyện đến cơ sở được tăng cường, 37% trạm y tế xã có bác sĩ, 100% có y tá và nữ hộ sinh. Các chương trình y tế cộng đồng được triển khai đạt hiệu quả, góp phần thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đạt hiệu quả tốt, giảm tỷ suất sinh hàng năm 0,5%, công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm đúng mức.
Công tác xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và các chính sách xã hội khác được triển khai và tổ chức thực hiện tốt. Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao có tác động tích cực đến đời sống nhân dân, động viên được các tầng lớp nhân dân hăng hái lao động sản xuất; An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng an ninh được tăng cường và củng cố.
Sự lãnh đạo của Đảng được đổi mới, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng được nâng lên rõ rệt. Hệ thống chính trị xã, thị trấn được xây dựng củng cố. Vai trò, trách nhiệm và hiệu quả trong quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp ngày càng được nâng lên. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị có nhiều chuyển biến tốt. Qui chế dân chủ ở cơ sở được triển khai tích cực, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy.
Tuy nhiên, bước vào giai đoạn mới của cách mạng, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa còn phải đối mặt với không ít khó khăn như: Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa cao; hiệu quả các chương trình kinh tế, xã hội ở các xã miền núi đạt thấp; Phát triển các thành phần kinh tế và huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của huyện; tốc độ xây dựng, chỉnh trang đô thị chưa đáp ứng nhu cầu phát triển; một số mục tiêu văn hóa - xã hội chưa được quan tâm đúng mức; hệ thống chính trị ở một số cơ sở chưa thật sự vững mạnh… để khắc phục những khó khăn nói trên đòi hỏi sự nỗ lực cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ trong việc phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng anh dũng của quê hương, với ý chí, bản lĩnh và tinh thần cách mạng tiến công, vươn lên, nắm bắt tri thức khoa học, công nghệ mới của thời đại, cùng với cả nước, cả tỉnh phấn đấu xây dựng Ninh Hòa giàu mạnh, văn minh.
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống đấu tranh cách mạng 16-7-1930 – 16-7-2005, với niềm tự hào vô hạn về một quê hương anh hùng, giàu truyền thống cách mạng và lòng biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ cha ông, đã chiến đấu không tiếc máu xương, để lại cho chúng ta hôm nay và con cháu mai sau di sản tinh thần vô giá trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa, nguyện đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu hoàn thành xuất sắc các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra trong Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thư XV.
Tinh thần 16-7 sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa nói chung và Ninh Hòa nói riêng.