“TIẾN VỀ LÀNG”
Dương Chồi kể
Huỳnh Liên ghi
Vào những năm 1949-1950 tình hình càng trở nên gay gắt. Giặc Pháp tiến hành bình định mở rộng đồn bót, tăng cường khủng bố, đàn áp nhân dân. Nhằm thực hiện âm mưu cắt đứt đường tiếp tế cho cách mạng, chúng bắt dân phải vào ngủ đồn, lúa gạo cũng tập trung, chỉ lĩnh về từng bữa ăn của mỗi gia đình.
Trước tình hình tuy có khó khăn, nhưng nhân dân hai xã Phước Đông và Phước Trung (nay là xã Ninh An và Ninh Thọ) không nao núng, bà con, nhất là những cơ sở cách mạng nòng cốt đã có sáng kiến lập ra kế hoạch tiếp tế, gọi là lúa gạo kháng chiến. Hàng ngày mỗi gia đình tự nguyện nhịn bớt lại phần gạo để bỏ hũ chờ cán bộ về nhận có ăn mà tiếp tục hoạt động. Tiêu biểu những cơ sở trung kiên lúc bấy giờ có bà Mai Thị Tuần ở thôn Ninh Điền, ông Mai Tương ở thôn Ninh Ích và nhiều gia đình khác nữa không thể kể hết được.
Bước sang năm 1951 - 1952, trên có chủ trương “tiến về làng” bám sát và lãnh đạo nhân dân tham gia kháng chiến. Được sự chỉ đạo của trên, những năm đó, tôi cùng các đồng chí Mai Tư, Mai Xuân Ngọc được phân công về Ninh Điền, Ninh Ích. Việc đầu tiên là thăm dò cơ sở, nắm tình hình dân, đồng thời phân tích chủ trương của trên là từ nay cán bộ sẽ về ở với dân để lãnh đạo phong trào. Được cơ sở ủng hộ, tôi và đồng chí Mai Tư đào một căn hầm bí mật đầu tiên ở nhà ông Thét, thuộc thôn Ninh Điền, sau đó đào hầm thứ hai tại nhà ông Mai Tương thôn Ninh Ích, cách đồn Ninh Ích khoảng trên 300 mét rất dễ quan sát tình hình hoạt động của địch.
Phong trào ngày một mạnh lên, không chỉ ở Ninh Điền, Ninh Ích, mà ở Xuân Mỹ việc phát triển hầm bí mật, phát triển lực lượng dân quân du kích cũng được nhân dân đồng tình giúp sức, trong đó phải kể đến các căn hầm kiên cố ở nhà ông Thét, ông Đặng Hiệu và tinh thần tham gia công tác của các ông. Trong thời gian này cán bộ của ta vận động nhân dân đấu tranh nhiều lần, đòi giặc: “không đi ngủ đồn, không đem lúa gạo vào đồn”, sau những cuộc đấu tranh, giặc nhượng bộ. Tình hình ngày càng thuận lợi cho ta.
Năm 1952, trên có chủ trương đấy mạnh công tác “diệt tề, trừ gian” để hỗ trợ cho phong trào phát triển. Ở Phước Đông và Phước Trung lúc bấy giờ có bốn tên ác ôn và lệnh trên là phải bắt sống, đó là : Tổng Đế, Xã Nhơn, Xã Long, Xã May. Đồng chí Mai Tư và tôi được cấp trên giao nhiệm vụ nắm tình hình đi lại của chúng để có kế hoạch bắt sống.
Được cơ sở báo tin, bốn tên này sẽ đi họp tại quận Ninh Hòa bằng phương tiện là hai chiếc xe Mobilette. Đồng chí Mai Tư phân công tôi về báo cáo và xin cấp trên cho lực lượng. Đồng chí Đặng Tích ở Ninh Điền lúc đó là trung đội trưởng bộ đội địa phương và đồng chí Nguyễn Đáng xã đội trưởng du kích Phước Trung được phân công cùng tôi và đồng chí Mai Tư bàn kế hoạch bắt bọn chúng. Kế hoạch được thực hiện bằng cách chia hai cánh phục kích. Một, tại Cầu Móng và một, tại Hòn Lúp. Vào khoảng 10 giờ 30 phút (không nhớ ngày) chúng lọt vào ổ phục kích của ta. Biết gặp Việt Minh, chúng quay đầu xe chạy trở lại, chúng tôi liền nổ súng báo động cho cánh thứ hai tại Hòn Lúp chận chúng lại. Ở đây lại xảy ra tình huống khá bất ngờ. Khi bị chận, bốn tên vẫn ngoan cố chạy. Đồng chí Đặng Tích không để lỡ cơ hội, chạy bộ theo và đạp ngã được xe của tên Tổng Đế, thấy vậy chiếc thứ hai cũng bỏ xe để chạy lấy người, nhưng tất cả bốn tên không thể chạy thoát bởi tinh thần quyết tâm của anh em. Bốn tên cùng hai chiếc xe Mobilette được giải về căn cứ Đá Bàn. Đồng chí Ngoạn trưởng ty, đồng chí Cự phó ty Công an tỉnh Khánh Hòa đã tiếp nhận bốn tên ác ôn chờ ngày xử lý.
Tháng 10 năm 1952, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa công khai xét xử bốn tên này tại căn cứ Đá Bàn, có sự tham dự đông đảo của nhân dân các xã ven căn cứ. Kết quả, Toà tuyên án xử tử hình ba tên, còn Xã May được tha vì tên này đã kịp nhận ra tội lỗi của mình, tự giác khai báo, sau đó đã vẽ sơ đồ đồn Lạc Ninh giúp bộ đội và dân quân ta tiêu diệt đồn Lạc Ninh.
Sau khi bốn tên ác ôn bị bắt và bị xử tội, tiếp đến đồn Lạc Ninh, một cứ điểm quan trọng bị tiêu diệt. Tình hình ở hai xã Phước Đông và Phước Trung hoàn toàn thay đổi, do ta làm chủ, nhân dân càng tin tưởng hơn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
“Tiến về làng” được sống và hoạt động trong lòng dân - đó là những năm tháng không thể nào quên thời đánh Pháp trong cuộc đời đi làm cách mạng của tôi và cứ mỗi lần nhắc đến, tôi lại càng thấm thía hơn lời dạy “Lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.