THOÁT HIỂM NHỜ DÂN
NGUYỄN LƯƠNG
Năm 1960, tôi dựa vào 2 xã Ninh An, Ninh Thọ để bắt liên lạc gây dựng lại cơ sở và phong trào huyện Vạn Ninh. Tôi ở chung với anh Phóng (tức Phương) anh Quặp (tức Ân) công tác vùng tây bắc Ninh Hòa và anh Sỹ (tức anh Công cụt, vì anh là thương binh cụt một cánh tay) cán bộ nằm vùng xã Ninh An. Vào một đêm trăng sáng (9-7-1960), tôi cùng đi với anh Sỹ để gặp cơ sở thôn Lạc Hòa tại bìa rừng cũng là bìa làng. Trên đường đi không gặp trở ngại gì. Nhưng vừa đến điểm hẹn, chưa kịp mừng thì tiếp theo tiếng á á của bọn địch phục kích là hàng loạt đạn súng thompson lia về phía chúng tôi, trúng bụng và ngực anh Sỹ, trúng đầu gối chân phải và bắp vế chân trái tôi. Không rõ vì mất bình tĩnh hay do bắn tồi mà bọn chúng không hạ được chúng tôi từ loạt đạn đầu. Hai chúng tôi dìu nhau chạy vài trăm mét đến đám rừng gai rậm thì anh Sỹ ngã xuống, tôi cũng què không chạy được nữa. Tôi đã xé hai cái túi bột mỳ dùng mang gạo, cái quần dài quấn cổ của tôi để băng bó cho anh và tôi bằng cách quấn nhiều lớp vải chặn miệng vết thương cho bớt chảy máu. Do vết thương ở bụng quá lớn, ở ngực quá sâu, anh Sỹ chỉ kịp nói mấy tiếng đứt quãng: tôi chắc chết...rồi tắc thở. Tôi sửa anh nằm ngay ngắn, lấy khẩu súng ngắn, ngậm ngùi vĩnh biệt anh rồi bỏ đi. Vì máu ra nhiều, đầu gối sưng to gần bằng đầu người, tôi bò đi một cách mệt nhọc và căng thẳng bởi bọn địch đang tiếp tục truy tìm. Với đoạn đường không quá 2 kilômét từ chỗ bị thương đến chân núi Hòn Hấu, tôi phải bò mất gần 10 tiếng đồng hồ. Khi băng qua đường cái sứ (đường Lạc Ninh đi Đá Bàn) lúc ấy là đường đất, bùn nhiều, tôi phải cố nhịn đau, bò quanh quẹo, vừa kéo theo chà cây để xóa dấu vết, đánh lạc hướng địch. Đến chân núi, bò lên sườn dốc được một đoạn ngắn thì trời sáng hẳn, sức lại kiệt, trước mặt lại là rừng cây thưa, ban ngày không đi được, tôi chui vào bụi rậm nằm lại, lấy mấy viên pénicilline mang theo người để phòng khi bị thương, nhai nhỏ, nuốt rồi thiếp đi lúc nào không hay. Khoảng xế trưa, một cơn mưa dông rất lớn ập đến ướt đẫm cả người làm tôi tỉnh lại, hai tay giăng tấm nilông hứng nước mưa, uống, uống mãi vẫn thấy thèm tưởng chừng như chưa bao giờ được uống.
Tạnh mưa, nhìn xuống trảng đế dưới chân, tôi thấy một tốp lính rút về phía đường cái sứ. Cơn mưa chẳng những làm tôi tỉnh lại mà còn giúp tôi thoát khỏi sự lùng sục của địch. Nhìn lên, thấy nhiều trái giấy chín, tôi kéo những nhánh thấp hái ăn. Trái giấy lúc này sao mà ngon đáo để, vừa ngọt, vừa bùi. Tiếc rằng, tôi không hái được nhiều vì không đứng lên được. Chờ bọn lính đi khuất, không còn nghe động tĩnh gì nữa, tôi mới bò vượt dốc để về chỗ ở. Đến nơi, càng lo hơn nữa vì anh em đã dọn đi hết, tôi lại cố bò dần về hướng suối Trầu, nơi đây, có những đồi núi anh em thường ở. Xuống dốc sườn phía đông bắc Hòn Hấu, qua khỏi suối Đá, đến đường mòn trâu đi thì gặp mấy em bé chăn trâu lùa trâu về. Tôi chỉ gọi được một em đi sau cùng đến nói chuyện, dặn dò giữ bí mật. Tôi đoán có nhiều em thấy tôi nên tôi cảnh giác, cố bò đi càng xa, càng tốt. Nhưng vì trời sắp tối, người vừa mệt vừa đói, tôi chỉ bò thêm được một đoạn đường ngắn nữa, tìm chỗ rậm để nằm lại. Đúng như tôi đã lo ngại, có người đã báo với xã, xã báo lên quận. Địch huy động Bảo An, Biệt Kích, Dân Vệ ngay trong đêm kéo ra bố trí dọc đường xe lửa từ nhà thờ Ngọc Sơn đến Dốc Đá Trắng. Sáng hôm sau, địch huy động tiếp dân các thôn lân cận thuộc 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, mang theo cây, dây, dàn hàng ngang cùng với lính sục tìm từng lùm cây, bụi tranh, đế... Nhận được lệnh của địch, bà con rất lo sợ nguời bị thương khó thoát. Bà con bàn nhau tập họp chậm, khi đi thì kêu hú, nói chuyện to. Bà con còn dặn nhau chớ có sục vào bụi, Việt Cộng núp trong đó bắn ra chết uổng mạng. Nam nữ thanh niên thì tụm năm, tụm ba ở các đồi có nhiều cây giấy hái trái ăn và ngồi mát, không đi rộng ra. Nhờ tinh thần thương yêu, bảo vệ cán bộ của nhân dân, sự hướng dẫn đối phó linh hoạt của cán bộ địa phương và cơ sở cách mạng, làm chậm thời gian, hạn chế phạm vi lùng sục nên địch không thu được kết quả mặc dù chúng có quyết tâm diệt cộng cao.
Chiều về, khi núi rừng trở lại yên tĩnh, tôi mới chậm rãi bò đến chỗ giấu gạo, muối gần bên cái vũng đọng đầy nước mưa hôm qua và sống ở đó một mình gần nửa tháng mới gặp lại anh em mà chỗ ở của họ chỉ cách chỗ tôi nằm không quá vài trăm mét đường chim bay. Tôi đã thoát khỏi tay giặc nhờ hội đủ ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa mà yếu tố nhân hòa là quyết định. Sau này, khi hai xã Ninh An, Ninh Thọ đồng khởi giải phóng, nghe bà con kể, tôi đã đến nơi xem lại thì thấy, đúng là lúc đó, nếu bà con mình không tìm mọi cách gây chậm trễ, mệt mỏi để cho chúng sục tìm sâu thêm vài ba trăm mét nữa, chắc chắn chúng đã gặp tôi. Đây là một trong nhiều trường hợp bảo vệ cán bộn của nhân dân hai xã Ninh An, Ninh Thọ cũng như nhân dân nhiều xã khác trong toàn huyện Ninh Hòa trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Đối với tôi, đây là trường hợp nguy hiểm cận kề thứ hai xảy ra trong thời gian từ 1957-1960, đã được nhân dân cứu thoát. Đây còn là một trong những kỷ niệm sâu sắc trong đời hoạt động của tôi mà mỗi lần nhớ đến, tôi càng biết ơn, tin tưởng và tự hào về Đảng ta, về nhân dân ta, về truyền thống của quê hương Ninh Hòa cũng như của những địa phương khác trong tỉnh mà tôi đã từng công tác.