NHỮNG TẤM LÒNG TRUNG KIÊN
Hồi ký của ông DƯƠNG CHỒI
Thực ra thì người Mỹ đã có mặt ở miền Nam Việt Nam từ năm 1953. Cái kế hoạch mang tên Nava với lời tuyên bố láo xược: “Đánh tan quân chủ lực Việt Minh trong vòng 18 tháng”, chính là kế hoạch “hỗn hợp” giữa Mỹ và Pháp, mà ở đó Mỹ đã chi cho cái gọi là kế hoạch Nava này với số tiền trên cả tỷ đô. Tuy nhiên, âm mưu của Mỹ không dừng lại ở đó, chúng muốn hất cẳng Pháp và nắm quyền thống trị Đông Dương mà trọng yếu là Việt Nam. Chính vì thế giữa lúc Pháp còn đang bối rối về sự thất bại ở Điện Biên Phủ - tháng 6-1954, Mỹ đã vội vã đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về nước, tiếp theo là một hệ thống “cố vấn Mỹ” dày đặc, chúng bắt đầu đàn áp phong trào cách mạng và quần chúng yêu nước của ta.
Với hệ thống chính quyền từ huyện xuống cơ sở khá kín, ngày đêm địch tung công an, mật vụ khắp các xóm làng để lùng bắt cơ sở và người của kháng chiến. Trước khi Mỹ, Diệm phát động chiến dịch “tố cộng và diệt cộng” ở Ninh Hòa, chúng đã ám sát đồng chí Nguyễn Lưu nguyên Trưởng ty tuyên truyền tỉnh tại Gò Quýt, xã Ninh Bình vào một đêm tháng 9 năm 1955.
Chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” ở Ninh Hòa được mở đầu vào tháng 11 – 1955. Lúc đầu chúng dùng nhiều hình thức như bắt dân đi học tập “tố cộng”, nói xấu cách mạng, cho làm lễ xé cờ Đảng, cờ Tổ quốc, xé ảnh Bác Hồ, và không ngừng đe dọa, đàn áp nhân dân. Cũng trong năm ấy đồng chí Mai Xuân Ngọc bị bắt và bị đày đi Côn Đảo, đồng chí Lê Hiến Thuần bị bắt và dũng cảm hy sinh.
Tình hình càng ngày càng trở nên đen tối hơn, cuối năm 1956, tôi được điều về lại Sơn Lộc công tác, trên đường về, bị địch phục kích bắt và giam tại trụ sở Lạc An. Ở đó, tôi mới biết là cùng bị bắt và bị giam với tôi còn có 30 người nữa, phần đông là bà con cơ sở. Khi bắt được tôi, chúng tuyên bố ầm ĩ: “Bắt được Dương Chồi rồi, còn Mai Tư nữa”. Tôi nghĩ phải tìm cách thoát, nếu không, khi đã bị chúng đưa vô Chi công an Ninh Hòa rồi thì khó mà thoát; thôi thì, thà chạy trước họng súng của kẻ thù còn hơn bị chúng hành hạ mà không giúp gì được cho phong trào. Trằn trọc không sao chợp mắt được, phải lợi dụng mọi tình huống có thể, để thoát thân ngay! Khoảng 3 giờ sáng, tôi giả vờ xin đi tiểu, tên lính gác vác súng đi theo, tôi phát hiện hắn ta còn ngái ngủ, tôi liền bỏ chạy, nó có bắn theo nhưng không trúng vì trời đêm ấy tối lắm. Thoát ra được tôi về thẳng chiến khu Đá Bàn, gặp các đồng chí Tô Văn Ơn, Nguyễn Thặng, Nguyễn Hữu Thiều báo cáo tình hình đã xảy ra. Số cơ sở và anh em kháng chiến cũ bị bắt giam đêm ấy, qua sáng hôm sau, địch giải vô nhà lao Nha Trang tra tấn dã man, nhiều người chết đi, sống lại, nhưng không ai khai báo điều gì cho địch, vì thế mà phong trào vẫn duy trì.
Bước sang năm 1957, Mỹ, Diệm thực hiện “tố cộng” đợt 2. Bên cạnh đàn áp, chúng cho thi hành nhiều thủ đoạn mỵ dân, như cất trường học, khai mương dẫn nước sản xuất… để thông qua các hoạt động này, có dịp để nắm thêm về cơ sở cách mạng. Khẩu hiệu “Thà bắt lầm còn hơn bỏ sót” đã được địch áp dụng triệt để. Người dân bị bắt nhốt, tra tấn dã man. Người già yếu thì không bị nhốt, nhưng hàng đêm phải đi ngủ tập trung tại các trụ sở thôn, xã có lính canh gác cẩn thận.
Để tiếp tục nắm và chỉ đạo phong trào, tôi được điều về phối hợp cùng đồng chí Lê Bình (tức Đay) đào hầm bí mật, bám trụ tại rừng Lạc Hòa để hoạt động. Do là người địa phương, quen thuộc địa hình, đồng chí Bình lại là người gan dạ, anh thường xuyên tranh thủ bám sát tình hình các khu vực Nội Mỹ, Phước Thuận thuộc xã Ninh Đông. Sau một thời gian hoạt động, đồng chí đã bị phát hiện. Một ngày đầu tháng 5 năm 1957, đồng chí Bình đã bị đích phục kích bắn tại vùng đất mía và khoai lang sau chùa Phước Thuận. Biết mình bị thương nặng, đồng chí vẫn cố chạy ra hướng Bắc, đến khi không chạy được, đồng chí lấy tài liệu, tiền, dùng tay moi luống khoai lang để giấu. Khi địch truy kích, đồng chí chửi vào mặt chúng, chúng dùng võng khiêng đồng chí về, nhưng đồng chí không chịu, níu cỏ trì lại, đến khi có một số đồng bào đến thăm, thì đồng chí lại chịu để bà con khiêng đồng chí đi xuống tại trường Phước Thuận, đồng chí đã hy sinh vào lúc xế chiều, người chị ruột xin nhận về chôn cất. Sau đó chúng tôi được anh Tô Văn Ơn triệu tập về Đá Bàn làm lễ truy điệu anh Lê Bình.
Ngày nay, trên vùng đất này, bà con chỉ còn trồng mía đường, không ai còn trồng khoai lang nữa, nhưng cứ đến mùa khoai lang, mùa mía đường, những người dân lớn tuổi ở đây lại nói về anh Bình, người cách mạng gan dạ, trung kiên; người con của quê hương Ninh Đông anh dũng kiên cường bằng những lời lẽ chân thành, dịu ngọt như vị đường mía của quê hương anh mãi thấm trong lòng nhân dân.
Sau mấy năm thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” tuy bước đầu có làm cho phong trào cách mạng có khó khăn tổn thất, song Mỹ, Diệm vẫn không sao “thu phục được lòng dân”. Tháng 5-1959, chúng ra luật 10/59 sử dụng máy chém đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân. Song chính sách cực kỳ tàn ác và phản động của chúng chỉ làm cho lòng dân ngày càng thêm căm thù và đấu tranh chống lại dù có phải trả bằng cái chết. Điển hình thời này là đồng chí Lê Hay (tự Dử) bị sa vào tay tên Tổng Luận và Nguyễn Hưởng, trong đợt “tố cộng” – Đã bị chúng tra tấn cho đến chết rồi đem xác bỏ ở rừng tàu bay – Lạc Ninh để phi tang và cấm dân không được lui tới vùng này. Được sự lãnh đạo của chi bộ hợp pháp, nhân dân đã đấu tranh buộc địch phải cách chức tên Tổng độc ác này.
Có thể nói rằng thời kỳ 1955 – 1959 là thời kỳ gay go, ác liệt ở khu vực Ninh An, Ninh Thọ nói riêng và ở Ninh Hòa nói chung. Nhưng cũng chính thời kỳ này đã cho mọi người, kể cả kẻ địch thấy rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu cũng như niềm tin vào ngày chiến thắng đã thấm sâu trong lòng nhân dân ta mà không có trở lực nào phá vỡ nổi. Chính vì vậy, mà Đảng, cán bộ đã luôn luôn được nhân dân tin yêu che chở, đùm bọc, càng tăng thêm niềm tin, kiên trì bám trụ cùng nhân dân đấu tranh chống giặc dù phải hy sinh gian khổ. Những cán bộ cách mạng kiên trung đã trở thành những tấm gương sáng cho đời sau con cháu chúng ta…