MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH
NGUYỄN THẶNG
Cuộc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Geneve chống khủng bố trả thù người kháng chiến cũ…. của Ninh Hòa được phát động tiến hành thống nhất trong toàn huyện – có thể là trong toàn tỉnh nữa, được tiến hành vào tháng mười năm 1955. Do phải hợp đồng thống nhất về thời gian mở màn và nhằm vào mùa mưa lụt lớn nên việc chuẩn bị và hoạt động rất cập rập và vất vả.
Riêng tôi, lần đầu tiên từ là một cán bộ quân sự mỗi lần đi hoạt động thì có tiền binh hậu vệ lần này đơn thương độc mã trong sấm chớp, mưa sa có nhiều kỷ niệm rất thú vị.
Khi đó, tôi đang công tác ở thôn Phước Đa, nằm ở hầm nhà anh ba Thoa, đang được gia đình bảo vệ, chăm sóc như “Ông tiên con” trong chuồng gà lại phải về suối Cây Sộp để gặp anh Châu Râu thường trực Huyện ủy. Lúc này việc đi lại còn nhiều sơ hở, nhưng về cánh rừng Chánh Thanh lại có chuyện hơi phiền. Không hiểu ở đây có mấy con cọp mà ban đêm đi từ hướng nào vào ít phút sau là nó xoạt xẹt đến đón mừng. Nó chưa dám xáp mặt với con mồi thuộc loại thượng đẳng này, nhưng có vẻ nó đã thèm thuồng lắm rồi, nó cứ đi kèm theo một bên, nếu mình dừng lại thì nó cũng dừng và đi vòng chung quanh, rợn cả người. Nói sợ thì bị chê là nhút nhát, nhưng làm dạn nếu nó trở chứng ẩu thì rừng này cây cao ở đâu mà leo để cầm cự với nó. Thôi thì chịu khó thức đến gần sáng mới vào là ổn nhất. Gặp anh Châu Râu làm việc xong, chiều tối hôm đó trời đang mưa lớn tôi đi lên núi Ổ Gà để gặp anh sáu Ngô Bí thư Huyện ủy. Ra khỏi rừng, cánh rừng Hà Thanh là một biển ngọt mênh mông giáp đến quốc lộ 1. Vượt qua bể nước này nếu đưa lên màn ảnh nhỏ khác nào như vượt qua biển Đông chứ không ít. Nói vậy chứ rộng và cạn, nước nhiều đỡ phải đề phòng căng thẳng. Vậy là trong sấm chớp mưa sa, nhắm núi Ổ Gà tôi lội thẳng.
Sáng ngày hôm sau tôi đến điểm hẹn thấy anh Ngô, anh Thiều và một vài đồng chí nữa đang hì hục in thêm truyền đơn, chiếc rơ –sô đang nấu gì đó lên ga kêu hơi lớn, các anh nhắc hạ bớt lửa, bởi vì tiếng động lớn, mùi dầu bay xa địch dễ phát hiện. Bọn thám báo dù chỉ có một tên nó cũng mò vào bắt, bắn cán bộ để lập công với chủ Mỹ, vì nó biết lúc này ta có súng nhưng chưa dám bắn. Hàn thuyên năm ba chuyện gì đó xong, chúng tôi lót dép xúm nhau bàn kế hoạch và phân công đi chỉ đạo cuộc đấu tranh. Tôi chịu trách nhiệm ở vùng Tây và Nam huyện. Chiều đó tôi gói quần áo và truyền đơn vào tấm nhựa trong như chiếc ba lô to tướng. Hơi nặng nhưng không sao, rủi bị nước cuốn trôi phải làm phao bơi cho đỡ mệt. Đêm đó tôi đi lên Giồng Cốc để gặp anh Thuần phụ trách vùng Tây. Đến đường sắt nhìn lên thôn Phước Thuận lại là một bề nước mênh mông nữa. Ánh chớp, ánh đèn dầu phản chiếu xóm làng lung linh trên mặt nước như một thắng cảnh tuyệt đẹp, nếu gặp các bình luận viên bình thì đẹp hết chỗ nói. Nhưng qua đầm nước này không dễ, bọn thám báo, dân vệ đang dùng ghe đi tuần và ghẹo gái trong xóm. Tôi dẫn ba lô đi như anh Lĩnh đặc công năm nào đi đánh phá cầu địch. Tôi lần vào được nhà một cơ sở nhờ lấy ghe đưa qua sông Lốt. Đêm tối mịt, nước trên Đá Bàn đang cuồn cuộn đổ xuống mạnh như dòng thác. Qua sông và cấp bờ bên kia không dễ chút nào, phải quen thuộc địa hình phải là tay chèo thiện nghệ nếu không, chậm tay một tí là ghe bị dạt vào các lùm tre, còn đâu nữa mà đi truyền đạt nhiệm vụ.
Nhìn dòng sông tôi cảm thấy như Sơn Tinh cùng phụ họa với giặc ngăn cản, gây khó khăn cho người đang đi làm việc chính nghĩa. Ức thật! May mà qua sông an toàn. Tôi đi lên phía rừng, rất lạ, chỗ này cách đây không lâu là rừng lùm bụi sao bây giờ là rào gai tre, gai quít chặn ngang trước mặt trông lạ hoắc. Trong đêm tối chờ ánh chớp tôi cố nhìn xuống núi, hướng làng xem mình có đi lạc không, đêm lạnh nhưng người nóng ran, tôi rẽ sang bên trái đi một đoạn vẫn rào và rào, tôi quật lại bên phải đi một lúc vẫn rào mà không biết bao xa nữa mới hết. Tôi bậm gan leo qua rào gai như thời nào đã vượt rào đánh đồn giặc, để đi cho dễ, cho gần và xa xóm làng đỡ nguy hiểm. Tưởng qua khỏi rào là đất màu, nhưng không, đất chỉ là từng ô một, chung quanh vẫn bị rào, heo rừng còn không chui qua được, nếu không may bị bọn dân vệ rượt đuổi tôi không biết lúc ấy tôi thoát ra như thế nào, cũng may là điều đó không xảy ra. Tôi đi lòng vòng đến thôn Tân Ninh thì trời sắp sáng. Chưa kịp ăn lót lòng, cơ sở đã vội đưa tôi ra gặp anh Thuần.
Hôm nay trời âm u, nhưng mưa đã tạnh dần, chúng tôi còn phải ngồi dưới tấm che mưa, thỉnh thoảng vẫn còn từng cơn nhẹ quét lướt qua tấm nhựa rào rào. Tôi nói với anh Thuần, thôi ta nấu cơm ăn rồi mới bàn việc, đi suốt đêm đói lắm rồi. Thấy dưới đầu võng còn mấy que củi gai xương cá, gai móc ó bụng mừng thầm, củi này nấu ít khói chắc có ăn rồi. Nấu bằng dầu thì sợ mùi, bằng củi thì sợ khói, nói thì sợ ra tiếng….cái nghiệp sống bất hợp pháp ngoài rừng đã đen độc heo hút mà lại còn lắm gian nan. Thấy thư thả tôi lấy thuốc ra quấn hút, bụng đói, thuốc nặng, cả đêm không hút, mới kéo hơi đầu vào, nhả khói ra là bị say tối mặt, muốn toát mồ hôi và nôn mửa, thuốc lá ác thật. Làm việc xong với anh Thuần tôi lại tiếp tục hành trình vào phía Nam.
Vùng Xuân Hòa, Điềm Tịnh hễ có mưa là có lụt, nước linh láng hàng tuần lễ, vì vậy tôi xuống thôn Phú Văn nhờ một cơ sở đưa ghe xuống Xuân Hòa, bà con cơ sở ở huyện mình bạo dạn lắm, biết đi với mình dễ xảy ra nguy hiểm, nhưng vừa nói xong, ông xách tay lưới vác ghe đi ngay. Qua khỏi Gò Dinh là đến mép nước.Ông chèo rất êm như đi thau câu giăng, câu thả vậy. Gần đến Xuân Hòa tôi sợ lộ nhà cơ sở, tôi cảm ơn ông rồi xuống ghe. Lại một lần bất ngờ nữa, nước vùng này sâu lắm, bơi nhiều hơn đi, tôi lại ôm cái ba lô lội vào nhà chị Sáu. Tôi rón rén như người ăn trộm tìm chỗ nhìn vào nhà, thấy chị đang ăn cơm, tôi làm tín hiệu gọi cửa, chị mở ngay, thấy tôi chi rất mừng nhưng chị vội bỏ ra ngoài nhà, chắc chị đi quan sát xung quanh như thường lệ. Chị bước vào bưng nồi cơm vào chỗ kín hơn rồi mời tôi ăn, tôi nói ăn rồi, chị bảo cơm nếp mà, rồi chị đi báo cho cơ sở phụ trách thôn này. Vừa ngâm nước mới lên, lạnh, cơm nếp còn bốc hơi, tôi nói ăn rồi nhưng tôi ăn một hơi, xem lại gần hết nồi, tôi phải dừng lại. Anh Bảy Tuất đến bảo tôi đến gặp anh Phú để sang sông. Vừa cập bến leo lên lề đường gặp bọn dân vệ từ trụ sở thôn đi lên tôi trụt lại. Lần gặp địch này như nhắc tôi phải cẩn thận hơn nữa. Tôi lượn một vòng từ đây vào Đồng Gieo, buộc xuống thôn Phụng Cang ghé vào bà dì bà con, cũng là cơ sở để nắm tình hình đường đi. Quái lạ, gặp tôi bà không mừng mà trông rất sợ sệt, bà kéo tôi ngồi xuống vừa nói vừa run, chắc có chuyện không lành, tôi im lặng lắng nghe, bà nói “Thằng Châu cán bộ phụ trách vùng này vừa mới về hàng giặc” tình hình đang rất căng, cậu vào rừng ngay kẻo sáng, mai tôi vào gặp ở mã bà Sáo sẽ…..Gà đã gáy ra, tôi vừa đi vừa chạy, nếu thi đi bộ như hiện nay chắc tôi đạt nhất giải. Vào đến nơi thì trời đã sáng rõ, thần kinh tôi như giản đôi chút, tôi vào trại một cơ sở, vừa thấy ông chủ trại đang châm trà, tôi giật bắn người lên, ôi, ông chủ là người ta tình nghi là gián điệp, tôi vội nhẹ nhẹ đi lui, mắt đăm đăm nhìn vào trại dò xem ông đã thấy tôi chưa, rất may là ông chưa thấy, tôi đã đi nhầm trại nguy quá.
Sáng hôm đó tôi gặp được cơ sở, bố trí công việc xong tôi ra rừng, nước suối còn nhiều, đang đổ ào ào, gặp đá nó vồng lên, vồng xuống bay tung tóe, tôi ngồi rửa mặt để tươi tỉnh bớt, chiếc đồng hồ đeo tay – vật kỷ niệm của tôi thời đánh Pháp, tự nhiên bật bung xuống thác nước, nó loáng lên một cái rồi biến mất, tiếc quá! Hôm nay có cơ sở canh chừng, tôi mắc võng, lấy tấm vải dù bông phủ lên đôi chân nằm nghỉ. Trời cũng đã hửng nắng cảnh vật, cây ngàn, chim chóc rộn rã đón mừng. Tôi nằm đu đưa trên chiếc võng thấy ấm áp, khoan khoái lạ thường. Có thức đêm, ngâm nước mấy ngày đêm liền mới thấy hết cái lý thú của tôi lúc này.
Ngày hôm sau anh Cạn (Phùng Sái) phụ trách vùng này đến gặp tôi tiếp thu và bàn kế hoạch hợp đồng. Thấy truyền đơn còn không nhiều, chúng tôi bàn với nhau xuống dưới làng tổ chức in thêm. Việc này có vẻ hơi táo bạo nhưng thấy có điều kiện tin cậy, nên tối hôm đó chúng tôi xuống dưới thôn Tân Khê xã Ninh Lộc bố trí cho cơ sở mua bột nếp, mực “Pô-li-cô-pi”, tập hợp tổ thanh niên lớp mười, lớp mười hai đến bàn việc in, anh em nhận vui vẻ. Sáng ra chúng tôi chui vào một cái nhà cũ bỏ hoang đóng cửa làm. Anh Cận lo công tác bảo vệ bên ngoài, kết thúc mỹ mãn. Xong ở đây chúng tôi lên trở lại xã Ninh Hưng để đón cơ sở bên trong ra nhận kế hoạch và truyền đơn về hoạt động. Cơ sở này là chiến sĩ đồng chí được bố trí ở lại, đáng tin cậy, chúng tôi yên tâm ngồi đợi. Để hết nóng ruột tôi lấy dao nhíp ra cắt hết móng tay đến móng chân, tự nhiên con gà rừng bên cạnh bay lên la quác quác, chúng tôi vừa quay người là tiếng súng nổ tới tấp vào, chúng tôi bung chạy. Chủ quan không xem kỹ chọn chỗ đón gai móc mèo nhiều quá, mình chạy nó cứ móc kéo lại như muốn giữ cho địch bắt. Địch cứ bắn, chúng tôi cứ chạy, tôi thoát lên hướng Tây, anh Cận chạy xuống hướng Đông, sau đó mới biết là địch bắn uy hiếp để bắt sống, nhất là bắt sống cho được tôi chứ không phải bắn chết nên chúng chẳng đạt kết quả gì cả.
Đây là trận chết hụt đầu tiên của tôi mở đầu thời kỳ chống Mỹ. Chỉ một ngày sau hôm đó, chúng tôi đã gặp được nhau lại, trao đổi tìm nguyên nhân của sự kiện, nhưng điều lo nhất lúc này là đã đến ngày hành động, lấy ai đi rải bó truyền đơn này. Thế là chúng tôi phân công nhau, anh Cận rải truyền đơn, cảnh giới chung quanh, tôi phát loa vạch mặt ngoan cố, phản bội của địch, kêu gọi đồng bào, binh lính địch đứng lên đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Geneve, đòi tự do dân chủ, chống khủng bố trả thù người kháng chiến cũ, người dân yêu nước v.v….
Đêm đó làm xong nhiệm vụ chúng tôi trở về chỗ ở, tôi cũng mừng là mình đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công, nhưng quần áo, võng bọc…mọi thứ đều mất sạch, lấy tiền đâu mua sắm lại cho đủ. Cuối cùng chúng tôi về làng dựa vào dân, vào bà con xa gần nhờ mua sắm lại đầy đủ cả.
Tôi kể lại lần đi vòng quanh lý thú này để phần nào giúp chúng ta biết đến tấm lòng của bà con cơ sở huyện nhà và hoàn cảnh hoạt động của anh em cán bộ chúng ta trong thời kỳ đầu chống Mỹ mà nay nhiều đồng chí đã không còn nữa, để chúng ta suy ngẫm và tìm hiểu thêm.