MẸ BẮC
TÔ MỸ HUY
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp cán bộ chiến sĩ đóng quân ở phía nam Hòn Hèo, vùng ven biển thuộc các xã Ninh Phú, Ninh Hà, Ninh Ích đều biết đến một bà mẹ chiến sĩ: Đó là mẹ Bắc.
Các chiến sĩ đều gọi mẹ là mẹ Bắc với tất cả lòng thương yêu, kính trọng không phải vì mẹ tên Bắc mà vì quê mẹ ở miền Bắc. Mẹ tên thật là Nguyễn Thị Kiện, sinh ra và lớn lên ở xã Nghi Lộc, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1945, hậu quả của gần một trăm năm xâm lược cùng với chính sách vơ vét, bóc lột đến cùng cực đất nước ta của bọn thực dân Pháp và tiếp theo là phát xít Nhật miền Bắc xảy ra nạn đói khủng khiếp, hàng triệu người chết, hàng vạn gia đình phải ly tán, tha hương trong đó có gia đình mẹ.
Hai đứa con lớn bỏ nhà xuôi tàu vào Nam, mẹ cùng chồng và ba con nhỏ cũng rời quê hương ra đi trên chiếc thuyền con. Sau gần một tháng lênh đênh trên biển, con thuyền chở gia đình mẹ dừng lại ở Cửa Bé thuộc thành phố Nha Trang. Ở đây mẹ cùng chồng tiếp tục theo nghề chài lưới kiếm sống.
Cách mạng Tháng 8 thành công, vốn mang trong người dòng máu Cách mạng của Xô Viết - Nghệ Tĩnh mẹ như được hồi sinh. Gia đình mẹ phấn khởi hăng hái cùng đồng bào địa phương tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền, mẹ tham gia công tác Hội phụ nữ, tham gia Hội mẹ chiến sĩ, đi quyên góp tiền gạo, vàng bạc để đóng góp cho Cách mạng.
Ngày 23 tháng 10 năm 1945 quân Pháp tái chiếm thành phố Nha Trang, không cam chịu trở lại kiếp người nô lệ gia đình mẹ cùng một số gia đình cơ sở Cách mạng ở Cửa Bé chuyển ra sống ở mõm núi Hòn Hoải nằm giữa 2 xã Ninh Hà và Ninh ích. Ở đây mẹ tiếp tục tham gia công tác Cách mạng, vừa vận động bà con ngư dân đóng góp nhân tài vật lực cho kháng chiến, vừa trực tiếp nuôi dưỡng cán bộ, bộ đội hoạt động vùng này.
Nhà mẹ vừa là trạm liên lạc từ căn cứ đến các nơi như Lệ Cam, Tiên Du và một số vùng ven biển thuộc Ninh Hà, Ninh Ích, vừa là nơi mẹ đón các chiến sĩ ốm đau hoặc đi công tác xa về chăm sóc.
Gia đình mẹ lúc bấy giờ có 2 chiếc ghe, một chiếc đưa từ quê vào. Một chiếc mẹ dành dụm sắm được từ thời ở Cửa Bé và một số ngư lưới cụ. Ban ngày mẹ cùng chồng dùng ghe đi đánh bắt cá nuôi sống gia đình, phần còn lại mẹ đóng góp nuôi cán bộ, chiến sĩ. Ban đêm cũng trên 2 chiếc ghe này mẹ lại ngược xuôi đưa cán bộ, bộ đội đi công tác.
Cuối năm 1946 đầu năm 1947 địch càn quét quyết liệt vùng ven biển và dựng lên bộ máy ngụy quyền. Đường dây liên lạc bị lộ, gia đình mẹ di chuyển qua làng Lệ Cam sinh sống. Được một thời gian, sau đó địch càn quét Hòn Hèo, đóng đồn Tiên Du, làng Lệ Cam một bộ phận nhân dân bỏ vào rừng sống “bất hợp pháp” với địch. Gia đình mẹ lần nữa lại di chuyển, lần này mẹ đưa gia đình xuống Vũng Đình sống cùng cơ quan và chiến sĩ đại đội vùng Đông Ninh Hòa.
Sau đó địch tiếp tục càn quét đánh phá căn cứ và các vùng ven biển. Chúng bỏ đồn Tiên Du, xúc dân các làng Tiên Du, Lệ Cam lên sống trong các thôn vùng đồng, nhà cửa chúng đốt sạch, tạo thành một vành đai trắng ngăn cách căn cứ với đồng bằng chúng lập đồn làng Hội Phú hòng cắt đứt đường dây liên lạc cũng là đường tiếp tế lương thực, thực phẩm từ Ninh Phú, Ninh Đa xuống Hòn Hèo. Thời gian này vốn sức yếu lại chịu đựng gian khổ, thiếu thốn mọi bề, chồng mẹ lâm bệnh rồi qua đời. Các con mẹ chỉ có đứa lớn là biết đi biển nên mẹ nảy sinh sáng kiến huấn luyện cho chiến sĩ ta biết đi biển, biết đánh bắt cá. Từ đó trên 2 chiếc ghe dưới sự hướng dẫn của mẹ, ban ngày các chiến sĩ ta đi đánh cá, đi gặp gỡ ngư dân làm công tác dân vận, ban đêm đưa các chiến sĩ đi công tác, đi mua lương thực, thực phẩm ở các vùng ven thuộc Ninh Hà, Ninh Ích về nuôi sống cán bộ chiến sĩ, góp phần duy trì cuộc kháng chiến.
Năm 1951, địch cấm không cho ngư dân đánh bắt cá ven bờ, ven núi một cách triệt để, khi tuần tra chỉ cần thấy ghe thuyền ven núi là chúng bắt giết mà không cần biết của ai. Gia đình mẹ chuyển về mõm núi Hòn Hoải để sống. Ở đây, vốn tháo vát, năng nổ mẹ lại bằng mọi cách tiếp cận với vùng địch tạm chiếm, với bà con ngư dân để mua và vận động nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm, thuốc men chuyển ra cho bộ đội.
Năm 1953, một phần vì tuổi cao sức yếu, một phần vì gần chín năm trời sống gian khổ thiếu thốn trong rừng, trên biển mẹ đã lâm bệnh và qua đời.
Ngày miền Nam được giải phóng, nhiều cán bộ, chiến sĩ thời đó còn sống tìm về thăm mẹ. Hiện gia đình mẹ chỉ còn người con trai út sinh sống ở Lệ Cam, Ninh Phú. Phần mẹ còn lại là tấm Huân chương Kháng chiến hạng ba, điều đó nói lên phần nào công sức mà mẹ đã cống hiến hy sinh cho sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp trên vùng quê này.
Nhớ về những năm tháng khó khăn ác liệt và trăm bề thiếu thốn ấy của cuộc kháng chiến, cán bộ, chiến sĩ đại đội Hồng Liên luôn được sự thương yêu chăm sóc hết lòng của mẹ từ miếng cơm, manh áo, đến nắm lá thuốc khi ốm đau cùng những lời động viên, an ủi, vỗ về của tấm lòng một người mẹ nhân từ.
Nhớ về mẹ! Một người mẹ nhân hậu mà kiên cường. Một phần đời của mẹ đã gắn chặt với bao gian lao, vất vả, bao thăng trầm của cuộc kháng chiến chống Pháp trên mảnh đất mà mẹ đã chọn làm quê hương và đã sống thủy chung, trọn nghĩa, vẹn tình cho đến hết đời mình. Những điều mẹ làm thật bình dị. Nhưng chính những điều bình dị đó mà nhân dân nơi đây cùng với những chiến sĩ từng sống bên mẹ luôn nhớ về mẹ, kể về mẹ như về một người anh hùng.