LÒNG DÂN NINH PHƯỚC
Hồi ký của VÕ ĐÌNH HIẾU
Xã Ninh Phước nằm dọc theo chân núi Hòn Hèo, cách thị trấn Ninh Hòa về phía Đông Nam 30km, gồm 4 thôn Đầm Vân, Ninh Tịnh, Ninh Yển, Mỹ Giang (thông Đầm Vân nay tách thành xã Ninh Vân). Nghề sống chính của đồng bào là nông nghiệp và ngư nghiệp.
Tháng 8 năm 1945, sau ngày khởi nghĩa cướp chính quyền, Ninh Phước đã nhanh chóng hình thành bộ máy hành chính như chính quyền, mặt trận, đoàn thể quần chúng. Tháng 2 năm 1946, chi bộ được thành lập và tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch, tăng gia sản xuất, vận động đóng góp tiền của, lương thực để nuôi bộ đội. Cũng trong thời gian này chi bộ phát động phong trào bình dân học vụ cho những người mù chữ khắp nơi trong xã. Dân quân tự vệ ngày đêm lo luyện tập và bố phòng canh gác. Cũng trong năm 1946 Chính phủ đề ra chủ trương “Tuần lễ vàng, tuần lễ đồng” để có tiền nuôi quân và đúc súng đạn. Chị Võ Thị Mười, bác Đắc cũng như nhiều chị em khác đang lúc đi chợ nghe loa kêu gọi liền cởi bông tai và nhẫn đeo tay ủng hộ cho ban vận động, còn đồng bào ở các thôn đưa cả nồi đồng, mâm thau ủng hộ cho ban vận động ở xã.
Tháng 7 năm 1947, địch đưa một đại đội lính Pháp và lính Thổ đến đóng đồn ở thôn Ninh Tịnh. Thời gian này nhờ dân bảo vệ chi bộ cũng như các ngành đều ở trong làng làm việc, hội họp, chỉ có việc học bình dân là tạm nghỉ. Tháng 10 năm 1947, huyện đưa một trung đội về để chuẩn bị đánh đồn Ninh Tịnh, chưa kịp đánh thì địch đã rút bỏ đồn, từ đó xã Ninh Phước trở thành căn cứ kháng chiến, các cơ quan của tỉnh được chuyển về đóng ở đây.
Tháng 12 năm 1948, địch tập trung quân vây Hòn Hèo 21 ngày đêm để tiêu diệt các cơ quan đầu não của ta nhưng chúng không làm gì được, ta tổ chức đánh vào quận lỵ nên buộc chúng phải rút quân.
Trong năm 1949, Đại hội Đảng bộ huyện Ninh Hòa họp tại Ninh Yển. Đầu năm 1950, Đại hội tỉnh Đảng bộ họp tại Hòn Ngang, đồng bào Ninh Phước xây cất hội trường vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ Đại hội, đến giữa năm 1951 các cơ quan của tỉnh chuyển về Đá Bàn để tiện việc liên lạc và tiếp tế với các tỉnh bạn và Trung ương.
Tháng 9 - 1952, địch đưa quân đến đóng đồn ở núi Hòn Cổ, hàng ngày chúng càn quét vào núi đốt láng trại kho tàng, bắn giết trâu bò của đồng bào. Chi bộ chủ trương đưa đồng bào lên núi cao ở vòng xoay, Hòn Ngang, Hòn Nhọn để ở. Lúc này không sản xuất được, lương thực cạn kiệt, đời sống gặp nhiều khó khăn, người già và trẻ em đau ốm bệnh tật nhiều nhất là bệnh sốt rét, vì ở núi cao khí hậu khắc nghiệt, không thuốc men nên có một số đã chết, chi bộ chủ trương cho số người già, trẻ em và phụ nữ có thai tản cư về sống ở vùng địch hậu.
Tháng 5-1954 Hòn Khói được giải phóng, địch bỏ Hòn Cổ tháo chạy vào Nha Trang. Sau ngày đình chiến chi bộ chủ trương đưa đồng bào về, nhưng vẫn ở bìa rừng lo sản xuất, mãi đến năm 1955 mới lần lượt về làng sửa sang lại nhà cửa. Lúc bấy giờ địch đã lập xong bộ máy tề ngụy, số cán bộ dân chính không có ai đi tập kết. Đầu năm 1961 có số anh em cán bộ, bộ đội ở miền Bắc về. Huyện thành lập một trung đội vũ trang đưa về Ninh Phước để đánh vào trụ sở xã nhưng bị lộ nên bọn chúng tháo chạy hết. Sau đó huyện để đội công tác ở lại xây dựng cơ sở. Tháng 4-1962 một tiểu đội võ trang phối hợp với đội công tác đánh trụ sở ngụy quyền, phát động quần chúng nổi dậy giải phóng xã, rút một số nam nữ thanh niên lên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đội công tác, tổ chức được một tiểu đội du kích. Ta trụ và giữ vùng giải phóng được 5 tháng, thời gian này địch không đủ sức để càn đến, chúng cho ném 3 quả bom ở bìa rừng và hù dọa sẽ thả bom và bắn pháo vào làng, đồng thời chúng ngăn cấm không cho mua gạo cũng như thực phẩm và đồ dùng khác. Đội công tác chủ trương vận động đồng bào tổ chức một cuộc đấu tranh đòi không được bắn pháo vào làng và để cho đồng bào đi chợ Ninh Hòa mua gạo và các đồ dùng cần thiết cho cuộc sống. Cuộc đấu tranh có cán bộ làm nòng cốt và số gia đình có con em đi lính, có khoảng ba trăm người kéo lên xã Ninh Diêm vì hôm đó tên quận trưởng xuống làm việc với ban đại diện xã, đồng bào đưa đơn cho tên quận trưởng đòi hai việc nêu trên. Tên quận trưởng chấp nhận nhưng buộc đồng bào không mua gạo để tiếp tế cho Việt cộng, nếu Việt cộng có về làng thì phải báo, đồng bào phải đồng ý cho qua chuyện. Khoảng hai tháng sau chúng tập trung lực lượng càn đến đưa hết gia đình của bọn tề ngụy và số dân vệ tổng đoàn lên xóm bóng Nha Trang. Một tuần sau chúng tiếp tục càn đến gom hết đồng bào về khu dồn Bãi Dương xã Ninh Diêm (nay thuộc Ninh Thủy), ta chỉ giữ lại được 72 người số già cả và trẻ em vào trong rừng sâu làm lán trại dừa vào gộp đá để ở, còn số thanh niên thì gia nhập vào lực lượng vũ trang và đội công tác chiến đấu.
Tháng 5-1965 ta đồng khởi giải phóng xã Ninh Diêm, phá khu Dồn đưa số đồng bào về lại Ninh Phước phát rẫy làm ruộng nhưng chưa kịp thu hoạch hoa màu thì địch liên tục ném bom, bắn pháo, đồng bào phải tản cư lên các thôn lân cận, sau đó chúng cho bọn tề ngụy gom đồng bào đưa về khu dồn Đại Cát xã Ninh Phụng.
Vào năm 1968 “tàu không số” từ miền Bắc chở vũ khí vào Khánh Hòa bị địch phát hiện đánh nhau ở ngoài khơi, khi tàu vào được bến Đầm Vân thì bị địch bao vây, anh em thoát lên bờ và hủy tàu, 14 cán bộ chiến sỹ đã hy sinh. Sau đó chúng hành quân càn quét liên tục gây cho số đồng bào bám trụ gặp muôn vàn khó khăn nhưng ai nấy cũng quyết một lần, thà hy sinh chứ không bao giờ chạy về vùng địch.
Ngót 14 năm trời từ 1962 đến 1975 số đồng bào bám trụ lại ở Hòn Hèo, nay ở hang này mai chạy sang gộp nọ, đói cơm lạt muối, đau ốm bệnh tật nhưng đồng bào vẫn một lòng đi theo cách mạng đến cùng, còn kẻ thù thì ngày đêm bắn phá, càn đi quét lại không sót một chỗ nào, chúng cho máy bay phát loa kêu gọi trở về với quốc gia để hưởng lượng khoan hồng nhưng đồng bào không thèm nghe, anh em du kích thì nổ súng buộc máy bay phải cất lên cao trở về, cảm động nhất là các cụ già nói thà chết chứ không bao giờ đầu hàng địch. Từ năm 1962 số bà con bám trụ là 72 người nhưng đến ngày toàn thắng chỉ còn 51 người.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân Ninh Phước đã bao phen bị địch bắn phá và khủng bố đủ điều nhưng dân Ninh Phước vẫn một lòng hướng về cách mạng. Địch nhiều lần dồn dân lập ấp nhưng đồng bào vẫn đấu tranh để bám đất bám làng, giặc đốt làng thì kéo lên núi cao để sinh sống, nay ở hang này mai sang gộp khác chịu đựng biết bao gian khổ khó khăn nhưng lòng không nản chí không sờn, đoàn kết đùm bọc và che chở lẫn nhau, quyết bám trụ cho đến ngày toàn thắng. Người dân quê tôi tuy nghèo nàn chất phát nhưng luôn trọn nghĩa thủy chung.