ĐÁ BÀN TRONG NHỮNG NGÀY CHUYỂN QUÂN TẬP KẾT
Trích hồi ký: LƯU VĂN TRỌNG
… NHẬN nhiệm vụ đi đón phái đoàn của ban liên hiệp đình chiến cấp trên về Khánh Hòa để truyền đạt những điều khoản về thi hành Hiệp định Geneve… 3 giờ ngày 25 tháng 7 năm 1954 chúng tôi từ Đá Bàn đến thôn Ngọc Sơn, giáp quốc lộ 1 cách quận lỵ 12km về phía Bắc.
Thôn xóm nhà nào cũng treo cờ đỏ sao vàng, chúng tôi lo và nóng ruột. Phái đoàn là ai? Đường số 1 từ Hà Thanh ra Ngọc Sơn ta đã phá banh, ô tô không đi được, phái đoàn đi bằng cách nào? Trời đã về chiều, gió biển thổi mơn man, xóm thôn vắng lặng… Đến 16 giờ đột nhiên máy bay lên thẳng từ hướng Nam bay ra, lượn vòng qua thôn Ngọc Sơn rồi thả lá cờ xanh xuống đất. Máy bay hạ cánh, chong chóng vẫn quạt đều, vài phút sau nó lại vọt lên bay về hướng Nam.
Đón phái đoàn là thế này đây. Chúng tôi chạy vội ra nơi máy bay đỗ. Gần đến nơi tôi đã thấy 3 người mặc quân phục, mang ba lô. Các anh bị nhân dân vây chặt. Nói cho đúng thì đồng bào ở xóm máy bay đỗ đã đón phái đoàn trước chúng tôi.
Tôi có cảm giác nhẹ nhõm. Phái đoàn mà chúng tôi được giao nhiệm vụ đi đón hôm nay không phải ai xa lạ mà là anh Mai Dương nguyên Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa làm trưởng đoàn, anh Nguyễn Văn Vĩnh Tỉnh đội phó và anh Hoàng Tiệp tham mưu phó của Tỉnh đội Khánh Hòa.
Theo các anh cho biết, lúc trực thăng vừa hạ cánh, tên lái máy bay thấy cờ đỏ sao vàng đang phấp phới khắp thôn, nhân dân reo hò chạy ra nơi máy bay đỗ. Hốt hoảng anh ta la lên: “Việt minh, Việt minh”. Khi đoàn ta vừa đặt chân xuống đất thì máy bay vọt lên cao và chuồn thẳng.
Ngày 1 tháng 8 năm 1954 ngừng tiếng súng. Mọi việc cho chiến tranh dừng lại. Tất cả lo việc chuyển quân tập kết và đấu tranh đòi địch thi hành các điều khoản của Hiệp định Genève về cấm phân biệt đối xử và trả thù với người kháng chiến cũ. Việc hoàn toàn bí mật và hết sức quan trọng là tổ chức bộ máy ở lại để tiếp tục chỉ đạo phong trào. Tỉnh ủy được tổ chức làm hai bộ phận: Một bộ phận ở lại Khánh Hòa và một bộ phận lo chuyển quân tập kết.
Lúc kháng chiến đã bận rộn; bận rộn để giải phóng Bắc Khánh Hòa và chuẩn bị cắm cờ đỏ sao vàng sát thị xã Nha Trang bây giờ phải dừng lại để đi tập kết, công việc cũng bận rộn không kém. Lúc trước là bận rộn trong vui mừng phấn khởi, còn giờ đây ai cũng xúc động, bùi ngùi.
Đồng bào các nơi đổ về Đá Bàn để xem tận mặt anh bộ đội Cụ Hồ. Xem Đá Bàn thế nào mà tiếng tăm lừng lẫy. Mỗi lần thấy địch tập trung quân đi lùng ở Đá Bàn thì đồng bào lo lắng, khi thấy địch chở xác chết về ai nấy cũng vui mừng, hả dạ. Năm nay Đá Bàn được mùa bắp, lúa; đồng bào đổ dồn về thăm căn cứ, nhiều người còn mua bắp đưa về làng. Những gánh bắp nặng lòng tin, nặng nghĩa tình tỏa về các vùng nông thôn trong huyện.
Số quân ngụy rã ngũ, mang súng theo cách mạng cũng tới tấp chạy lên Đá Bàn. Ngót 100 sinh viên của trường sỹ quan Hải quân ngụy đóng tại Nha Trang cũng rã ngũ chạy ra Lạc An tìm chúng tôi để xin về quê hương họ ở miền Bắc.
Chỉ trong một ngày đồng bào Ninh Hòa, Vạn Ninh đã chuyển từ Đá Bàn đến Bến Quế - Xuân Mỹ (xã Ninh Thọ - Ninh Hòa) trên hai trăm tấn vũ khí quân trang, quân dụng. Nơi đây là bến tiễn đưa trên năm mươi thương bệnh binh của ta đi Quy Nhơn cùng vũ khí và quân trang, quân dụng.
Kỷ niệm cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2 - 9 năm nay được tổ chức trọng thể tại Đá Bàn. Đây cũng là lễ tạm chia tay giữa quân và dân ở Khánh Hòa, quân ra đi vì nhiệm vụ để ngày mai sẽ trở lại lớn mạnh hơn, dân ở lại tiếp tục đấu tranh. Suốt cả chín năm kháng chiến tại Khánh Hòa đây là ngày lễ có đông đảo người dự nhất. Dọc quãng đường lên Đá Bàn, từ Suối Cát (đất ông Hời) đến cửa Pô từng chặng, từng chặng chật ních các bãi đỗ xe ô tô, xe gắn máy và nhiều nhất là xe đạp. Buổi lễ cử hành trọng thể, hàng vạn người trang nghiêm, im phăng phắc chào Quốc kỳ, ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, lắng nghe những lời nói chân tình thắm thiết của các đại biểu. Bọn mật thám, quân ngụy cũng trà trộn vào đây, nhưng chúng bị chìm ngập trong lớp sóng người dâng trào khí thế.
Lúc này uy thế của cách mạng cao như núi “mẹ bồng con”, sức mạnh của cách mạng như muôn ngàn thác lũ. Không lúc nào tôi thấy lòng tin, tình thương của đồng bào đối với cách mạng đậm đà, dào dạt như bây giờ.
Đá Bàn đã trải qua những năm đau thương. Đá Bàn đã vùng dậy, vươn lên theo đà chiến thắng dập dồn: giờ đây Đá Bàn lại chứng kiến các cuộc gặp gỡ thắm thiết những lần chia tay xúc động. Có những người xa nhau, bây giờ khôn xiết vui mừng khi gặp lại. Để rồi họ lại chia tay, mỗi người một nhiệm vụ cách mạng.
Trên đường lên Đá Bàn, tôi gặp những gia đình lên thăm người thân. Nào cha, nào mẹ, nào vợ và cả những cháu nhỏ chưa biết mặt cha. Có những người chưa kịp hàn huyên câu chuyện thì người thân họ đã phải ra đi.
Những nỗi buồn ban đầu rồi cũng tạm nguôi ngoai, vì hòa chung cái không khí rộn rã của căn cứ, thấy bộ đội ta hùng dũng như thấy chính con em của họ.
Lặng lẽ dưới những vòm cây, sâu trong lòng đất là những ngôi mộ của những anh chị em đã hy sinh tại Đá Bàn. Chúng tôi lo tạc bia, vun lại mồ mả cho từng người. Dù biết rằng cây rừng và mưa, lũ có thể làm xói mòn trôi lấp những tấm bia và nấm mộ liệt sỹ, nhưng không có cách nào hơn là hứa với các đồng chí: Chúng tôi những người còn sống, sẽ làm tròn nhiệm vụ mà các đồng chí đã vì nước bỏ mình.
… Ngày 25 tháng 8 năm 1954 chúng tôi tạm chia tay nhau. Tôi ghi dòng nhật ký: “Tôi tắm sông Đá Bàn nước trong, chảy mạnh, bao giờ tôi sẽ trở lại con sông này để tắm lần sau. Tôi trở lại đây trong ngày huy hoàng của đất nước… hay trở lại trong chiến đấu gian khổ như xưa. Nhưng dù sao vẫn tin sẽ có ngày trở lại…”.
Gần sáu năm sau, ngày 18 tháng 5 năm 1960 tôi trở lại Đá Bàn tay bắt mặt mừng với 6 anh còn lại, vốn quý của phong trào cách mạng Ninh Hòa mà Mỹ Diệm không sao sát hại hết…