CÓ MỘT LOÀI HOA ĐỎ
NGUYỄN XUÂN VINH
Ghi theo lời kể của ông Nguyễn Thanh Bình
Làng tôi vốn rất êm đềm, làng nằm bên bờ sông, nước quanh năm trôi lững lờ. Tuổi thơ của chúng tôi là những ngày êm ả với hương đồng cỏ nội, với tiếng sao trúc ngân vang, với lũy tre làng kẽo kẹt mùa hè, với hàng dâm bụt quanh nhà rực đỏ nên thơ…. Làng tôi có một điều rất lạ, không ai bảo ai mà nhà nào cũng trồng một hàng dâm bụt quanh sân, khách đến làng choáng ngợp ngay một màu đỏ thanh khiết, màu đỏ không rực rỡ mà rất dịu dàng, rất đỗi yêu thương.
Đó là Phú Thạnh - làng tôi; một làng ở xã Ninh Giang, nơi còn đọng lại gương hy sinh anh dũng của anh Lê Năm.
Năm 1961, một buổi sáng tinh sương, một tốp lính của quận Ninh Hòa rầm rầm kéo quân đến vây làng, dồn bắt lập ấp chiến lược. Những cọc chông chi chít quanh làng như những vết cắt dọc ngang trên quê hương tôi, màu rỉ sét của dây thép gai xen lẫn trong không trung đã phá vỡ màu đỏ vốn thanh khiết như phá vỡ sự êm đềm và mộc mạc của làng quê. Trên nét mặt người dân hiện lên ánh mắt rực lửa căm hờn và đau xót.
Bọn thanh niên chúng tôi cũng rực lửa căm hờn, biết đến bao giờ mới có dịp trả thù, có cơ hội phá xích diệt đồn bọn chúng. Rồi cách mạng đã về. Trong một đêm tối trời, có mấy anh cán bộ của mặt trận về làng giải thích đường lối, vận động và giác ngộ chúng tôi. Như những người bị con sóng xô đẩy đang lặn ngụp với dòng nước, chúng tôi bắt gặp cách mạng như một cái phao cứu cánh cho cuộc đời.
Anh Lê Năm, tôi và một số thanh niên trong làng được hình thành một tổ du kích chiến đấu tại quê nhà, anh Năm làm tổ trưởng, năm đó anh vừa tròn 20 tuổi. Vốn là một thanh niên chân chất, hiền lành, anh cầm súng chống giặc chỉ vì một lẽ rất bình thường và giản dị như con người anh, là giữ cho được màu xanh của lũy tre, màu đỏ của hàng dâm bụt quanh làng. Có lần, sau cuộc họp tổ phân công công tác, anh kéo tôi ở lại nói chuyện thêm, giọng anh bùi ngùi.
- Thấy hàng bông bụt đỏ xơ xác vì gót giày của giặc, lòng mình tê tái quá, mình yêu màu đỏ ấy như yêu máu của mình, bọn mình cố chiến đấu để giữ những hàng dâm bụt ấy, dù có chết mình cũng cam lòng!
***
Mùa hè năm 1965, giặc đưa về làng một trung đội lính “nghĩa quân”, chúng xây dựng đồn bót, lập giao thông hào kiên cố. Năm đó, một người em trai của anh Năm cũng vào du kích. Mùa đông năm ấy, do yêu cầu của tổ chức, anh Năm được thoát ly kháng chiến ở Hòn Lớn rồi Đá Bàn, anh em chúng tôi vẫn ở lại quê nhà đối đầu với giặc.
Sau khi được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng, anh Năm đã thật sự trưởng thành từ công cuộc kháng chiến. Năm 1967, tình thế rất ác liệt, giặc Mỹ cùng bọn Nam Triều Tiên tràn đến quê hương tôi nhiều hơn, làng Phú Thạnh sống trong sự nơm nớp, phập phồng. Ai ai cũng như chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra, người dân quê tôi kín đáo nhìn về Hòn Hèo với ước mơ được giải phóng.
Cũng năm đó, anh Năm được phân công về làm đội trưởng đội công tác xã Ninh Giang. Thoát ly từ quê hương, nay trở lại quê hương chiến đấu, niềm vui sướng của anh Năm đã hòa cùng niềm vui sướng của chúng tôi, đồng ruộng, bờ tre, con đường làng….anh đã thuộc lòng, lại được bà con yêu thương đùm bọc, chúng tôi đào hầm bí mật, bám trụ lại quê hương chiến đấu ngay trong lòng địch. Mặc cho sự canh phòng cẩn thận của địch trước đầu lê họng súng, đêm đêm anh Năm vẫn đến từng nhà vận động bà con, những lá truyền đơn được bí mật tung ra đến tận tay nhân dân càng làm cho địch hoang mang. Dạo ấy, dân trong làng ai cũng nhớ chiến công diệt tên Trần Mạnh, hắn là tên ác ôn nguy hiểm. Bằng sự gan dạ, nhanh trí, biết kết hợp sức mạnh của quần chúng và sức mạnh của lực lượng, anh cùng đồng đội đã diệt nó ngay trên quê hương mình. Nghe tin Trần Mạnh bị tiêu diệt ai cũng thở phào nhẹ nhõm.
Chúng tôi sống và chiến đấu cạnh anh Năm, xem anh như một người chỉ huy, một đồng chí, đồng đội và như một người anh em, anh luôn bảo ban, giúp đỡ bọn tôi mau tiến bộ, có anh, lòng chúng tôi lúc nào cũng được sưởi ấm bằng ngọn lửa cháy bỏng niềm tin.
*****
Tôi nhớ như in cái đêm hôm ấy, đêm 29 tháng 11 năm 1972, như thường lệ đội công tác tổ chức vào làng, chuyến đi này có 3 người do anh Năm phụ trách. Khi vào đến làng Phú Thạnh thì vướng mìn địch. Hai người đi đầu bị thương, trong đó anh Năm bị thương rất nặng. Nghe mìn nổ bọn nghĩa quân đóng gần đó bắn pháo và tổ chức tiếp cận mục tiêu. Tình thế cấp bách, tôi đến bên anh và quyết định cõng anh ra dù bất cứ giá nào, nhưng biết mình không thể sống được không khéo lại nguy hiểm đến đồng đội nên anh kiên quyết không đi và gắng sức thều thào:
- Mình không thể sống được, cậu hãy rút đi!
Thấy tôi chần chừ không muốn để anh ở lại, anh nghiêm giọng: “Đây là mệnh lệnh”. Nói rồi anh giao cho tôi khẩu súng, còn anh chỉ giữ lại một quả lựu đạn và cái xắc-cốp, tôi bỗng nghĩ rằng anh định tự sát chăng? Nhưng không, trong lúc đánh đu với cái chết, anh cố nhoài mình mở chốt quả lựu đạn cài dưới cái xắc-cốp và nằm đè lên chừa hở một phần cái xắc - cốp ra để bẫy thằng địch. Tiếng chân bọn lính đã đến rất gần, tôi vẫn đứng tần ngần, đầu óc rối như tơ vò, anh cố ngẩng nhìn tôi rồi huơ tay ra hiệu dứt khoát bảo tôi đi, tôi vội chạy vào một bờ mương có lùm cây cao.
Đến lúc này trời sáng dần. Anh Năm đã yếu hẳn, anh gục xuống. Nhưng không, bỗng dưng anh gượng dậy, đầu anh ngẩng cao, anh nhìn về phía trước….xa xa, hàng rào dâm bụt nhà ai đang nở hoa đỏ thắm, màu hoa đỏ của thời niên thiếu, sắc hoa bụt thắm tươi của làng Phú Thạnh đang hiển hiện trước mắt anh, rồi xa dần, mờ dần….
Khi bọn lính đến, chúng nhìn thấy xác anh Năm đè lên chiếc xắc-cốp chúng hí hửng chạy đến vồ lấy. Khi lật xác anh lên để lấy cái xắc-cốp, chúng phát hiện quả lựu đạn. Bọn địch hoảng hồn hú vía may mà quả lựu đạn không nổ. Song chúng không dám đến gần, bọn địch phải dùng cây tre nối dài ra, buộc vào xác anh kéo ra xa một đoạn, sau đó mới dám đến lục soát thi thể anh và cái xắc-cốp. Song chúng không tìm được gì. Các má trong làng ai cũng trầm trồ: Thật là một con người gan góc, đến chết mà cũng cố lừa để giết giặc, làm cho giặc phải khiếp sợ.
Sáng hôm nay, cả huyện Ninh Hòa vui mừng làm lễ đón nhận danh hiệu huyện Anh hùng, những người đồng đội cũ của một thời đã tề tựu về đây, mái tóc chúng tôi ai cũng đã điểm sương, chúng tôi ôn lại những trận đánh, điểm lại ai còn, ai mất, lòng những người cựu chiến binh chúng tôi nghẹn ngào, mắt chúng tôi cay cay như có điều gì không phải với các anh, và tôi nhớ….
Chiều nay, một mình tôi đi giữa nghĩa trang liệt sĩ, trên tay tôi là những cành dâm bụt đỏ tươi mới cắt vội tại quê nhà, tôi đến viếng anh Năm như một cuộc hành hương trở về với cội nguồn. Anh nằm đó với những người đồng đội, anh thanh thản biết dường nào giữa nghĩa trang lộng gió. Tôi đặt lên mộ anh những cành hoa đỏ ấy, những cành hoa mà suốt đời anh yêu thương và chiến đấu vì nó, suốt đời anh nâng niu và hy sinh vì nó.
Tôi đặt lên mộ anh những cành hoa như chính đặt vào lòng tôi - người lính già - những lời tâm niệm: Suốt đời kiên trung và giữ trọn khí tiết!
Chiều xuống dần, tượng đài nghĩa trang nổi hẳn lên giữa bầu trời lồng lộng rất thiêng liêng và cũng rất uy nghi pha lẫn chút tự hào của một miền quê anh hùng, bất khuất.