Chương XI - Cách mạng chuyển sang thế tiến công,phong trào Đồng Khởi đánh bại chiến lược"Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ (1960 - 1965)
Cuối năm 1957, tỉnh ta tiếp thu được bản "Đề cương về đường lối cách mạng miền Nam" do đồng chí Lê Duẫn - Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng soạn thảo lúc đang công tác tại Nam bộ. Bản Đề cương đó xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chế độ độc tài phát xít Mỹ-Diệm bằng con đường bạo lực cách mạng. Theo bản Đề cương đó, "toàn bộ các mặt hoạt động là nhằm đưa quần chúng tiến lên dần từng bước đến chổ vùng dậy dùng bạo lực lật đổ bọn thống trị"(1). Tuy là dự thảo nhưng cũng lóe lên ánh sáng về con đường đi lên của cách mạng miền Nam, phù hợp với suy nghĩ của nhiều cán bộ, đảng viên trong tỉnh, trong huyện.
Từ thực tiễn của địa phương, kết hợp với ý kiến của đồng chí Lê Duẫn trên đường về miền Bắc góp cho Thường vụ Khu ủy 5, giữa năm 1958, Khu ủy 5 họp Hội nghị mở rộng. Hội nghĩ đã vạch rõ sai lầm lớn nhất của Đảng bộ trong những năm qua là không nắm vững quan điểm bạo lực, không kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của địch và nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ như: đánh giá tình hình địch, ta có nhiều sai lệch, nhận thức và vận dụng phương pháp đấu tranh cách mạng không đúng… thiên về đấu tranh chính trị một chiều, quá tin vào hiệu lực pháp lý của Hiệp đinh Genève…
Từ những nhận định đó, Hội nghị đề ra một số phương hướng, nhiệm vụ để chuyển phong trào, trong đó chú trọng đến các việc:
- Xây dựng vùng Tây các tỉnh đồng bằng và Tây Nguyên thành căn cứ địa cách mạng.
- Bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang ở miền núi với nhiệm vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ.
Về phương châm và phương pháp đấu tranh, Hội nghị vạch rõ: "Hiện nay, địch đang đi sâu vào con đường phát xít, ta không thể đơn thuần chính trị mà bắt buộc phải dùng vũ trang bộ phận để phối hợp với đấu tranh chính trị, nhằm tiêu diệt bọn Mỹ, diệt bọn phản động, để tranh thủ bọn lưng chừng, diệt bọn biệt kích để mở rộng hoạt động của ta. Nói chung là nhằm hạn chế phát xít, hạ uy thế của địch, nâng uy thế của phong trào, mở rộng cơ sở chính trị.
Tuy nhiên, những nội dung tích cực trên đây vẫn chưa được Hội nghị nhất trí thông qua và chưa trở thành nghị quyết chính thức. Chổ chưa nhất trí dẫn đến không biểu quyết được là: nếu tiến hành như nội dung đã đề ra, địch lại đánh phá quyết liệt hơn nữa, thì ta có thể từ vũ trang tự vệ phát triển lên vũ trang khởi nghĩa hoặc chiến tranh du kích không? không giải quyết được vấn đề này nên Hội nghị tạm dừng chờ về xin ý kiến Trung ương Đảng.
Tuy chưa phải là nghị quyết chính thức, nhưng quy luật phát triển của cách mạng, sự sống còn của phòng trào ở mỗi địa phương đã thúc đẩy cán bộ đảng viên và quần chúng cách mạng hành động theo hướng nói trên.
Trước khi Hội nghị khu ủy mở rộng, qua tiếp thu gợi ý của đồng chí Lê Duẫn về những vấn đề cần tiến hành để chuyển biến tình hình ở Khu 5, tháng 3.1958, Khu ủy 5 điện hướng dẫn Liên tỉnh 3 tiến hành mấy nội dung:
- Có biện pháp đối phó với bọn ngoan cố.
- Tổ chức võ trang tự vệ.
- Xây dựng căn cứ địa.
Liên tỉnh 3 được điện rất phấn khởi, tổ chức xây dựng ngay lực lượng tự vệ, xây dựng các tuyến bố phòng, kiên quyết chống tập trung dân, kéo dân về lại núi rừng, tiến hành một số vụ diệt ác để rút kinh nghiệm, đình chỉ việc đưa cán bộ ra hợp pháp và rút một số cán bộ cần thiết về lại bất hợp pháp.
Ở Khánh Hòa, chấp hành sự chỉ đạo của Liên tỉnh 3, Tỉnh ủy chủ trương lo xây dựng và củng cố căn cứ, xây dựng lực lượng tự vệ võ trang, đẩy mạnh công tác vận động đồng bào miền núi chuẩn bị mọi mặt tiến tới phá các khu tập trung dân của địch. Đồng thời ở đồng bằng ta cũng có những biện pháp hoạt động mạnh hơn. Tỉnh ủy tập hợp một số cán bộ đặc công để lại trước đây, hình thành một đội vũ trang diệt ác gồm các đồng chí: Huỳnh Văn Chiêu, Nguyễn Dân (Láp), Nguyễn Tấn Sang (Cả) Nguyễn Văn Hạ… do đồng chí Chiêu làm Đội trưởng. Với phương châm hoạt động "có miếng không có tiếng, diệt một ngã mười", tấn công tiêu diệt bọn ác ôn khét tiếng, nhưng khéo che dấu bằng những tình huống hợp pháp, khiến kẻ địch không có cớ khủng bố làm vở cơ sở.
Đầu tháng 8.1959, tổ diệt ác gồm 3 đồng chí Huỳnh Văn Chiêu, Nguyễn Tấn Sang và Nguyễn Dân chuyển ra Ninh Hòa tổ chức trận diệt ác thí điểm để theo dõi phản ứng của địch. Qua thời gian theo dõi, vào trung tuần tháng 8.1959, tổ diệt tên Trần Đức Ty ở thôn Bằng Phước, xã Ninh Phú, là một cán bộ kháng chiến cũ, bí mật làm tay sai cho địch, gây nhiều tội ác với nhân dân. Do ta cải trang là lính bảo an vào nhà tiêu diệt ban ngày, nên địch không có chứng cớ để khủng bố nhân dân, nhưng tề ngụy địa phương bắt đầu lo sợ bị cách mạng trừng trị. Trận diệt ác đem lại kết quả và ảnh hưởng tốt.
Giữa năm 1959, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 2 (mở rộng) về đến tỉnh ta, được Tỉnh ủy tổ chức học tập cho cán bộ của tỉnh vào tháng 8.1959 tại xóm Cỏ (Khánh Sơn). Nghị quyết 15 Trung ương đánh dấu một sự chuyển hướng quan trọng về đường lối và phương pháp cách mạng đối với miền Nam. Nghị quyết chỉ rõ: "Cách mạng Việt Nam ở miền Nam nói chung không thể đi ra ngoài quy luật chung của các nước thuộc địa và nửa thuộc địa từ trước tới nay, cho nên con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là dùng bạo lực. Cụ thể là: lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào bạo lực chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân"(44).
Vận dụng tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng vào tình hình cụ thể của địa phương, Tỉnh ủy chủ trương: "Đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng các huyện miền núi, lấy đấu tranh võ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng phá các khu tập trung dân của địch. Phương hướng đối với các huyện đồng bằng là ra sức phục hồi phong trào, nhưng lúc này không chỉ đấu tranh chính trị đơn thuần mà phải tổ chức các đội vũ trang công tác đi xây dựng cơ sở, dần dần phá thế kèm kẹp của địch, thanh toán các vùng trắng cơ sở".
Niềm mong đợi của mọi người từ lâu, nay đã đến. Cán bộ dự hội nghị ai nấy đều vui mừng, phấn khởi như trút được bao điều trăn trở day dứt từ bấy lâu nay và hoàn toàn nhất trí với đường lối, phương hướng, phương châm và phương pháp đấu tranh của nghị quyết. Ai nấy đều hăm hở quay về lại địa phương khẩn trương thực hiện.
Cuối tháng 11.1959, thực hiện chủ trương mở đợt tuyên truyền bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn của Tỉnh ủy. Huyện ủy Ninh Hòa tổ chức treo lá cờ Tổ quốc cỡ lớn tại núi Ổ Gà, 8 giờ sáng hôm sau địch mới phát hiện đến gỡ. Việc lá cờ Tổ quốc xuất hiện sau những năm dài phong trào chìm trong đen tối, cuộc sống của nhân dân bị địch kìm kẹp trong cảnh "cá chậu, chim lồng", cùng với việc tên Trần Đức Ty bị trừng trị trước đó, quần chúng cách mạng trong huyện vui mừng bàn tán; Cách mạng đã trở về, nhân dân sẽ vùng dậy, một thời kỳ đấu tranh mới sắp bắt đầu.
Dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cuối năm 1959 sang năm 1960, ở Nam bộ và Khu 5 đã nổ ra các cuộc đồng khởi ở Trà Bồng, Bến Tre, các cuộc tấn công quân sự của lực lượng ta ở Tua Hai (Tây Ninh), quận lỵ - Chi khu Hoài Đức (Bình Thuận) và các cuộc nổi dậy phá khu tập trung trở về làng cũ của đồng bào dân tộc ở Cà Rôm, Tầm Ngân (Ninh Thuận). Như vậy, hình thức chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện. Cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam đã bước vào thời kỳ mới.
(44). Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa 1954-1975.
Lực lượng vũ trang ở đồng bằng, đến tháng 7.1960, tỉnh ta mới xây dựng được một tiểu đội vũ trang (diệt ác), gồm các cán bộ quân sự, cán bộ và chiến sĩ đặc công ở lại trước đây, trang bị súng ngắn, tiểu liên, do đồng chí Huỳnh Văn Chiêu làm đội trưởng, đứng chân ở Suối Môn ( Vĩnh Khánh) hoạt động ở địa bàn Nam Ninh Hòa.Ở tỉnh ta, từ đầu năm 1960, phần lớn các xã ở các huyện miền núi đã xây dựng được các đội du kích, trang bị bằng vũ khí thô sơ và có tiểu đoàn 120 của Liên tỉnh 3 đứng trên địa bàn. Tỉnh ủy đã sử dụng lực lượng của tỉnh, có sự phối hợp hỗ trợ của một bộ phận lực lượng của tiểu đoàn 120, tấn công tiêu diệt các chốt điểm địch trong các khu tập trung, hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy phá khu tập trung trở về nương rẫy cũ. Đến cuối năm 1960, các huyện miền núi tỉnh ta được giải phóng, trên 15 ngàn dân các dân tộc đứng lên làm chủ núi rừng, đẩy mạnh sản xuất, bố phòng, xây dựng căn cứ nối liền với căn cứ tỉnh bạn Ninh Thuận, thành căn cứ địa liên hoàn vững mạnh, có ý nghĩa chiến lược quan trọng để khôi phục và phát triển phong trào cách mạng đồng bằng tỉnh ta lên bước mới.
Giữa lúc đó, phong trào cách mạng miền Nam có bước phát triển nhảy vọt, đẩy chính sách xâm lược thực dân kiểu mới, thông qua tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm, có nguy cơ sụp đổ. Nội bộ giới cầm quyền Mỹ và ngụy Sài Gòn bắt đầu mâu thuẫn, lục đục về vấn đề Nam Việt Nam. Ngày 11.11.1960, Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh lữ đoàn dù ngụy và Phan Quang Đán (cầm đầu nhóm thân Mỹ chống Diệm) tổ chức cuộc đảo chính lật đổ Diệm. Cuộc đảo chính thất bại, nhưng mâu thuẫn và sự chia rẽ trong nội bộ chúng càng thêm trầm trọng.
Cùng với nội bộ địch lũng cũng, phong trào cách mạng của quần chúng lên cao, ngày 20.12.1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt mới của cách mạng miền Nam.
HOẠT ĐỘNG KHÔI PHỤC PHONG TRÀO, TỔ CHỨC LẠI ĐỊA BÀN CHỈ ĐẠO, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN.
Ở Ninh Hòa năm 1960, bộ máy ngụy quyền đã ổn định và cắm sâu xuống tận từng khóm liên gia, đại biểu, kiểm soát chặt chẽ nhân dân từ thị trấn đến các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh. Toàn huyện địch có 3 đại đội bảo an, 6 tổng đoàn dân vệ, mỗi xã có từ 1 đến 2 tiểu đội, toàn huyện có 5.644 tên. Một bộ phận thanh niên cộng hòa được trang bị vũ khí, chuyển thành thanh niên chiến đấu, thôn đông dân như thôn Phú Thọ, xã Ninh Diêm, có hàng đại đội. " Phong trào cách mạng quốc gia", bên trong là đảng "Cần lao nhân vị" gần 4.500 tên cuồng tín chống cộng, cùng một mạng lưới gián điệp, chỉ điểm đầy rẫy.
Ở quận lỵ - Chi khu, có lực lượng công an, cảnh sát dã chiến gần một trung đội. Hỏa lực pháo tầm xa có một khẩu pháo 105 ly. Kiểm soát trên mặt biển có Duyên đoàn số 25, thuộc Hải đoàn số 3 Nam Trung bộ, Bộ Chỉ huy đóng ở cửa Sa Huỳnh tỉnh Quảng Ngãi. Phía Tây huyện, trên Quốc lộ 21, có căn cứ Lam Sơn -Dục Mỹ, lúc đầu do Sư đoàn 15, sau đổi thành Sư đoàn 23 bộ binh đóng, nay thành căn cứ huấn luyện các binh chủng: pháo binh, biệt động quân, bảo an và tân binh cho cả khu vực Tây Nguyên và các tỉnh cực Nam Trung bộ của chúng, lực lượng thường xuyên hàng ngàn tên.
Trong lúc đó, Ninh Hòa tuy là một trong 2 huyện trong tỉnh còn cơ sở cách mạng nhưng Huyện ủy chỉ còn 3 đồng chí, cơ sở chỉ còn ở 3 xã trong tổng số 20 xã, nhưng mỗi xã cũng chỉ có ở vài ba thôn, mỗi thôn rải rác 5-7 cơ sở và cảm tình cách mạng. Lực lượng vũ trang, du kích chưa có. Sau Nghị quyết 15 Trung ương cho đến lúc này sự chuyển biến của phong trào Ninh Hòa chưa có gì đáng kể.
Tháng 5.1960, Tỉnh ủy cử đồng chí Lưu Văn Trọng (Trọng Nghĩa) về làm Bí thư Ninh Hòa thay đồng chí Nguyễn Hữu Thiều về Văn phòng Liên tỉnh 3. Từ đầu năm đến tháng 7.1960, Tỉnh ủy tăng cường tiếp 3 cán bộ là các đồng chí: Phạm Thiệu (tức Thành), Lê Phóng (tức Phương) và Bùi Bán. các đồng chí trong Huyện ủy còn lại cùng với các đồng chí mới về phân công nhau đứng chân xây dựng cơ sở, khôi phục phong trào. Đồng chí Bí thư Lưu Văn Trọng phụ trách chỉ đạo chung, đứng chân hoạt động ở vùng Phước Lâm, Văn Thạch (xã Ninh Xuân), Đại Cát (xã Ninh Phụng). Bộ phận đồng chí Nguyễn Châu, Phó Bí thư đứng ở Lỗ Lùng (Suối Trầu) hoạt động ở vùng Ninh An, Ninh Thọ. Tháng 7.1960, đồng chí Nguyễn Châu cùng với đồng chí Phạm Thiệu chuyển xuống Hòn Hèo. Đồng chí Phạm Thiệu được phân công về xây dựng cơ sở ở xã Ninh Diêm. Ở phía Tây, đồng chí Bùi Bán về xã Ninh Thượng, đồng chí Lê Phóng về xã Ninh Đông, Ninh Thân.
Số đồng chí này về huyện được phân công về phụ trách các xã là quê chính của mình, nên chỉ một thời gian tương đối ngắn, các đồng chí thông qua gia đình, người thân trong tộc họ, trong thôn xóm láng giềng tiếp nối xây dựng cơ sở mở ra rất nhanh. Đồng chí Phạm Thiệu quê ở thôn Bá Hà (Ninh Thủy) cuối năm 1961 đã bám được bên trong, xây dựng được nhiều cơ sở ở thôn Bá Hà rồi lan ra các thôn Ngân Hà, xóm mới (Phú Thạnh). Đồng chí Bùi Bán bắt mối xây dựng được cơ sở ở các thôn Đồng Xuân, Tân Lâm, Tân Tứ. Đồng chí Lê Phóng liên hệ lại được số quen biết là cơ sở cũ ở các thôn phía Bắc xã Ninh Đông và xã Ninh Thân. Riêng Đội vũ trang diệt ác, tỉnh đưa xuống phía Nam Ninh Hòa tháng 9.1960, đứng chân ở các xã Ninh Hưng, Ninh Lộc, Ninh Quang, do không có cán bộ quê ở các xã này, nên hoạt động rất khó khăn. Ban đêm về, làng gọi cửa dân không dám mở, ban ngày đón gặp trên bìa rừng, vì không quen mặt dân bỏ chạy, hoạt động của Đội không có kết quả.
Cuối năm 1960, có đoàn cán bộ quân sự 12 đồng chí, có cấp bậc từ thượng sĩ đến trung úy, đa số quê ở Ninh Hòa từ miền Bắc mới về, tỉnh bổ sung vào đội diệt ác, tổ chức thành Đại đội 100. Quân số thực tế chỉ có 2 tiểu đội. Vũ khí có 1 trung liên, còn lại là tiểu liên và súng trường. Ban chỉ huy do Huỳnh Văn Chiêu làm Đại đội trưởng, Nguyễn Tấn Sang làm Chính trị viên.
Thành lập xong, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, đơn vị đưa lực lượng ra phía Bắc Ninh Hòa, cùng với Huyện ủy và cán bộ địa phương mở đợt vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng ở 2 xã Ninh Thọ, Ninh An, sở thuốc lá Xuân Tự. Mở đầu, đơn vị tập kích đốt trụ sở ngụy quyền 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, rãi truyền đơn, phát loa kêu gọi tề ngụy địa phương bỏ ngũ trở về gia đình. Phục kích Tổng đoàn dân vệ bắt sống 1 tên, thu 2 súng. Tuy lực lượng ít, hoạt động nhỏ nhưng đã làm sôi động tình hình cả vùng Bắc Ninh Hòa và Nam Vạn Ninh. Quần chúng cách mạng bắt đầu đứng dậy, 8 thanh niên con em các gia đình cơ sở ở thôn Lạc Ninh, xã Ninh Thọ thoát ly gia nhập đội vũ trang. Chỉ thời gian ngắn, đơn vị rút về lại Suối Môn, nhưng ảnh hưởng chính trị của đợt công tác rất tốt.
Về lại Suối Môn, đồng chí Huỳnh Văn Chiêu về tỉnh, Ban Chỉ huy đại đội 100 do các đồng chí Võ Danh đại đội trưởng, Nguyễn Tấn Sang chính trị viên, Nguyễn Hữu Xuân (tức Những) đại đội phó, Nguyễn Nam (tức Cửu) chính trị viên phó. Tại đây, đơn vị cử 1 tổ, do đồng chí Nguyễn Văn Thường, quê ở thôn Phú Hòa (xã Ninh Quang) làm Tổ trưởng, xuống đứng chân ở Nghể Sanh, Đồng Gieo đón gặp những người thân quen, họ hàng, những cán bộ kháng chiến cũ trong làng hằng ngày ra làm ăn ở ngoài đồng, bìa rừng nắm tình hình và thông qua số này móc nối phát triển cơ sở vào bên trong. Việc làm này rất khó khăn, hàng ngày tuy đồng bào ra làm ăn nhiều, nhưng do đã qua nhiều năm bị địch ly gián, chia rẽ nên dù người cùng xóm, thậm chí cùng gia đình không ai dám tin ai, lại bị bọn gián điệp, chỉ điểm trà trộn theo dõi, nên đồng bào thấy cán bộ cách mạng là tìm cách lẫn tránh, hoặc trở về lại gia đình, vì sợ địch biết khủng bố.
Trong đêm, đơn vị xuống xã Ninh Lộc nắm tình hình và thăm đồng bào đơn vị vừa rút quân, bị lính của Tổng đoàn dân vệ xộc tới, ta nổ súng kịp thời, tên chỉ huy tổng đoàn chết tại chổ, ta thu 1 tiểu liên.
Tháng 6.1961, thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, Đại đội 100 đưa lực lượng (2 tiểu đội) ra lại Bắc Ninh Hòa hoạt động theo phương châm lấy đấu tranh vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tiếp nối cơ sở, khôi phục phong trào cách mạng của nhân dân. Lần này, Huyện ủy chủ trương mở đợt hoạt động ở vùng Đông huyện.
Cuối tháng 6.1961, đơn vị cùng cán bộ và đồng chí Nguyễn Châu Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lưu Văn Trọng (Trọng Nghĩa) Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh cùng đi xuống Hòn Hèo. Đêm đầu, ta về làm mét tinh gần chợ Bá Hà (xã Ninh Diêm), nhân dân đến dự rất đông, đồng chí Lưu Văn Trọng đứng lên thăm hỏi đồng bào, phổ biến đường lối, một số chủ trương, chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đối với binh sĩ ngụy và nhân viên ngụy quyền, kêu gọi đồng bào đoàn kết đứng lên đấu tranh chống lại chế độ Mỹ - Diệm, tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Ta đưa ấp trưởng ngụy đứng ra nhận lỗi trước nhân dân về những việc làm sai trái của mình, và kêu gọi nhân dân bán gạo cho quân giải phóng. Gặp lại cán bộ và bộ đội cách mạng đồng bào rất mừng, chỉ chốc lát đồng bào vừa ủng hộ, vừa mua giúp cho ta hàng tấn lương thực, thực phẩm và dùng thuyền máy chuyển hàng giúp ta ra ven rừng Hòn Hèo. Ta bắt đầu rút quân, tổng đoàn dân vệ ở ta nổ súng, không có phản ứng gì đáng kể.
Tiếp theo, ta làm công tác võ trang tuyên truyền ở thôn Mỹ Lương rồi rút về đỉnh Hòn Hèo. Tại đây Huyện ủy chủ trương về thôn Ninh Tịnh (xã Ninh Phước) vì ở đây là vùng căn cứ trong thời kháng chiến chống Pháp, có nhiều cán bộ kháng chiến cũ, địch còn sơ hở. Đêm hành động, do ta chưa nắm chắc tình hình, địa hình của thôn có nhiều thay đổi, giữa đêm ta tập kết lực lượng ngoài đồng ruộng, mờ sáng triển khai đội hình hàng ngang tiến vào thôn, gặp 2 dân vệ ra sưu sách, ta bắt sống, tước vũ khí rồi nổ súng tiến đánh vào trụ sở xã, tên đại diện xã và toán dân vệ chạy thoát. Ta mở cuộc mét tinh ngay trước cửa trụ sở đang bị phá, gặp lại cán bộ, bộ đội, nhân dân mừng vui, hỏi han rối rít. Ta phổ biến một số chủ trương, chính sách, động viên nhân dân là vùng căn cứ kháng chiến chống Pháp trước đây, nay tiếp tục đứng lên chống Mỹ, cứu nước. Nói rõ tội lỗi của những người cầm súng cho địch chống lại cách mạng, chống lại nhân dân rồi thả 2 dân vệ bị bắt. Buổi sáng hôm đó ta đi thăm đồng bào, các gia đình cán bộ kháng chiến cũ. Khoảng 12 giờ ta rút lên Hòn Ngang (Hòn Hèo) một thanh niên con rễ của một đảng viên kháng chiến cũ xin thoát ly cùng ra ngoài với ta.
(45). Về thời gian đợt công tác còn có chổ khác nhau. Theo đồng chí Võ Danh và một số đồng chí trong Đại đội 100 là: Sau đêm mét tinh ở Bá Hà (Ninh Diêm) đơn vị về hoạt động ở xã Ninh Phú, sau đó mới xuống Ninh Tịnh (xã Ninh Phước). Về Đá Bàn mới đánh tao ngộ với Trung đội bảo an tại thôn Xuân Mỹ (xã Ninh Thọ) bắn bị thương 2 tên, thu 2 súng, có 1 tiểu liên.
Tiếp theo, ta về võ trang tuyên truyền ở thôn Tiên Du (xã Ninh Phú) đêm 30.8, mở mét tinh ở thôn Hội Phú, Hội Bình, đánh vào trụ sở xã diệt 3 tên ngụy quyền, trong đó có tên xã trưởng ác ôn, thu 2 súng. Hai cán bộ kháng chiến cũ và một thanh niên thoát ly ra căn cứ tham gia kháng chiên. Sau đó đơn vị rút về lại Đá Bàn(45).
Giữa tháng 9.1961, kết thúc đợt hoạt động, đơn vị rút về lại hậu cứ Suối Môn để kiểm điểm rút kinh nghiệm đợt công tác. Qua đợt hoạt động đơn vị nhận thấy: Lực lượng kèm dân tại chổ của địch rất đông, nhưng tinh thần đa số bạc nhược. Với sự có mặt của lực lượng quân sự ta, chúng bắt đầu hoang mang dao động. Nhân dân gặp lại bộ đội cách mạng rất phấn khởi, niềm tin và khí thế cách mạng được khơi dậy. Nhiều thanh niên và cán bộ kháng chiến cũ lần lượt thoát lý tham gia kháng chiến, gia nhập đội vũ trang. Nhiều cơ sở cũ trong vùng sâu đang tìm liên lạc với cách mạng. Nhưng lực lượng cán bộ của ta còn qua ít, nên kết quả tiếp nối cơ sở, chưa tương xứng với điều kiên thuận lợi do hoạt động quân sự đem lại.
Tháng 8.1961, Tỉnh ủy họp hội nghị xem xét tình hình, đặt mạnh vấn đề tập trung sức phá kế hoạch gom dân lập "ấp chiến lược" của địch; bám dân xây dựng cơ sở, tích cực làm công tác binh vận, đưa phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang lên bước mới.
Về địa bàn chỉ đạo, để có điều kiện chỉ đạo sâu sát kịp thời và phát triển phong trào ở cơ sở nhanh hơn, tháng 10.1961, Tỉnh ủy chủ trương tách huyện Ninh Hòa thành 2 huyện. Huyện Nam Ninh Hòa bao gồm các xã phía Nam Quốc lộ 21, phía Tây Quốc lộ 1 (Ninh Hòa - Nha Trang) và thị trấn Ninh Hòa. Ban Cán sự huyện có 3 đồng chí: Đặng Nhiên, Nguyễn Hữu Xuân, Nguyễn Nam, do Đặng Nhiên làm Bí thư. Huyện Bắc Ninh Hòa (gồm vùng Tây, vùng Đông Ninh Hòa) và huyện Vạn Ninh có chung một huyện ủy, gồm các đồng chí Nguyễn Châu (Châu Râu), Nguyễn Lương (tức Nguyễn Xuân Ngật), Mai Tư, Lê Phóng, Phạm Thiệu, Lê Mét, Nguyễn Văn Chánh (Quận), Trương Đình Khánh (Phố); đồng chí Nguyễn Châu được chỉ định làm Bí thư phụ trách Bắc Ninh Hòa, đồng chí Nguyễn Lương làm Phó Bí thư, cùng với hai đồng chí Chánh và Khánh (quê Vạn Ninh) phụ trách phía Vạn Ninh.
Đi đôi với tách huyện, Tỉnh ủy giải thể Đại đội 100, phân cho mỗi huyện một bộ phận làm bộ khung ban đầu để vừa chiến đấu vừa xây dựng và phát triển thành các đơn vị vũ trạng địa phương theo yêu cầu và khả năng mỗi huyện.
- Nam Ninh Hòa một tiểu đội do đồng chí Nguyễn Tấn Liễn chỉ huy.
- Bắc Ninh Hòa và Vạn Ninh một đơn vị gồm 2 bộ khung trung đội. Một trung đội do đồng chí Trần Tộc làm Trung đội trưởng. Một trung đội do Hồ Chang làm trung đội trưởng, Ban chỉ huy đơn vị có đồng chí Võ Danh chỉ huy trưởng, Lê Ngọc Cuộc chính trị viên.
Về đến huyện, đơn vị được bổ sung một số thanh niên của các xã Ninh Thọ, Ninh An, Ninh Diêm thoát ly trước đó và một tiểu đội 15 thanh niên của tỉnh Phú Yên hỗ trợ cho Khánh Hòa, có kèm theo một ít vũ khí, do đồng chí Nguyễn Lương nhận ở tỉnh đưa về. Đơn vị biên chế lại thành 3 trung đội, mỗi trung đội đứng ở một vùng. Trung đội đồng chí Trần Tộc đứng ở Đá Bàn. Một trung đội thiếu, do đồng chí … Kỳ trung đội phó phụ trách đứng ở Hòn Hèo. Một trung đội do đồng chí Lê Trung làm trung đội trưởng đứng ở Vạn Ninh, vũ khí mỗi trung đội được trang bị một khẩu trung liên, riêng trung đội Đá Bàn 2 khẩu, còn lại là tiểu liên, súng trường MAC và súng "sào vịt" thu được của địch. Đây là những đơn vị vũ trang đầu tiên của Ninh Hòa và Vạn Ninh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, lấy mật danh là Z57.
Lúc này ở huyện Ninh Hòa địch đang triển khai thực hiện kế hoạch gom dân rào làng lập "ấp chiến lược". Tăng cường càn quét ra các vùng giáp ranh căn cứ cũ. Ở phía Đông huyện, sau trận ta tập kích vào trụ sở xã Ninh Phú, địch đưa một trung đội bảo an ra đóng ở thôn Tiên Du, hàng ngày lùng sục ven chân núi phía Tây và Tây Nam Hòn Hèo, nhằm ngăn chặn hoạt động của lực lượng ta.
Về ta, sau khi tổ chức lại lực lượng, Huyện ủy Bắc Ninh Hòa chủ trương sử dụng trung đội vùng Tây cùng với trung đội vùng Đông, tranh thủ lúc địch còn chủ quan sơ hở, tổ chức đánh tiêu diệt trung đội này của địch để hỗ trợ cho việc mở phong trào về phía Tây nam Hòn Hèo.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, cuối năm 1961, 2 trung đội võ trang của Bắc Ninh Hòa, do đồng chí Võ Danh chỉ huy, đưa lực lượng xuống Hòn Hèo. Sau mấy ngày nắm tình hình khảo sát thực địa, đơn vị tổ chức trận phục kích ban ngày đánh thiệt hại nặng trung đội bảo an địch tại Hang Dơi, xã Ninh Phú, ta tiêu diệt tại trận 1 tiểu đội, bắt sống 1 tù bình, thu một số vũ khí.
Sau trận Hang Dơi, đơn vị về vũ trang tuyên truyền ở thôn Đầm Vân, rút được một số thanh niên bổ sung lực lượng, tiếp đó tập kích tổng đoàn dân vệ xã Ninh Diêm đóng tại thôn Thủy Đầm gây cho chúng một số thương vong. Sau trận đánh, trung đội vùng Tây rút lên Đá Bàn, trung đội vùng Đông trụ lại Hòn Hèo.
Trong tháng 12.1961, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, các trung đội vũ trang phân tán lực lượng thành từng tiểu đội, tổ chức kế hoạch hợp đồng, cùng một lúc tiến hành vũ trang tuyên truyền treo cờ, rải truyền đơn, phân phát cho nhân dân tuyên ngôn và chính sách của Mặt trận Giải phóng, lời kêu gọi của lực lượng tự vệ vũ trang nhân dân miền Nam đối với ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, phát loa kêu gọi nhân dân, kêu gọi tề ngụy địa phương trên một diện rộng nhiều xã. Đêm 8.12, ta rải truyền đơn, treo cờ ở thôn Mông Phú (xã Ninh Thượng). Ngày 8.12, ở vùng Đông, ta tập trung dân đang làm thuốc lá ở ấp Phú Lộc (xã Ninh Diêm) làm mét tinh. Cũng đêm đó, ta vào rải truyền đơn ở thôn Phước Đa 1 (nay thuộc thị trấn Ninh Hòa) treo cờ giải phóng cở lớn (2m x1,5m) tại chân núi Ổ Gà, đánh tao ngộ với bọn thanh niên chiến đấu đi tuần tiểu. Đêm 9.12, đột nhập vào thôn Tân Kiều cảnh cáo bọn tay sai, phân phát truyền đơn, lời kêu gọi, thu đốt ảnh Diệm, phát loa kêu gọi tề ngụy bỏ ngũ. Cùng đêm 9.12, ta vũ trang tuyên truyền ở thôn Lạc Hòa (Ninh An), thôn Xuân Mỹ (Ninh Thọ).
Phần lớn những nơi ta về gặp dân tuyên truyền phát động, đều móc nối được cơ sở, đều có cán bộ kháng chiến cũ và thanh niên xin thoát lý ra căn cứ. Đến cuối năm 1961 đầu năm 1962 huyện Bắc Ninh Hòa đã tiếp nối, khôi phục và xây dựng được nhiều cơ sở ở các xã: Ninh An, Ninh Thọ, các thôn ven biển xã Ninh Diêm (nay là xã Ninh Thủy) Ninh Phú, Ninh Giang, Ninh Hà, Ninh Phước, các thôn ven Quốc lộ 21 của các xã Ninh Xuân, Ninh Phụng, một số thôn ở xã Ninh Thân, Ninh Thượng, Ninh Đông, tiếp nối được một số đầu mối trong thị trấn Ninh Hòa, và có 21 thanh niên thoát ly gia nhập lực lượng vũ trang huyện.
Phía Nam Ninh Hòa là vùng trắng cán bộ từ năm 1956, năm 1957, tổ của đồng chí Hồ Sĩ, Võ Bá Kiếm, Phạm Thiệt về đứng tại đây, do không có đồng chí nào quê tại vùng này nên không xây dựng được cơ sở. Riêng đồng chí Hồ Sĩ thông qua người làng ở xóm Tân Lạc đã phát triển một loạt cơ sở sang các thôn Phước Lâm, Văn Thạch (Ninh Xuân) Đại Cát, Xuân Hòa, Điềm Tịnh (xã Ninh Phụng) và bắt mối vào được Thôn 5, thị trấn Ninh Hòa, đào được hầm bí mật tại nhà anh Đào Kỳ Long- chị Mực, làm bàn đạp để mở cơ sở vào phía Nam huyện.
Cuối năm 1961, Tiểu đội vũ trang của huyện Nam Ninh Hòa, do đồng chí Nguyễn Tấn Liễn, quê ở thôn Trường Lộc (xã Ninh Hưng) làm đội trưởng về đứng ở xã Ninh Hưng. Đồng chí về móc nối với gia đình, tộc họ và những người quen thân trong thôn, chỉ thời gian ngắn đồng chí đã xây dựng tại đây một nhóm cơ sở và đào hầm bí mật bám được ở thôn Trường Lộc. Từ đó, đồng chí và đồng đội đã phát triển rộng cơ sở sang các thôn trong xã như Tân Hưng, Phú Đa, Phụng Cang và qua thôn Phú Hòa (xã Ninh Quang), thôn Mỹ Lợi (xã Ninh Lộc), bắt đầu vận động được thanh niên thoát ly ra căn cứ tham gia kháng chiến. Từ thực tế ở cả hai huyện Nam - Bắc Ninh Hòa cho thấy, trong tình hình cách mạng gặp khó khăn, cán bộ quê tại địa phương có vai trò rất quan trọng. Phương thức thông qua gia đình, tộc họ, người cùng quê hương làng xóm, để xây dựng cơ sở, từ đó phát triển rộng ra xung quanh rất có hiệu quả. Thậm chí sau này, ta rút thanh niên tốt trong vùng sâu ra căn cứ, giáo dục, đào tạo rồi đưa trở về lại địa phương, số này cũng phát huy tác dụng rất tốt.
Về chỉ đạo hoạt động trong thời kỳ này, Huyện ủy rất chú trọng công tác nghi binh, đánh lừa địch. Cũng là cách đánh vào cân não của chúng để che dấu ý đồ và lực lượng ít ỏi của ta. Ở các xã Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Đông… thỉnh thoảng đêm đến đâu đâu cũng nghe tiếng trống mõ nổi lên, tiếng súng nổ, tiếng gọi loa kêu gọi đồng bào, kêu gọi binh lính địch náo động khắp xóm làng. Xe địch rú ga chạy trên đường mà không biết đích thực "Việt Cộng" đang ở đâu, lực lượng nào mà về đông như vậy. Vì ta đã hướng dẫn, chuẩn bị trước cho cơ sở, đêm đêm khi nghe tiếng trống mõ ở nơi nào thì các nơi khác cùng đánh theo, nghe một nơi gọi loa, thì nơi khác cũng gọi. Sau nhiều lần, địch thấy lệnh bắt dân đánh trống mõ báo động khi có "Việt Cộng" về làng là không ổn, chỉ gây thêm rối, chúng ra lệnh hủy bỏ lệnh này và tuyên bố, từ nay ai đánh trống mõ là "Việt Cộng".
Ở rừng núi, từ nay không còn cái thời phải đi công tác theo tuần trăng, phải chui rúc, ngụy trang nghiêm ngặt như trước, mà còn tạo ra dấu đóng quân, dấu nhóm bếp cho thật nhiều, đồng thời phao tin lực lượng miền Bắc về hàng tiểu đoàn, để hạn chế lùng sục của địch. Nhờ nghi binh khéo mà ở Ninh Hòa có một thời địch rất sợ tiểu đoàn Châu Râu. Chúng nói với nhau, tiểu đoàn Châu Râu rất mạnh, đánh giặc rất tài, gặp tiểu đoàn Châu Râu phải lo chạy trước, chậm chân là bị tiêu diệt. Do tâm trạng đó, nên khi đụng trận với ta, thường là chúng bỏ chạy.
Ta cũng bắt đầu chú ý việc xây dựng căn cứ phía sau. Đầu năm 1962, ta đưa trung đội của đồng chí Trần Tộc vào mở cơ sở sản xuất trong trung tâm Đá Bàn, do đồng chí Lê Ngọc Cuộc trực tiếp chỉ đạo. Việc làm này ta có nhiều kinh nghiệm trong chống Pháp, nhưng lúc đầu lực lượng ta ít, phạm vi phải bảo vệ rộng, nông cụ giống má chưa có, phải xuống làng mua sắm nông cụ, lên tận vùng Cơ-rông-Năng (Daklak) mua giống bắp, giống lúa rẫy, hom mì của đồng bào dân tộc về trồng. Vừa sản xuất, vừa bố phòng, từ gần đến rộng ra bên ngoài. Sản xuất năm này cho thu hoạch khá, đời sống của cán bộ và bộ đội được cải thiện.
Huyện Nam Ninh Hòa gần đồng bào dân tộc vùng Suối Môn nên việc xây dựng hậu cứ, phát triển sản xuất thuận lợi.
ĐÁNH BẠI QUỐC SÁCH "ẤP CHIẾN LƯỢC" CỦA ĐỊCH - PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI GIẢI PHÓNG.
Tháng 2.1962, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ 3 (đại hội đầu tiên trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước) được triệu tập tại A-Xây phía Tây Nam Hòn Dù, thuộc huyện Vĩnh Khánh (nay là Khánh Vĩnh). Đoàn đại biểu Đảng bộ huyện Bắc Ninh Hòa-Vạn Ninh do các đồng chí Nguyễn Châu, Nguyễn Lương, Bí thư và Phó Bí thư Huyện uỷ dẫn đầu. Đoàn đại biều Nam Ninh Hòa có đồng chí Đặng Nhiên, Bí thư Ban cán sự huyện về dự.
Đại hội đánh giá tình hình, tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị song song, kinh nghiệm vận dụng phương châm hai chân ba mũi giáp công, công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, kinh nghiệm phá ấp chiến lược, phá kèm và đề ra nhiều chủ trương lớn: tập trung sức xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, phá kế hoạch gom dân lập "ấp chiến lược" của địch…
Riêng vấn đề đồng khởi giải phóng, sau Đại hội, Tỉnh ủy bàn và chỉ đạo cho Bắc Ninh Hòa tổ chức phát động quần chúng đồng khởi giải phóng xã Ninh Phước để rút kinh nghiệm.
Xã Ninh Phước là xã hẻo lánh, xa trung tâm huyện lỵ khoảng 20 km, gồm 4 thôn: Đầm Vân, Ninh Tịnh, Ninh Yển và thôn đảo Mỹ Giang, dân số gần 2.000 người. Là xã vùng kháng chiến cũ, nhân dân giác ngộ cach mạng cao, có cơ sở và cán bộ tương đối vững vàng. Lực lượng địch tại chổ mõng, chỉ có bọn ngụy quyền, dân vệ và một số tên tay sai khác.
Chấp hành sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tháng 3.1962, lãnh đạo Huyện ủy Bắc Ninh Hòa xuống vùng Đông, cùng với cán bộ xã Ninh Phước và đơn vị vũ trang huyện đứng ở Hòn Hèo bàn kế hoạch thực hiện.
Ngày 23.3.1962, tranh thủ lúc không có đại đội bảo an địch đến hoạt động ở vùng này, ta đột nhập vào hai thôn Ninh Tịnh và Ninh Yển (trung tâm xã) phát động và hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy đồng khởi giải phóng, truy quét bọn tề điệp và tay sai ác ôn, xóa bỏ ngụy quyền, lập chính quyền tự quản. Nhân dân đứng lên làm chủ, biến "ấp chiến lược" của địch thành làng chiến đấu của ta, tổ chức du kích canh gác bảo vệ thôn xóm. Bọn ngụy quyền ở 2 thôn Đầm Vân và Mỹ Giang nghe tin cũng bỏ chạy vào Nha Trang. Nhân dân xã Ninh Phước, vùng căn cứ trong kháng chiến chống Pháp, giờ đây đã trở lại thế đứng năm xưa, tay cày, tay súng giữ vững thế đấu tranh chính trị, binh vận, kết hợp với đấu tranh võ trang chống địch càn quét lấn chiếm, bảo vệ thành quả đạt được.
Sau đồng khởi giải phóng, nhân dân đấu tranh giữ thế hợp pháp, đi lại bình thường lên xã Ninh Diêm, thị trấn Ninh Hòa trao đổi mua bán, bảo đảm đời sống, chính quyền tự quản tịch thu ruộng đất của những tên tay sai ác ôn phân cho nông dân không có ruộng, tổ chức các lớp học bình dân thanh toán nạn mù chữ, huấn luyện du kích. Không khí vui tươi, rộn ràng lấn át những nổi lo âu ban đầu của nhân dân.
Địch sử dụng biệt kích phản kích lấn chiếm lại, bị du kích đánh bật trở ra. Do ta khéo nghi binh địch không dám tiếp tục mò vào. Chúng chuyển sang phong tỏa nguồn tiếp tế lương thực, cấm nhân dân vùng Hòn Khói không được bán gạo xuống xã Ninh Phước, dội bom, bắn pháo vào làng uy hiếp tinh thần nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền tự quản, 300 đồng bào của hai thôn Ninh Tịnh và Ninh Yển xuống đường kéo lên quận đấu tranh. Lên đến trụ sở xã Ninh Diêm, tên quận trưởng cũng vừa xuống đến, đồng bào kéo vào đấu tranh quyết liệt: đòi phải để cho dân mua gạo bình thường như cũ, đòi không được dội bom, bắn pháo vào làng. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân tên quận trưởng buộc phải chấp nhận yêu sách. Đây là cuộc đồng khởi giải phóng đầu tiên và cuộc xuống đường đấu tranh bằng bạo lực chính trị của quần chúng thắng lợi mở đầu, ảnh hưởng chính trị rộng lớn, Huyện ủy rút được một số kinh nghiệm bổ ích. Trên 20 thanh niên nam nữ trong xã phấn khởi xin thoát ly tham gia kháng chiến, gia nhập lực lượng vũ trang.
Sau đồng khởi giải phóng, địch không còn kiểm soát được xã Ninh Phước. Tháng 6.1962, chúng sử dụng một trung đoàn có máy bay, xe lội nước, tàu hải quân đến bao vây xúc nhân dân thôn Đầm Vân và đưa trước các gia đình ngụy quân, ngụy quyền ở hai thôn Ninh Tịnh và Ninh Yển vào xóm Bóng Nha Trang. Ba ngày sau đó, chúng bốc tất cả số dân còn lại vào khu tập trung Động Dương (nay thuộc xã Ninh Thủy), dùng dây thép gai rào bao quanh để giữ dân, sau đó, chúng đưa lên lập khu tập trung Ba Làng, xã Ninh Phụng. 17 gia đình (gồm 72 khẩu) của 2 thôn Đầm Vân và Ninh Tịnh kiên quyết không để địch bắt tập trung, đã thoát ra rừng bám lại quê hương làm ăn sinh sống, chịu đựng gian khổ, ác liệt, tham gia kháng chiến cho đến ngày toàn thắng tháng 4.1975.
Sau khi hốt hết dân, toàn bộ nhà cửa, thôn xóm trong xã bị địch triệt hạ, dùng làm nơi cho máy bay Mỹ tập thả bom, phóng róc-két. Hơn 600 trâu bò của nhân dân bị giết sạch. Cuộc đồng khởi giải phóng thắng lợi có tiếng vang lớn, nhưng lợi bất cập hại, ta mất đi một vùng dân cư có phong trào cách mạng mạnh trong căn cứ Hòn Hèo. Cuộc sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, tổn thất.
Sau đồng khởi giải phóng xã Ninh Phước, vào tháng 4.1962, Huyện ủy Bắc Ninh Hòa - Vạn Ninh mở hội nghị cán bộ của hai huyện tại Suối Dứa (Đá Bàn) Ban cán sự huyện Nam Ninh Hòa mở hội nghị tại Hòn Lớn để quán triệt và xây dựng kế hoạch triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn tỉnh lần đầu tiên trong thời kỳ chống Mỹ ( tháng 2.1962).
Trong đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ mới, cả hai huyện đều nhận thấy sau một năm hoạt động, phong trào cách mạng của hai huyện có bước phát triển khá, nhất là huyện Bắc Ninh Hòa, tuy lực lượng vũ trang của ta ít, nhưng đã liên tục tiến công địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại đáng kể. Ách kèm của địch nhiều nơi lõng từng mảng, nhất là ở: Ninh An, Ninh Thọ, và các thôn ven biển xã Ninh Diêm (nay là Ninh Thủy)… Quần chúng phấn khởi, cơ sở phát triển khá, phong trào được khôi phục và mở rộng tương đối nhanh. Các đơn vị vũ trang được bổ sung quân số và trưởng thành một bước quan trọng. Địch bắt đầu núng thế, tinh thần tề ngụy hoang mang, bắt đầu co cụm chống đỡ, không còn ngông nghênh như trước. Nói chung, đến cuối năm 1961, đầu năm 1962, phong trào cách mạng của huyện đang chuyển sang thế tiến công, và đúng như nhận định của cấp trên "thời kỳ ổn định của chế độ Diệm đã qua, thời kỳ suy sụp và khủng hoảng nghiêm trọng đã bắt đầu". Tuy nhiên, so với yêu cầu của nhiệm vụ mở đồng bằng, thực lực cách mạng của hai huyện còn quá mõng và còn gặp khó khăn trên nhiều mặt.
Từ tình hình cụ thể của huyện kết hợp với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn tỉnh, cả hai hội nghị đều nhấn mạnh các nhiệm vụ lớn là tập trung sức xây dựng cơ sở, phá kế hoạch gom dân lập "ấp chiến lược" của địch. Tích cực bám dân, bám cơ sở, đào hầm bí mật, chú trọng các vùng sâu đông dân, ven đường giao thông chiến lược và căn cứ quân sự của địch. Khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển mạnh dân quân du kích, xây dựng căn cứ phía sau. Riêng Nam Ninh Hòa còn nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển cơ sở vào trung tâm thị trấn. Cả hai hội nghị đều động viên toàn thể cán bộ chiến sĩ phát huy cao hơn nữa quan điểm tự lực tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, nắm vững phương châm "hai chân, ba mũi giáp công" đánh bại quốc sách "ấp chiến lược của địch".
ĐÁNH BẠI QUỐC SÁCH "ẤP CHIẾN LƯỢC" CỦA ĐỊCH.
Trước sự phá sản của chế độ thống trị bằng chính sách độc tài phát xít, thông qua quốc sách "tố Cộng, diệt Cộng", để quốc Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của bộ máy ngụy quyền Sài Gòn tay sai của chúng.
"Chiến tranh đặc biệt" là một hình thức chiến tranh thực dân mới, loại chiến tranh không tuyên bố. Dùng tay sai ngụy quân, ngụy quyền với vũ khí, phương tiện chiến tranh và viện trợ tài chánh của Mỹ, do Mỹ chỉ huy và có các binh chủng kỹ thuật hiện đại của Mỹ yểm trợ.
Thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đế quốc Mỹ sử dụng nhiều biện pháp chiến lược rất thâm độc, trong đó, biện pháp dồn dân lập "ấp chiến lược" chúng nâng lên thành quốc sách để chống lại cách mạng Việt Nam. Biện pháp này, đế quốc Mỹ rút kinh nghiệm của thực dân Anh dùng chống du kích Malaixia thành công, nâng lên mức hoàn thiện, đưa vào áp dụng chống du kích Việt Nam, tách lực lượng cách mạng Việt Nam ra khỏi dân để tiêu diệt. Ngày 28.1.1960, đế quốc Mỹ thông qua kế hoạch chống nổi dậy ở miền Nam Việt Nam.
Giữa năm 1961, Mỹ vạch ra kế hoạch chiến lược Sta-lây-tay-lo với tham vọng bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (7.1961-12.1961). Nội dung cơ bản của kế hoạch này là "Tát cạn nước để bắt cá", đẩy cách mạng ra khỏi dân bằng cách gom dân vào các "ấp chiến lược". "Ấp chiến lược" được rào, tập trung dân theo kiểu trại lính, có lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, phòng vệ dân sự bên trong kìm kẹp, kiểm soát dân chúng. Bên ngoài dùng chiến thuật "Trực thăng vận", "Thiết xa vận" yểm trợ, dùng chiến thuật "bủa lưới phóng lao" để tiêu diệt "Việt Cộng". Thực hiện âm mưu ấy, đế quốc Mỹ tăng viện trợ, đẩy mạnh xây dựng và phát triển quân ngụy. Mặt khác, Mỹ nghiên cứu đến khả năng đưa quân Mỹ vào tham chiến khi cần thiết, trước mắt đưa sang một lực lượng đặc biệt, tăng số lượng lớn cố vấn quân sự Mỹ và nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại cho ngụy quyền Sài Gòn.
Trong tình hình đế quốc Mỹ và tay sai leo thang mở rộng chiến tranh, dùng "chiến tranh không tuyên bố" để chống lại phong trào cách mạng của nhân dân ta. Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp tháng 1.1961 quyết định đưa đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự là một phương châm công tác căn bản, cần vận dụng một cách linh hoạt ở khắp 3 vùng chiến lược: "rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị".
Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng đầu năm 1962 lại tiếp tục vạch rõ: Mỹ-Diệm đang tiến hành cuộc "chiến tranh đặc biệt", miền Nam đang ở trong tình thế một cuộc chiến tranh yêu nước chống xâm lược của nhân dân ta. Cuộc chiến tanh đó rất nguy hiểm, nhưng căn bản chúng vẫn đẩy mạnh các âm mưu khủng bố đã có từ trước. Do đó, đường lối, phương hướng, phương châm chỉ đạo đấu tranh không có gì thay đổi, vẫn là đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để đánh bại cuộc "chiến tranh đặc biệt" của địch".(46)
Ở Ninh Hòa, cuối năm 1962, địch tăng cường trang bị, thay đổi vũ khí tốt hơn cho quân ngụy, bắt đầu đôn các tổng đoàn dân vệ thành nghĩa quân, trang bị trung liên, máy bộ đàm PRC10, nhằm tăng sức mạnh lực lượng yểm trợ kèm dân tại chổ của địch; tăng cường bắt lính, phát triển dân vệ, thanh niên chiến đấu, trang bị bằng súng "phà"- loại súng của Ma-lai-xi-a bắn đạn ria rất lợi hại. Đồng thời tích cực, khẩn trương thực hiện kế hoạch gom dân lập "ấp chiến lược". Địch coi đây là biện pháp, là điều kiện sống còn của chế độ Mỹ-Diệm. Chúng nêu khẩu hiệu "ấp chiến lược hay là chết" tập trung mọi nổ lực, mọi phương tiện cần thiết để thực hiện và quyết hoàn thành vào cuối năm 1962 trên địa bàn toàn huyện.
(46). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.
Mở đầu thực hiện kế hoạch, địch đẩy mạnh càn quét các vùng giáp ranh rừng núi. Bên trong, cùng một lúc chúng đưa các đoàn cán bộ, chuyên viên kỹ thuật đã được đào tạo, tập huấn kỹ lưỡng, có lực lượng quân sự yểm trợ xuống các thôn bắt dân bỏ việc nhà, bỏ sản xuất để rào "ấp chiến lược".Chúng phân chia đồng bằng Ninh Hòa thành hai tuyến để xây dựng: tuyến vòng ngoài gần rừng núi và tuyến nằm trong vùng sâu gần trung tâm quận lỵ. Chúng tiến hành trước nhất ở những thôn có phong trào cách mạng mạnh, có vị trí xung yếu tiếp giáp với căn cứ của ta. Ở mỗi vùng, chúng tập trung xây dựng một số thôn kiểu mẫu, để các thôn khác rút kinh nghiệm làm theo, từ đó sẽ triển khai rộng ra toàn vùng, toàn huyện. Ở huyện Nam Ninh Hòa, chúng làm trước ở các thôn Tân Hưng (xã Ninh Hưng) Vạn Hửu, Phú Hòa (xã Ninh Quang); phía Đông, ở các thôn Hội Phú, Hội Điền (xã Ninh Phú). Phía Bắc, ở các thôn Xuân Phong, Lạc Ninh (xã Ninh Thọ), Lạc Hòa (xã Ninh An). Ở vùng Hòn Khói, chúng chọn thôn Phú Thọ (xã Ninh Diêm) xây dựng thành ấp kiểu mẫu cho toàn Bắc Khánh, lấy tên là ấp "Đôn Tín", tên của viên đại sứ Mỹ đỡ đầu cho công trình kiểu mẫu này. Những thôn thưa dân, gần bìa rừng chúng bắt dồn vào các thôn vùng sâu bên cạnh như: thôn Phước Mỹ dồn sang các thôn Phú Đa, Phụng Cang (xã Ninh Hưng); các thôn Tiên Du, Hội Thành dồn lên Hội Phú, Hội Bình (xã Ninh Phú). Riêng các thôn Cung Hòa, Quảng Thiện, Gia Mỹ chúng dồn xuống thôn Sơn LộcThượng, xây dựng thành khu tập trung kiểu mẫu ở Vườn Dương (xã Ninh An) lấy tên là khu Hòa - Thiện (Cung Hòa và Quảng Thiện).
Tùy theo địa hình tự nhiên từng nơi, chúng bắt dân xây dựng theo các mô hình: "1 sông 1 núi hay 2 sông, 2 núi" có nghĩa là 1 đường hào và 1 vòng rào, hoặc 2 đường hào và 2 vòng rào, chạy song song với nhau bao bọc xung quanh ấp. Hàng rào phải cao 2,5 mét, đường kính cây rào từ 0,15 đến 0,20 mét, đầu cây vạc nhọn. Hào phải sâu 1,5 mét, rộng 2,5 mét trở lên, dưới nền đáy và 2 bên thành hào phải cắm chông lá.
Thiết kế xong, chúng phân lô, phân đoạn giao khoán cho từng hộ lên rừng chặc cây, lấy dây về rào, hoàn thành đúng thời gian quy định, dây dưa kéo dài là thân Cộng, sẽ bị khủng bố. Rào xong phải thường xuyên tu bổ, "Việt Công" vào ra ấp được ở đoạn hộ nào hộ đó phải chịu trách nhiệm, tức phải chịu đánh đập, tù đày. Các ấp vùng đất cát ven biển chúng còn bắt rào thêm một lớp rào vòng ngoài bằng cây gai bàn chải. Vùng ven rừng chúng bắt rào xen cây tre gai sống cho thêm bền chắc.
Ở những khu dân cư sống tập trung, thôn xóm liền nhau chúng bắt rào một hàng rào liên ấp, liên xã như: Vòng rào từ ấp Phú Thọ (xã Ninh Diêm) đến ấp Bình Tây (xã Ninh Hải). Ở bên trong, chúng bắt dân các ấp vào vòng rào của ấp, bằng dây kẻm gai và trụ sắt do chúng bán. Ở mỗi cửa ra vào ấp phải xây bót gác để kiểm soát người ra vào, có chòi cao để quan sát từ xa, có công sự chiến đấu, có kẻn để báo động, có đường dây điện thoại nối với trụ sở ấp, hay xã.
Bên trong ấp, chúng tăng cường bộ máy kiểm soát, tổ chức lực lượng dân vệ, thanh niên chiến đấu, màng lưới thám báo, gián điệp, chỉ điểm, bắt dân vào các ngụy đoàn thể, các tổ chức chính trị phản động, các tôn giáo và phân hộ nhân dân thành 3 loại: gia đình cộng sản, thân cộng sản, không có quan hệ với cộng sản và có xu hướng quốc gia. Từng loại hộ phải có biển màu khác nhau như: "đỏ, vàng, xanh" hay "đỏ, hồng, xanh" để có kế hoạch kìm kẹp, kiểm soát từng loại phù hợp chặt chẽ.
Ở khu tập trung Hòa Thiện (Vườn Dương) do tên Tầm Bửu, Quận trưởng trực tiếp đưa Đại đội Bảo an, đích thân y chỉ huy điều hành xây dựng và càn quét bắt dân dồn vào. Chúng xây dựng khu Vườn Dương có hầm hào, công sự chiến đấu như một cứ điểm quân sự của chúng.
Lễ khánh thành "ấp Đôn Tín" xã Ninh Diêm được chúng tổ chức rất trọng thể, có cố vấn Ngô Đình Nhu và 2 cố vấn Mỹ đến dự. Trong buổi lễ, chúng tổ chức diễn tập chống "Việt Cộng" xâm nhập, với quy mô lực lượng gồm 1 đại đội bảo an, 1 trung đội nghĩa quân, lực lượng dân vệ và thanh niên chiến đấu của ấp, trước sự chứng kiến của các quan chức cao cấp ngụy quyền Sài Gòn. Và bắt đầu từ đó, cứ 7 giờ sáng hàng ngày nhân dân mới được ra khỏi ấp đi làm, 17 giờ phải về đủ mặt tại ấp. Vào những ngày kỷ niệm các sự kiện lịch sử của ta và kể cả của chúng, chúng đều tập trung lực lượng tuần tra, canh gác, gài thêm mìn, lựu đạn, tăng thêm bàn chông sắt di dộng, lúc đặt ở đoạn này, lúc ở đoạn khác, có nơi còn bắt dân xách đèn dầu, người này đi giáp đến người kia rồi trở lại, ở các hướng rào xung yếu suốt đêm, giữ không để "Việt Cộng" đột nhập vào ấp. Đứng bên ngoài nhìn vào tưởng chừng không sao chui vào lọt, và thấy cảnh đồng bào ta bị địch hành hạ hết sức đau lòng.
Trong "chiến tranh đơn phương" bằng "quốc sách Tố Cộng, diệt Cộng", bằng biện pháp bắt cán bộ kháng chiến cũ và cơ sở cách mạng nhốt vào các nhà tù, để tách cách mạng ra khỏi quần chúng rất tốn kém, nhưng Mỹ-Diệm đã không thành công. Nay trong "chiến tranh đặc biệt", bằng quốc sách "ấp chiến lược" Mỹ-Diệm nhốt dân tại chổ trong từng ấp, dùng mọi thủ đoạn hết sức nham hiểm để tổ chức cho nhân dân tự kìm kẹp, trói buộc khống chế lẫn nhau, để ngăn cách giữa cách mạng với nhân dân bằng các lớp rào "ấp chiến lược", được xây dựng từ tiền của, công sức của dân, ít tốn kém, nhưng rất lợi hại. Hình thức này đã được thử nghiệm thành công ở Malaixia, được Mỹ-Diệm đưa vào Nam Việt Nam để chiến thắng "Cộng sản". Đó là một nguy cơ thách thức nghiêm trọng đối với sự nghiệp cách mạng, đối với nhiệm vụ giành dân giành quyền làm chủ mở rộng phong trào đồng bằng của Đảng bộ, quân và dân huyện ta.
Việc xây dựng "ấp chiến lược" của địch lúc đầu có gây cho ta một số khó khăn về vấn đề tiếp tế lương thực, về đi lại hoạt động. Nhân dân bị đẩy vào cảnh sống trại lính, nhà tù, gây tổn hại đến lợi ích của toàn dân, làm đảo lộn tập quán lao động cần cù "một nắng hai sương" của đồng bào, nhân dân hết sức bất bình và chống đối quyết liệt.
Được sự lãnh đạo của Đảng bộ và sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng vũ trang, khi địch bắt đầu hùng hổ triển khai kế hoạch xây dựng thì nhân dân cũng bắt đầu chống phá theo khẩu hiệu của Đảng "dân làm dân phá", "địch bắt làm lại, dân lại phá". Phá dưới mọi hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp. Vừa quyết liệt vừa khôn khéo, sáng tạo.
Từ thụ động tìm mọi lý lẽ như đau ốm, mùa vụ… để dây dưa kéo dài, đủ cây thì thiếu dây, có dây thì cây sắp mục. Đến những hình thức tích cực, quyết liệt như nhờ lực lượng vũ trang bên ngoài nổ súng, thu rựa (thực tế là đồng bào cho ta) chận đánh các toán địch đưa dân ra rừng đốn cây, tạo cớ cho nhân dân đấu tranh kéo dài việc xây dựng ấp; yêu cầu bộ đội về ấp cùng với dân phá, hoặc có cớ để dân phá. Rào chừa khoản không cột dây để cán bộ ra vào ấp hoạt động, rào xong tự tay bí mật đốt rồi tung tin do "Việt Cộng" đốt, dùng trâu bò húc ngã, lợi dụng lũ lụt đẩy rào cuốn trôi theo dòng nước. Địch bắt trồng xen cây sống thì đốt gốc trước khi trồng. Lợi dụng mùa mưa lụt, binh lính địch ra rút rào làm củi, lính phá rào, dân cả ấp cũng ra tháo dỡ phần cây của gia đình đem về một cách hợp pháp.
Nhiều ấp làm đi làm lại nhiều lần, có nơi như Ninh An, Ninh Thọ hai năm sau vẫn chưa rào xong. Một số ấp rào xong, cơ sở vẫn tiếp tục nuôi giấu cán bộ cách mạng nằm trong ấp để hướng dẫn nhân dân đấu tranh. Ấp Vạn Hữu (xã Ninh Quang), cán bộ hợp pháp bên trong nắm được đông đảo nhân dân, hình thành được thế dân làm chủ trong "ấp chiến lược" của địch. Phòng vệ dân sự, thanh niên chiến đấu nhiều nơi ta nắm, chi phối hoặc sử dung vào việc báo cáo tình hình, canh gác, đưa đón cán bộ ra vào ấp hoạt động. Liên toán trưởng phòng vệ dân sự ấp Lạc Hòa xã Ninh An, ấp Xuân Hòa xã Ninh Phụng là bí thư chi bộ Đảng của ta, nhà có hầm bí mật nuôi dấu cán bộ. Thanh niên chiến đấu xã Ninh Thọ và một tiểu đội ở ấp Phú Hòa, Vạn Hữu (xã Ninh Quang), bên ngoài là của địch, bên trong là du kích của ta. Nhân dân nhiều ấp vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ kháng chiến. Nhân dân ấp Lạc Hòa (xã Ninh An) sử dụng phòng vệ dân sự hỗ trợ, dùng xe bò chở một lúc 300 giạ lúa ra căn cứ. Ấp kiểu mẫu "Đôn Tín" (xã Ninh Diêm) cùng với các ấp Phú Hòa, Vạn Hữu (xã Ninh Quang) phối hợp đưa từng xe lam muối ăn và hàng hóa lên xã Ninh Quang tiếp tế cho huyện Nam Ninh Hòa.
Hỗ trợ cho phong trào phá "ấp chiến lược" của nhân dân, Đảng bộ hai huyện Nam-Bắc Ninh Hòa, đã chỉ đạo các đơn vị vũ trang liên tục tiến công địch.
Đầu năm 1962, tiểu đội vũ trang huyện Nam Ninh Hòa về ấp Thanh Mỹ (xã Ninh Quang) gặp toán phòng vệ dân sự của địch đi tuần, chúng tháo chạy, ta vây bắt được 4 tên, thu 3 súng, ta giải thích chính sách rồi thả tại chổ.
Ngày 11.4.1962, tiểu đội vũ trang lót lực lượng ban ngày, tập kích vào trụ sở ngụy quyền xã Ninh Hưng, nhằm tiêu diệt bọn ngụy quyền gian ác, đang khủng bố bắt dân rào ấp chiến lược. Trụ sở có hầm hào, rào cản, công sự phòng thủ, nhà lính, nhà làm việc, do một toán dân vệ trang bị bằng súng garan, các-bin, lựu đạn canh gác, bảo vệ. Trong trụ sở có nuôi chó để ban đêm phát hiện người đột nhập trụ sở. Hàng ngày, 7 giờ sáng bọn ngụy quyền mới đến trụ sở làm việc.
Lực lượng ta có tiểu đội vũ trang, 2 cán bộ đội công tác, có cả đồng chí Bí thư Ban Cán sự huyện và một cán bộ tác chiến của Ban Quân sự tỉnh cùng tham gia trận đánh.
Đêm ngày 10.4, ta sử dụng cơ sở (anh Nguyễn Hửu Tình) dùng thuốc độc trộn vào thức ăn diệt chó, sau đó, ta đưa lực lượng lót vào bên trong và mai phục dưới ruộng lúa trước trụ sở. Đúng 7 giờ ngày 11.4, bọn ngụy quyền và toán dân vệ kéo đến trụ sở, toàn bộ lực lượng ta ở bên trong và bên ngoài đồng loạt nổ súng xung phong. Tên xã trưởng bị thương chạy thoát, ta diệt tên lính gác, bắt sống toàn bộ toán dân vệ và tên xã phó, thu 13 súng các loại và một máy đánh chữ. Số dân vệ ta tập trung cảnh cáo, giáo dục rồi thả tại chổ, tên xã phó ta đưa về căn cứ xử trị. Ta thu đốt toàn bộ tài liệu trụ sở, treo cờ Mặt trận rồi rút lui an toàn.
Trận đánh rất táo bạo, thắng lợi xuất sắc, ảnh hưởng chính trị lớn, quần chúng phấn khởi, tề ngụy rúng động hoang mang. Thừa thắng, những ngày sau đó, đội vũ trang ban ngày đột nhập vào ấp Tân Hưng (xã Ninh Hưng) truy quét bọn tề điệp, phòng vệ dân sự, phát động nhân dân phối hợp phá vòng rào liên ấp chiến lược phía Nam xã.
Đêm ngày 22.9.1962, Tiểu đoàn Sông Lô của tỉnh (khoảng 1 đại đội) do đồng chí Nhơn, Tiểu đoàn trưởng chỉ huy, phối hợp với đội vũ trang huyện do đồng chí Nguyễn Tấn Liễn chỉ huy, tổ chức trận pháo kích vào Trung đội nghĩa quân đóng tại đình thôn Phụng Cang. Đêm thực hành trận đánh, ta vừa pháo kích, vừa phát loa tuyên truyền phổ biến chính sách của Mặt trận Giải phóng ở thôn Phước Mỹ. Địch trong đình lớp chết, lớp chui vào công sự phòng thủ, Trung đội dân vệ biệt kích số 23P/36 quận Ninh Hoà đang hoạt động tại xã Ninh Quang chi viện vào bị ta đánh thiệt hại nặng, nhiều tên chết và bị thương tại trận, trong đó có tên trung đội trưởng, số sống sót nhào xuống sông chạy thoát. Cánh thứ hai của địch, do đêm tối ta không phát hiện được, bị chúng đánh tạt sườn, đồng chí Nguyễn Tấn Liễn đội trưởng đội vũ trang huyện và một số chiến sĩ hy sinh. Trên dường rút quân ta bị trung đội bảo an địch phục kích đường về tại mương Ba Phước Mỹ, ta và địch đánh nhau ác liệt, cả hai bên bị thương vong thêm một số.
Trận đánh ta thắng không gọn và bị thương vong khá nhiều, nhưng ảnh hưởng rất lớn, làm rúng động tinh thần tề ngụy địa phương. Tạo được điều kiện thuận lợi để nhân dân hai xã Ninh Hưng và Ninh Quang tiếp tục phá banh từng mảng rào "ấp chiến lược". Đến Thu-Đông năm 1963, lợi dụng lũ lụt lớn, nhân dân đẩy tiếp các đoạn rào còn lại trôi theo nước và rút cây đem về nhà làm củi nhóm bếp. Quốc sách ấp chiến lược của địch chưa hoàn thành, đã bị nhân dân đánh bại về cơ bản.
Ở huyện Bắc Ninh Hòa, ngày 13.6.1962, lực lượng vũ trang huyện chận đánh tổng đoàn dân vệ xã Ninh Diêm tại ấp Mỹ Lương, diệt nhiều tên, thu 5 súng. Mấy ngày sau đó, chận đánh tiếp trung đội nghĩa quân của xã này ở phía Tây cầu Mống, diệt một số tên, thu vũ khí. Địch ở Ninh Diêm phải co về phòng thủ giữ các ấp vùng này.
Đêm 20.6.1962, tập kích toán dân vệ xã Ninh Thọ ở ấp Ninh Điền, diệt 2 tên, làm bị thương 8 tên, thu một súng phà. Phối hợp với tấn công quân sự của huyện, đêm ngày 6.6.1962, một bộ phận của Tiểu đoàn 120 liên tỉnh tập kích tiêu diệt chốt bảo vệ cầu Suối Chình trên quốc lộ 21 do một trung đội của Trung đoàn 18, Sư đoàn 9 đóng giữ diệt tại trận 11 tên, thu 13 súng các loại và 1 bộ đàm PRC10.
Phối hợp với tấn cộng quân sự diễn ra khắp nơi trên địa bàn huyện và nhân lúc địch tập trung lực lượng vào việc xây dựng các "ấp chiến lược" và đối phó với lực lượng ta ở tuyến ngoài, bên trong sơ hở, đội vũ trang công tác các xã luồn vào vùng sâu đào hầm bí mật, bám dân xây dựng cơ sở.
Năm 1962 là năm mà địch và ta quần nhau ác liệt ở đồng bằng. Địch gom dân, lập "ấp chiến lược", ta chống phá "ấp chiến lược". Địch cố sức đẩy lực lượng ta ra khỏi nhân dân, khỏi đồng bằng. Ta tích cực, kiên trì và anh dũng bám làng, bám dân xây dựng cơ sở, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống phá quốc sách "ấp chiến lược" của địch.
Đến cuối năm 1962, các "ấp chiến lược" kiểu mẫu của địch, phần lớn mới xây dựng được tuyến rào từ hướng rừng núi vào, bên trong còn dỡ dang, nham nhở chưa nơi nào làm xong. Trong lúc đó, qua đấu tranh chống phá quốc sách" ấp chiến lược" cơ sở và phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Ninh Hoà từng bước mở rộng và đi lên.
Trước tình hình đó, sang năm 1963, địch tiến hành bao vây bóp nghẹt về kinh tế, không cho dân, nhất là dân ở các thôn gần rừng núi để nhiều lúa gạo và muối ăn tại nhà. Mặt khác, sử dụng lực lượng từng đại đội tấn công càn quét sâu vào các căn cứ Đá Bàn, Hòn Hèo, Hòn Lớn. Cho thám báo, gián điệp hàng ngày theo dõi phát hiện lực lượng ta ở các vùng giáp ranh. Bên trong chúng tập trung lực lượng đưa xuống tất cả các thôn xã, khủng bố, bắt dân khẩn trương hoàn thành việc rào làng, lập "ấp chiến lược" đại trà ra toàn huyện.
Phong trào cách mạng và lực lượng vũ trang ta ở cả hai huyện phía Nam và phía Bắc đến lúc này tuy có bước phát triển khá nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ còn rất thấp. Song, đấu tranh đánh bại quốc sách "ấp chiến lược" của địch cũng là vấn đề sống còn của cách mạng, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của hai Đảng bộ. Do vậy, trong năm 1963, Huyện ủy Bắc Ninh Hòa và Ban Cán sự huyện Nam Ninh Hòa, sử dụng lực lượng vũ trang hai huyện phối hợp chặt chẽ với nhân dân, vận dụng phương châm 2 chân, 3 mũi giáp công đấu tranh chống trả quyết liệt âm mưu và hành động cực kỳ phản động của địch.
Ở Bắc Ninh Hòa, đầu tháng 3.1963, Trung đội vùng Tây phục kích ban ngày, đánh thiệt hại nặng Trung đội dân vệ xã Ninh Thọ, diệt và làm bị thương gần 1 tiểu đội, bắt sống tên tiểu đội trưởng, thu 1 tiểu liên tông-xông (Thomspon) và 2 súng trường. Tuy vậy, địch vẫn bắt dân tiếp tục rào, nhân dân ban ngày rào, ban đêm tổ chức đốt phá, rồi viện cớ địch không giữ được "Việt cộng" phá rào, đấu tranh không rào nữa, địch phải bỏ luôn việc làm này.
Tháng 5.1963, đơn vị vùng Tây tiếp tục phục kích ban đêm tại cầu Mống, phía Nam chợ Lạc An, đánh thiệt hại nặng Trung đội nghĩa quân. Tháng 7.1963, tập kích trụ sở ngụy quyền xã Ninh Thọ, diệt một số tên ngụy quyền và dân vệ, thu 3 súng, có 1 tiểu liên tông-xông, 1 máy đánh chữ, 1 máy phát điện và toàn bộ tài liệu của địch trong trụ sở.
Trên đường sắt, đoạn dốc Đá Trắng đến cầu Nước Mặn huyện Vạn Ninh, lực lượng huyện dùng cơ-lê tháo miếng áp đường ray, bố trí lực lượng dùng mìn đánh 3 trận, lật 3 đoàn tàu lửa quân sự địch, phá hỏng 3 đầu máy, 12 toa chở vũ khí quân dụng, diệt nhiều sinh lực, phá hỏng nhiều hàng quân sự, làm tắt nghẽn nhiều ngày liền việc vận chuyển trên trục giao thông quan trọng này của địch.
Nhân dân hai xã Ninh An, Ninh Thọ phối hợp với tấn công quân sự vừa hù dọa, vừa tranh thủ bọn tề ngụy trong xã và bằng lý lẽ hợp pháp, có lý, có tình đấu tranh trì hoãn, kéo dài việc rào làng, lập ấp. Các "ấp chiến lược" của hai xã bị chặn lại cho đến ngày đồng khởi giải phóng 1964, được cải biến, bổ sung thành hàng rào làng chiến đấu của ta.
Vùng dân tộc phía Tây huyện (dân do huyện miền núi Vĩnh Khánh quản lý). Địch dồn Buôn Tương, buôn Xanh thành một ấp, buôn Sim, buôn Lác thành một ấp, riêng buôn Đun thành một ấp, bắt nhân dân rào xung quanh như "ấp chiến lược" của người kinh. Đôn tất cả dân vệ thành nghĩa quân để bảo vệ ấp, nhưng từ nhân dân đến nhân viên ngụy quyền, nghĩa quân đều đoàn kết giữ vững niềm tin và lòng trung thành với cách mạng, với Bác Hồ kính yêu, luôn tích cực ủng hộ và tham gia kháng chiến. Nhiều lúc nghĩa quân còn tham gia bảo vệ trục đường giao liên của ta qua lại Quốc lộ 21.
Trước nguy cơ "quốc sách ấp chiến lược" bị đánh bại, Mỹ-Diệm đẩy mạnh bình định, tăng cường khủng bố, đánh phá ác liệt phong trào cách mạng của nhân dân, đàn áp phong trào đấu tranh của Phật giáo, học sinh, sinh viên, làm tăng thêm sự bất bình của các tầng lớp nhân dân. Học sinh, sinh viên thị trấn Ninh Hòa và các xã Ninh Đa, Ninh Phụng phối hợp với học sinh, sinh viên Nha Trang bãi khóa, xuống đường phân phát truyền đơn, dán áp phích phản đối chính phủ Trần Văn Hương đàn áp sinh viên, bắt giáo sự Lê Quang Vịnh. Tăng ni, phật tử nổi dậy đấu tranh chống chính sách phân biệt đối xử, đàn áp Phật giáo, khủng bố thầy tu của chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm. Ngày 18.8.1963, ni cô Diệu Quang (tức Nguyễn Thị Thu Minh) tự thiêu phản đối Diệm trước trụ sở "Phong trào cách mạng quốc gia" quận. Như lửa đổ thêm dầu, phong trào đấu tranh của Phật giáo chống Diệm càng sôi sục dâng cao, hòa vào phong trào đấu tranh chống phá "ấp chiến lược" thành mặt trận đấu tranh của toàn dân chống Mỹ-Diệm rất rộng rãi và mạnh mẽ.
Con bài Ngô Đình Diệm đến lúc này không còn tác dụng tích cực. Ngày 1.11.1963, đế quốc Mỹ làm đảo chính quân sự giết chết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, đưa tướng Dương Văn Minh lên thay Diệm làm Tổng thống. Rồi lại lật đổ Dương Văn Minh, đưa tướng Nguyễn Khánh lên thay… Nội tình ngụy quyền Sài Gòn rối bời. Tiếc rằng lực lượng cách mạng của huyện còn yếu, không tranh thủ được cơ hội thuận lợi này, để phát triển phong trào lên cao hơn.
Tuy vậy, đối với phong trào đồng bằng, từ năm 1961-1962, Huyện ủy Bắc Ninh Hòa cũng như Ban cán sự huyện Nam Ninh Hòa chủ trương chọn trong số thanh niên và cán bộ kháng chiến cũ thoát ly ra căn cứ, bồi dưỡng về chính trị, về phương thức công tác, rồi bố trí trở về lại địa phương xây dựng cơ sở, gầy dựng phong trào. Đồng thời sử dụng lực lượng vũ trang 2 huyện liên tục tấn công địch buộc chúng phải co về phòng thủ, ách kèm của địch bị phá lõng ở nhiều nơi, quần chúng phấn khởi, cán bộ, chiến sĩ ta là những người của địa phương vừa thoát lý ra, nên nhiệm vụ xây dựng và phát triển cơ sở thuận lợi và hiệu quả khá. Đến năm 1963, phong trào cách mạng từng bước được khôi phục, cơ sở phát triển rộng rãi ở nhiều nơi.
Ở Bắc Ninh Hòa, các thôn ven biển xã Ninh Diêm (nay là xã Ninh Thủy) từ khi đồng chí Phạm Thiệu về bắt mối xây dựng, mặc dù bị địch bắt rào làng, kiểm soát nhân dân rất chặt, đồng chí vẫn bám được trong dân, cơ sở mở rộng, phong trào phát triển lên thế dân làm chủ. Phía Đông nam huyện, năm 1963, Huyện ủy thành lập tổ công tác do lực lượng vũ trang đưa sang, do đồng chí Thành (Thành Lúa) quê ở xã Ninh Giang làm tổ trưởng, đứng hoạt động ở phía Tây và Tây nam Hòn Hèo, cơ sở ở các ấp phía Đông các xã Ninh Đa, Ninh Phú, Ninh Giang, nhất là ở các ấp Hà Liên, Tân Tế xã Ninh Hà phát triển rất nhanh.
Số đồng bào sống bất hợp pháp ở các thôn Đầm Vân, Ninh Tịnh cùng với trung đội vũ trang và cán bộ các xã Ninh Diêm, Ninh Hải tổ chức việc ăn ở, sản xuất, bố phòng ổn định cuộc sống, thanh niên tham gia du kích, gia nhập bộ đội cùng nhau xây dựng khu vực thôn Ninh Tịnh thành hậu cứ, làm chỗ dựa cho lực lượng và phòng trào kháng chiến phía Đông bắc huyện.
Ở vùng Tây, từ bàn đạp xã Ninh Đông, ta phát triển được nhiều cơ sở vào các thôn vùng ven quận lỵ và dọc theo quốc lộ 21 như: Quan Đông (Ninh Đông), Điềm Tịnh, Xuân Hòa, Đại Cát (xã Ninh Phụng), Phước Lâm, Văn Thạch (xã Ninh Xuân). Ở hai xã Ninh An, Ninh Thọ, cơ sở phát triển hầu khắp các thôn, phát triển được đảng viên, thành lập chi bộ mới nằm trong dân vùng địch kiểm soát để trực tiếp lãnh đạo nhân dân. Mặc dù địch kiểm soát rất gắt gao, hàng ngày cơ sở vẫn ra vùng rừng Hòn Hấu gặp cán bộ phản ánh tình hình, bàn bạc công tác. Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy của huyện chuyển xuống đóng ở đồng bằng. Cơ quan huyện đội đóng ở dải rừng mương Quang, sát ấp Lạc Hòa. Cơ quan Huyện ủy đóng ở Hòn Miễu, thôn Gia Mỹ (xã Ninh An) trực tiếp chỉ đạo phong trào, chỉ huy đánh địch. Phong trào các xã phía Bắc huyện càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Huyện Nam Ninh Hòa, lực lượng cán bộ và đội vũ trang tuy ít, nhưng nhờ cơ sở phát triển đến đâu, cán bộ có hầm bí mật bám đến đó, cho nên, đến cuối năm 1963, cơ sở mở rộng ra được phần lớn các thôn trong huyện. Đặc biệt là từ bàn đạp xã Ninh Hưng và các thôn phía Tây xã Ninh Bình, Ban cán sự huyện đã phát triển được cơ sở vào quận lỵ, đồng chí Bí thư Ban cán sự huyện bám vào được trong trung tâm, thành lập được ban cán sự và chi bộ Đảng, nhờ đó đến trước năm 1968, trong quận lỵ ta xây dựng được trên 60 cơ sở, đào được 8 hầm bí mật bám dân, tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch. Ở xã Ninh Hưng, đầu năm 1964, phát triển được 2 đảng viên ở thôn Trường Lộc, cùng với đồng chí Huỳnh Sơn cán bộ bất hợp pháp bám trong thôn, thành lập chi bộ, do Huỳnh Sơn làm bí thư. Đây là chi bộ nằm trong vùng địch kiểm soát đầu tiên của huyện Nam Ninh Hòa. Do cơ sở phát triển rộng rãi, Nam và Bắc Ninh Hòa xây dựng nhiều cơ sở binh vận, cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch. Nam Ninh Hòa có nòng cốt nắm được một tiểu đội trong trung đội nghĩa quân xã Ninh Ích, cấy được một cơ sở từ lúc còn đang học cấp 2, đổ tú tài rồi đưa vào học ở Học viện quân sự quốc gia ngụy Đà Lạt. Sau 4 năm ra trường mang quân hàm thiếu úy, trung úy rồi đại úy chỉ huy trưởng tiểu đoàn địa phương quân, có thời gian làm nhiệm vụ huấn luyện trong quân trường Lam Sơn-Dục Mỹ. Cơ sở này đã cung cấp cho ta không ảnh khu căn cứ quân sự liên hợp Cam Ranh, sơ đồ bên trong quân trường Lam Sơn - Dục Mỹ để bộ đội ta tập kích, pháo kích, phá hủy hàng ngàn tấn bom đạn, phương tiện chiến tranh, tiêu diệt hàng trăm sĩ quan và binh lính địch; giao cho ta toàn bộ tài liệu chiến thuật quân sự của Học viện quân sự Đà Lạt để ta nghiên cứu, dùng xe Jeef chở cán bộ lãnh đạo huyện ra vào quận lỵ hoạt động, đào hầm bí mật bảo vệ bí thư Huyện ủy trong nhà và thường xuyên ủng hộ hàng hóa, nhu yếu phẩm cho cách mạng.
Tranh thủ nắm được Chủ tịch "phong trào cách mạng quốc gia" quận, qua đó ta theo dõi nắm được tình hình, âm mưu thủ đoạn và việc làm từng thời gian của địch để có kế hoạch đối phó phù hợp và kịp thời; làm hạn chế tác hại của tổ chức phản động này đối với phong trào cách mạng của nhân dân, nhà có hầm bí mật nuôi dấu cán bộ lãnh đạo huyện, cả gia đình đều tham gia cách mạng, con trai, con gái đều là tự vệ mật.
Cả hai huyện phía Nam và phía Bắc đều có cơ sở trong biệt động quân, bảo an, nghĩa quân, cán bộ kỹ thuật trong các ngành y tế, nông nghiệp của địch. Nhiều nhân viên ngụy quyền là xã trưởng, thành viên Hội đồng xã, ấp trưởng… hoạt động tích cực như che chở lính đào ngũ, thanh niên trốn bắt lính, bảo vệ cán bộ cách mạng nằm trong làng hoạt động…
Sau 2 năm Đảng bộ lãnh dạo nhân dân chống phá quốc sách "ấp chiến lược" của địch, thực lực và phong trào cách mạng có bước phát triển vượt bậc, hàng trăm thanh niên thoát ly gia đình tham gia kháng chiến, gia nhập bộ đội. Bắc Ninh Hòa đội vũ trang huyện từ 12 cán bộ, chiến sĩ năm 1961 đến đầu năm 1964, tự bổ sung, tự trang bị xây dựng thành 2 đại đội bộ binh, 1 tổ công binh và 1 tiểu đội trinh sát. Nam Ninh Hòa từ 1 tiểu đội phát triển lên 1 trung đội (thiếu). Ở các xã phong trào kháng chiến mạnh như Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Diêm phần lớn số thôn trong xã có du kích mật, mỗi xã có từ 1 đến 2 tiểu đội du kích tập trung trang bị đầy đủ.
Đến đầu năm 1964, tỉnh Khánh Hòa trực thuộc trở lại Khu V, theo yêu cầu của chiến trường và chỉ thị của Ban Chỉ huy Tỉnh đội, huyện Bắc Ninh Hòa thành lập Cơ quan quân sự huyện (Huyện đội) lấy mật danh là H70, để làm nhiệm vụ tham mưu cho Đảng bộ và chỉ huy các lực lượng vũ trang, dân quân du kích trên địa bàn. Ban Chỉ huy do Võ Danh huyện đội trưởng, Lê Ngọc Cuộc chính trị viên, Lê Xuân Đức huyện đội phó, Lê Khá chính trị viên phó. Hai Xã đội thành lập đầu tiên là xã đội Ninh An, do Trần Hùng (tức Hải) làm xã đội trưởng và xã đội xã Ninh Thọ, do Trần Long (tức Vinh) làm Xã đội trưởng.
Đồng thời với tấn công đánh phá "quốc sách ấp chiến lược" mở phong trào đồng bằng, cả hai Đảng bộ Nam-Bắc Ninh Hòa đều rất quan tâm xây dựng hậu cứ. Ở căn cứ Đá Bàn đã xây dựng được kho tàng, trạm xá, trại huấn luyện tân binh, đào tạo cứu thương, y tá, trại giáo dục cải tạo tù hàng binh phục vụ cho nhiệm vụ chiến đấu phía trước. Năm 1963, sản xuất được mùa, thu hoạch hàng trăm tấn lương thực, mở được cửa khẩu thu mua hàng hóa, nhu yếu phẩm từ vùng địch ra tại xã Ninh Thọ, giải quyết được một phần nhu cầu thiết yếu cho huyện.
Nam Ninh Hòa năm 1963 - 1964 mua được đôi trâu cày, sản xuất phát triển mạnh, mỗi năm thu hoạch được từ 700 đến 800 giạ lúa tẻ và lúa nếp, hàng trăm tấn bắp trái khô, đủ cung cấp cho lực lượng của huyện, còn giao cho kinh tài tỉnh hỗ trợ cho huyện Diên Khánh hàng trăm giạ lúa nếp và hàng tấn bắp khô, đồng thời cũng mở được cửa khẩu thu mua hàng hóa cho huyện, cho tỉnh tại xóm Hộ, thôn Ngọc Diêm, xã Vính Ích.
Đến đầu năm 1964, phong trào kháng chiến của Ninh Hòa, ở cả 3 vùng: căn cứ rừng núi, nông thôn đồng bằng và thị trấn đều có bước phát triển rất khả quan. Ta từng bước vươn lên thế chủ động tiến công, địch bước đầu lùi vào thế phòng thủ, chống đở bị động. Quân và dân trong huyện đã chiến đấu kiên cường hoàn thành xuất sắc các mục tiêu kế hoạch của hội nghị đầu năm 1962 của Đảng bộ hai huyện, tạo ra được những thuận lợi mới cho cuộc chiến đấu tiếp theo. Quốc sách "ấp chiến lược" nội dung cơ bản, và là xương sống của chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch, chẳng những không hoàn thành được vào cuối năm 1962 theo kế hoạch Sta-lây-tay-lo, mà bị nhân dân Ninh Hòa đánh bại về cơ bản trên địa bàn huyện.
PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI GIẢI PHÓNG NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG.
Tháng 2.1964, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại A-Xây (Hòn Dù) để nghiên cứu quán triệt nghị quyết và chỉ thị của Khu ủy 5. Vấn đề quan trọng nổi bật trong Hội nghị lần này là quyết tâm giải phóng đồng bằng. Đây là trọng tâm công tác của toàn Đảng bộ, là vấn đề then chốt có tính quyết định để đưa phong trào của tỉnh thoát khỏi vòng khó khăn triền miên trong nhiều năm.
Tháng 4.1964, đồng chí Lưu Văn Trọng, Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội ra dự Hội nghị Liên tỉnh 3 tại Hà Roi (Phú Yên). Đồng chí báo cáo Nghị quyết của Hội nghị Tỉnh ủy trước Hội nghị Liên tỉnh và sau đó báo cáo với Bộ Tư lệnh phân khu Nam cũng đóng tại Hà Roi. Nghị quyết của Hội nghị Tỉnh ủy được Hội nghị Liên tỉnh và Bộ tư lệnh Phân khu thông qua và góp ý chỉ đạo. Trên đường về, đồng chí gặp Huyện ủy Bắc Ninh Hòa truyền đạt nghị quyết và chỉ thị của Liên tỉnh, kiểm tra tình hình và góp ý chuẩn bị cho cuộc đồng khởi giải phóng nông thôn ở Bắc Khánh Hòa.
Tháng 5.1964, đồng chí Võ Danh, Huyện đội trưởng Huyện đội Bắc Ninh Hòa được lệnh ra gặp Bộ tư lệnh Phân khu Nam phản ánh tình hình địch và ta, nhất là tình hình rào làng lập "ấp chiến lược" của địch trên chiến trường Bắc Khánh. Sau khi góp ý chỉ đạo , Bộ Tư lệnh Phân khu tăng cường ngay vào cho Bắc Ninh Hòa và Vạn Ninh 1 đại đội bộ binh - đang làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Phân khu, có trang bị khẩu đại liên, do đồng chí Hồ Quang Trí chỉ huy, để cùng với lực lượng vũ trang địa phương hoạt động đánh địch một thời gian, hỗ trợ cho phong trào chống phá "ấp chiến lược" của nhân dân.
Sau khi tiếp thu Nghị quyết và Chỉ thị của Tỉnh ủy, Huyện ủy Bắc Ninh Hòa -Vạn Ninh và Ban cán sự huyện Nam Ninh Hòa đã mở đợt sinh hoạt chính trị đấu tranh tự phê bình và phê bình mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang nhằm khắc phục tư tưởng hữu khuynh, co thủ rụt rè, làm quán triệt hơn nữa phương châm đấu tranh chính trị và vũ trang song song, phương châm hai chân, ba mũi giáp công. Đồng thời sắp xếp lực lượng, củng cố bổ sung và lập thêm một số tổ đội vũ trang công tác cho các xã chưa có cán bộ đứng chân, tiến hành chuẩn bị chiến trường, cho đợt đồng khởi giải phóng.
Trong thời gian chuẩn bị, ở huyện Bắc Ninh Hòa -Vạn Ninh, thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Huyện đội Bắc Ninh Hòa sử dụng một bộ phận của trung đội vùng Tây, phối hợp với đại đội của Phân khu Nam tổ chức trận phục kích trung đội nghĩa quân xã Vạn Hưng (Vạn Ninh) tại ngã ba Quốc lộ 1 rẽ xuống ấp Xuân Vinh. Do chiến đấu trận đầu tiên trên chiến trường lạ, đơn vị chưa có kinh nghiệm, nên ta vừa nổ súng, địch tháo chạy, đơn vị không kịp tiêu diệt trung đội này, chỉ tiêu hao một số tên.
Sau trận Xuân Vinh, bằng phương châm "2 chân 3 mũi giáp công", kết hợp giữa tấn công quân sự bên ngoài vào với nổi dậy của nhân dân bên trong khu tập trung và ấp chiến lược, do chi bộ thôn Lạc Hòa, xã Ninh An trực tiếp lãnh đạo, cuối tháng 9.1964, ta tập kích phá banh khu tập trung Vườn Dương và ấp chiến lược Lạc Hòa.
Khu tập trung Vườn Dương địch xây dựng như một cứ điểm quân sự cấp đại đội, do 1 đại đội bảo an, 1 trung đội nghĩa quân, 1 toán phòng vệ dân sự và cuộc cãnh sát đóng giữ. Do khéo nghi binh, ta kéo được đại đội bảo an xuống đối phó với ta ở xã Ninh Thọ, rồi tập kích vào nên chỉ sau 10 phút ta làm chủ trận địa, thu dọn chiến trường, đốt cây rào ấp chiến lược. Trên 1000 dân bị địch tập trung bung trở về làng cũ, hoặc đến các gia đình họ hàng, thân quên ở các ấp xung quanh sinh sống. Sáng ngày sau, đại đội bảo an từ xã Ninh Thọ kéo về bị ta chận đánh diệt nhiều tên. Toàn trận, địch bị ta tiêu diệt 15 tên (có 10 bảo an) thu 20 súng các loại, bên ta 1 chiến sĩ bị thương nhẹ. Trận đánh thắng lợi lớn, ảnh hưởng rộng rãi.
Sau trận phá khu tập trung Vườn Dương thắng lợi, nhân dân ở các ấp chiến lược trong vùng viện cớ, cả đại đội bảo an còn không giữ nổi "Việt Cộng" đã đứng lên đấu tranh chống trả quyết liệt việc bắt dân rào làng lập "ấp chiến lược". "Quốc sách ấp chiến lược" của chúng ở Bắc Ninh Hòa đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.
Về đồng khởi, Tỉnh ủy quyết định phát động cuộc đồng khởi giải phóng vào đêm mồng 6, sáng ngày 7.11.1964, trọng điểm 1 là hai xã Ninh An và Ninh Thọ, huyện Bắc Ninh Hòa. Trọng điểm 2 là hai xã Diên Sơn và Diên Điền, huyện Diên Khánh. Ban Chỉ đạo ở trọng điểm một gồm có các đồng chí Tô Văn Ơn, Bí thư Tỉnh ủy, phụ trách chung; Võ Cứ, Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội trưởng; Nguyễn Châu Bí thư và Nguyễn Lương, Phó Bí thư Huyện ủy Bắc Ninh Hòa - Vạn Ninh. Trực tiếp tại trọng điểm này còn có đồng chí Mai Dương, Khu ủy viên, Phó Bí thư Liên tỉnh 3. Lực lượng tham gia chiến dịch đồng khởi gồm có các đơn vị vũ trang địa phương, Đại đội độc lập 83, Tiểu đoàn 30 của Phân khu Nam (lấy mật danh là K71). Cùng đi với Tiểu đoàn 30 có đồng chí Lê Đình Yên, Chính trị viên phó Bộ Tư lệnh phân khu Nam cùng tham gia vào Ban chỉ đạo chung.
Ban chỉ huy quân sự trên chiến trường gồm các đồng chí: Ong Văn Bửu, Chỉ huy trưởng; Nguyễn Xi, Chính trị viên; Trần Tường và Võ Danh, Chỉ huy phó.
Theo kế hoạch, xã Ninh Diêm là trọng điểm tấn công quân sự, kết hợp với nổi dậy của quần chúng để giải phóng, đồng thời cũng để thu hút lực lượng địch về hướng này hỗ trợ cho hướng chính giải phóng hai xã Ninh An và Ninh Thọ. Huyện Nam Ninh Hòa và các xã khác của Bắc Ninh Hòa là diện phối hợp kìm chế, căng kéo địch hỗ trợ cho trọng điểm chính, đồng thời tranh thủ cơ hội lực lượng địch bị hút về hướng chính, phá kèm, trừ gian, mở rộng cơ sở, chuyển phong trào lên bước mới.
Mở màn, đêm 6.11.1964, Đại đội 83 lót lực lượng vào thôn Phú Gia (xã Ninh An) sáng ngày 7.11, chận đánh 3 tổng đoàn dân vệ thường ngày tập trung tại đây, địch tháo chạy, ta truy kích vào đến thôn Phước Thuận xã Ninh Đông, diệt và làm bị thường 15 tên. Cùng đêm 6.11, một đơn vị của Tiểu đoàn 30 tập kích khu tập trung Xuân Hà, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, sau đó chốt quân ở dốc Dá Trắng nhằm để ngăn chặn và tiêu diệt lực lượng chi viện của địch từ huyện Vạn Ninh vào.
Ở xã Ninh Diêm, Đại đội 5, Tiểu đoàn 30 phối hợp với Trung đội địa phương vùng Đông, đêm 6.11, đột nhập chốt quân trong "ấp chiến lược" Đôn Tín (Phú Thọ). Do lụt lớn, bộ phận làm nhiệm vụ đánh trụ sở xã hành quân lạc đường, đến gần sáng chưa vào đến mục tiêu. Ban chỉ huy đơn vị buộc phải sử dụng tiểu đội trinh sát đánh vào. Công sự trụ sở do một đại đội bảo an và một trung đội nghĩa quân đóng giữ rất kiên cố. Ta không có vũ khí chiến thuật công đồn, chỉ dùng tiểu liên và lựu đạn nên không tiêu diệt được trụ sở. Địch phản ứng quyết liệt. Sáng ngày 7.11, 1 Tiểu đoàn biệt động quân, có máy bay, đại bác yểm trợ chia làm hai cánh: 1 cánh theo tỉnh lộ 7 (nay là tỉnh lộ 1), 1 cánh từ thôn Sơn Định tiến xuống phản kích ác liệt vào lực lượng ta trong ấp Phú Thọ. Ta trong công sự phòng thủ đánh trả quyết liệt, chận đứng và bẻ gãy tất cả các mũi tiến công của địch, diệt và làm bị thương hàng trăm tên, bên ta 3 chiến sĩ bị thương. Trận đánh giằng co kéo dài suốt ngày 7.11, khoảng 18 giờ ta rút quân ra ngoài, địch chiếm lại "ấp chiến lược".
Cùng đêm 6.11, ở trọng điểm 2 xã Ninh An, Ninh Thọ dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, nhân dân 2 xã cùng với du kích, cán bộ và nhân viên các cơ quan huyện, nổi dậy đánh trống mõ, truy bắt bọn nhân viên ngụy quyền ác ôn, giải phóng xã, thành lập chính quyền cách mạng, triển khai những nhiệm vụ cấp bách đối với vùng mới giải phóng, chuyển số thanh niên chiến đấu kể cả vũ khí của địch thành du kích của ta. Ngay trong đêm 6.11, quân và dân 2 xã phân công nhau đào công sự chiến đấu, chuẩn bị kế hoạch hậu cần tiếp tế lương thực, thực phẩm phục vụ bộ đội và du kích đánh địch phản kích.
Sáng ngày 7.11, trong lúc chiến sự đang diễn ra ác liệt giữa ta và địch ở xã Ninh Diêm, một đơn vị địch đến rải quân trên Quốc lộ 1 giữa 2 xã, chuẩn bị phản kích vào vùng vừa mới giải phóng. Lực lượng binh vận của hai xã , phần lớn là phụ nữ trẻ kéo ra đối mặt với địch, vừa hù dọa là trong làng đang có rất nhiều bộ đội "Việt Cộng", vừa khéo léo tranh thủ, địch chưa nắm được tình hình, chúng dừng cuộc tiến công, rút về lại quận lỵ. Nhân dân kéo vào quận đường đấu tranh giữ thế hợp pháp đi lại làm ăn, buôn bán, tên quận trưởng buộc phải chấp thuận yêu sách của nhân dân.
Mấy ngày sau đó, đại đội biệt kích địch từ xóm rẫy ấp Phú Gia hành quân phản kích vào ấp Lạc Hòa, xã Ninh An, gặp đại đội 83 và trung đội địa phương vùng Tây, đang đóng quân tại Phú Gia và ấp Sơn Lộc Thượng chận đánh ác liệt, địch tháo chạy tán loạn, bỏ lại trận địa 17 xác chết, ta thu toàn bộ vũ khí của số này.
Ở vùng Đông, Tiểu đoàn 30 và Trung đội địa phương vùng Đông vào lại xã Ninh Diêm bám trụ ban ngày, phát động nhân dân phối hợp với bộ đội truy bắt bọn tề, liên gia, đại biểu giáo dục tại chổ, bắt làm cam kết không tiếp tục làm tay sai cho địch, rồi thả về lại gia đình. 16 giờ cùng ngày ta rút lực lượng ra.
Phía Tây Nam Hòn Hèo, Đại đội 83, sau trận Sơn Lộc Thượng, đưa lực lượng xuống hướng này, phối hợp với các đội vũ trang công tác ở đây giải phóng ấp Tiên Du (xã Ninh Phú) nhằm mở rộng phong trào kháng chiến vùng Đông huyện và hỗ trợ cho 2 xã giải phóng Ninh An, Ninh Thọ chống càn bảo vệ vùng giải phóng, và cho hướng xã Ninh Diêm tiếp tục tấn công địch.
Sau đêm giải phóng ấp Tiên Du, ban ngày đại đội 83 vào bám trụ trong ấp, đào công sự chuẩn bị đánh địch phản kích. Địch sử dụng 1 đại đội bảo an, 3 trung đội nghĩa quân, chia thành nhiều cánh tiến vào ấp, bị ta đánh thiệt hại nặng. Phải tháo chạy về hướng xuất phát. Cuộc hành quân phản kích của địch bị thất bại, lực lượng bị tiêu hao nhưng không giải tỏa được lực lượng ta ra khỏi làng.
Ở hướng xã Ninh Diêm, Tiểu đoàn 30 và Trung đội địa phương vùng Đông, tiếp tục đưa lực lượng vào giải phóng xã. Lần này đại đội bảo an và trung đội nghĩa quân, tề thôn xã và phòng vệ dân sự không ở trong trụ sở. Ta tiến hành phát động quần chúng, đồng thời bố trí trận địa phòng thủ chuẩn bị tiêu diệt địch phản kích. Đúng như dự kiến của ta, lần này địch đã có sự chuẩn bị trước, sáng ngày sau, 1 liên đoàn biệt động, 1 đại đội bảo an và 2 trung đội nghĩa quân dùng chiến thuật "bủa lưới, phóng lao" để tiêu diệt ta. Chúng triển khai lực lượng bao vây hướng phía Nam xã tiếp giáp với cán cứ Hòn Hèo, rồi sử dụng nhiều mũi lực lượng tiến công vào trận địa ta ở ấp Phú Thọ. Trong công sự phòng thủ ta đánh trả ác liệt, các mũi đột kích của địch bị hỏa lực ta chận đứng hoặc phải lui trở ra vùng ruộng muối bên ngoài.
Địch sử dụng 2 máy bay khu trục A37 ném bom xăng hủy diệt trụ sở xã. Tiểu đội trinh sát của ta đang chốt giữ trong lô cốt hy sinh, một gia đình bên cạnh trụ sở cũng bị trúng bom xăng, chết 4 người. Cùng lúc, trung đội nghĩa quân từ núi Đò (xã Ninh Hải) đánh vào tuyến phòng thủ phía Bắc của ta tại ấp Thạnh Danh. Do ta sơ hở, bị địch đánh bất ngờ, 6 đồng chí hy sinh, lực lượng ta bị bật ra khỏi trận địa, địch lấy được của ta khẩu đại liên và sát hại 3 người của gia đình ông Võ Dồ nằm trên trận địa. Lực lượng dự bị của ta (C5, Tiểu đoàn 30) do bố trí quá xa, bước vào chiến đấu chậm, chi viện không kịp thời.
Ta và địch quần đánh nhau suốt ngày, bom đạn ác liệt, nhân dân vẫn tiếp tế cơm nước cho bộ đội đầy đủ. Đêm đó ta và địch đều lui quân, vũ khí của địch bỏ ngoài ruộng muối, ta không kiểm soát trận địa nên không thu được.
Sau trận Ninh Diêm, Tiểu đoàn 30 và trung đội địa phương vùng Đông chuyển sang hướng Tây nam Hòn Hèo tiếp tục bám trụ tại ấp Tiên Du, đột nhập chốt quân ban ngày tại các ấp Mỹ Lệ (xã Ninh Đa) Hội Phú, Hội Điền, Bằng Phước (xã Ninh Phú). Ban đêm tập kích thiệt hại nặng trung đội nghĩa quân xã Ninh Giang tại gò Chùa, ấp Hội Phú Nam. Một bộ phận khác đột nhập giải phóng ấp Hà Liên (xã Ninh Hà). Sáng ngày hôm sau, trung đội nghĩa quân xã Ninh Hà từ trụ sở xã kéo xuống bị ta đánh tháo chạy trở lại. Nhân dân ấp Hà Liên, đứng lên làm chủ thôn xóm, xóa bỏ di tích địch, tham gia kháng chiến, 40 thanh niên thoát ly, gia nhập bộ đội cách mạng.
Sau trận, ta rút lực lượng về đứng ở gộp Cây Thị (Hòn Hèo), một bộ phận chốt quân tại ấp Tiên Du. Ngày 27.11.1964, địch sử dụng một tiểu đoàn bảo an, 5 trung đội nghĩa quân, do tên quận trưởng Ninh Hòa trực tiếp chỉ huy, chia làm 2 cánh, trời chưa sáng, chúng bí mật luồn sâu vào ấp, nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng ta đang có mặt tại đây. Khoảng 5 giờ, địch đồng loạt nổ súng ồ ạt tiến vào ấp. Ta trong công sự phòng thủ đánh trả, địch bị chặn lại giữa đồng. Từ gộp Cây Thị (phía Bắc ấp) đại bộ phận lực lượng của ta xuất kích, từ vòng ngoài đánh tạt sườn và tập hậu, chia cắt đội bình địch để tiêu diệt. Địch hoảng hốt tháo chạy vượt qua sông Bến Giá, 2 máy bay khu trục A37 ném bom đánh chặn lực lượng truy kích của ta. Bom rơi lạc sang gần khu dân cư xã Ninh Giang làm bị thương một người dân. Nhân dân các ấp Hội Bình, Hội Thành lập tức kéo lên quận đấu tranh đòi bồi thường thiệt hại cho nạn nhân, địch phải chấp thuận. Kết quả, ta diệt và làm bị thương hàng trăm tên, địch bỏ xác tại trận 25 tên, ta thu nhiều vũ khí.
Đêm 6.12.1964, Tiểu đoàn 30 tiếp tục đưa lực lượng vào trụ ban ngày một lần nữa tại ấp Bằng Phước và Mỹ Lệ, sáng ngày 7.12, bọn dân vệ từ quận lỵ kéo xuống bị ta đánh chết và bị thương 25 tên, chúng hoảng hốt quay đầu chạy trở về lại quận lỵ.
Ngày 8.12.1964, 4 trực thăng vũ trang địch đến bắn xối xã xuống ấp Tiên Du, sau đó dùng trực thăng đổ xuống vùng Hòn Chồng của ấp này một đại đội biệt kích Trung Dũng, có tên cố vấn Mỹ chỉ huy, nhằm đánh vào phía sau để giải tỏa lực lượng ta ra khỏi đồng bằng. Nhằm lúc một đơn vị của tiểu đoàn 30 đang ẩn trú dưới mặt đất theo dõi sát sao hành động của máy bay địch. Chúng vừa đổ quân xuống mặt đất, ta vận động tiếp cận, đánh mãnh liệt vào đội hình chưa kịp triển khai của địch. Chúng hoảng hốt tháo chạy tán loạn, lớp chạy vào rừng, lớp bơi qua sông, ta truy kích diệt thêm nhiều tên. Tên cố vấn chỉ huy Mỹ bị thương trốn dưới mé sông ta không phát hiện được, trực thăng địch đến thả thang dây kéo lên đưa về Nha Trang cứu chữa.
Đại đội 83, sau trận đánh ở Tiên Du chuyển lên đóng ở ấp Lạc Hòa, chận đánh tiểu đoàn biệt động địch từ Ninh Đông tiến sang. Trận đánh diễn ra rất ác liệt tại vùng ruộng học điền xã Ninh An. Địch bị tổn thất nặng phải rút quân.
Cuộc đồng khởi giải phóng đồng bằng trên chiến trường trọng điểm 1 Bắc Khánh kết thúc vào cuối năm 1964. Huyện Bắc Ninh Hòa giải phóng hoàn toàn 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, rộng hàng chục km2, tiếp giáp với căn cứ Đá Bàn, gồm trên 5.000 dân. Các "ấp chiến lược" của địch trên địa bàn huyện bị xóa bỏ hoàn toàn.
Các đơn vị vũ trang đánh hàng chục trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương trên 200 tên địch, trừng trị hàng chục tên tề điệp gian ác, thu nhiều vũ khí. Tiếp tục gỡ lõng kèm, và tạo được thế cho nhân dân đứng lên đấu tranh giành quyền làm chủ nhiều mảng liên hoàn rộng lớn, bao gồm hàng vạn dân như mảng các thôn ven biển xã Ninh Diêm, xã Ninh Hà, Ninh Phú, bắc xã Ninh Đông…
Lực lượng cách mạng trong dân có bước phát triển vượt bậc. Phần lớn các thôn làm chủ đều thành lập được Ban cán sự lãnh đạo thôn, cán sự phụ nữ, từ 1-2 tổ du kích, 1 chi đoàn thành niên, phát triển được từ 1-2 đảng viên và nhiều cơ sở trong đoàn thể quần chúng.
Ở 2 xã giải phóng Ninh An, Ninh Thọ, mỗi xã xây dựng được 1 trung đội du kích, trang bị vũ khí đầy đủ, mỗi trung đội có 1 trung liên, mỗi thôn có từ 2 đến 3 tổ du kích. Hầu hết nhân dân đều vào các tổ chức đoàn thể, vào lực lượng đấu tranh chính trị, binh vận, thu mua tiếp tế, cơ sở bảo vệ, địch tình, liên lạc… Mỗi xã đều thành lập được chi bộ Đảng, chi đoàn thanh niên làm nhiệm vụ lãnh đạo và xung kích trên mọi lĩnh vực công tác.
Sau giải phóng, quân và dân 2 xã xây dựng thôn xã chiến đấu, vận dụng phương châm hai chân 3 mũi giáp công chống địch càn quét lấn chiếm bảo vệ vùng giải phóng. Chính quyền cách mạng chia ruộng đất của bọn ác ôn, ruộng vắng chủ cho nông dân không có ruộng, chăm lo việc sản xuất và đời sống cho nhân dân. Tổ chức cho nhân dân làm nhiệm vụ kháng chiến như đi dân công vận chuyển vũ khí, lương thực cho cách mạng. Nhân dân làm chủ thôn xóm nhưng vẫn kéo vào quận đấu tranh chống khủng bố, giữ thế hợp pháp, đi lại làm ăn, buôn bán bình thường. Đồng bào ở các thôn trong vùng sâu ra vùng giải phóng thăm cách mạng, tìm hiểu tình hình.
Qua đợt đồng khởi, hơn 100 thanh niên thoát ly ra căn cứ tham gia kháng chiến, gia nhập bộ đội đánh địch, đông nhất là các xã Ninh Diêm, Ninh Hà, Ninh Thọ, Ninh An. Huyện đội thành lập trường huấn luyện tân binh tại căn cứ Đá Bàn, để huấn luyện bổ sung cho các đơn vị đi chiến đấu, đa số tỏ ra rất hăng hái, dũng cảm.
Ở huyện Nam Ninh Hòa năm 1964, ta nắm được một tiểu đội trong trung đội nghĩa quân xã Vĩnh Ích, dựa vào thuận lợi này và tranh thủ lúc địch tập trung lực lượng đối phó với phong trào đồng khởi giải phóng ở huyện Bắc Ninh Hòa, Ban cán sự huyện chủ trương đưa lực lượng xuống trụ bám ban ngày ở các ấp trung tâm xã Vĩnh Ích, ở đây có cơ sở khá, để diệt ác, đánh địch hỗ trợ cho nhân dân đứng lên đấu tranh giành quyền làm chủ.
Trước khi hành động, ta cử cán bộ liên hệ bàn bạc kế hoạch phối hợp giữa lực lượng ta với tiểu đội nhân mối trong trung đội nghĩa quân. Việc chuẩn của ta, bị tên Mạnh mật báo viên trong trung đội biết được, mật báo về cấp trên của chúng. Để đối phó, lần phát lương tháng này, địch tổ chức phát cho trung đội nghĩa quân tại thị xã Nha Trang, bắt gọn toàn bộ tiểu đội nhân mối, phá trước kế hoạch của ta. Anh Thương tiểu đội trưởng, cơ sở nòng cốt của ta trong trung đội nghĩa quân bị địch tra tấn rất dã man.
Tuy vậy, ta vẫn tiến hành kế hoạch. Cuối tháng 1.1965, ta sử dụng tiểu đội vũ trang huyện phối hợp với tổ vũ trang công tác xã, do đồng chí Nguyễn Nam, ủy viên quân sự trong Ban cán sự huyện trực tiếp chỉ huy (có đồng chí Đặng Nhiên, Bí thư Ban Cán sự cùng đi). Giữa đêm, ta đưa lực lượng vào 3 ấp: Phú Hữu, Tân Phú, Vạn Thuận, truy bắt bọn tề, điệp gian ác, tập trung nhân dân làm mét tinh, cảnh cáo và bắt số tề điệp này thú tội trước nhân dân rồi thả. Trung đội nghĩa quân phát hiện lực lượng ta về ấp, rút chạy ra đèo Rọ Tượng dựa vào sự che chở của đồn đèo.
Sáng hôm sau, ta phân tán lực lượng thành từng tổ 3/3 chuẩn bị đánh địch phản kích. Khoảng 8 giờ, trung đội nghĩa quân kéo về xã, cùng lúc, 1 tiểu đoàn quân cộng hòa của tiểu khu Nha Trang trên đường chi viện ra Bắc Ninh Hòa dừng lại, phối hợp với nghĩa quân, dàn thành đội hình hàng ngang từ Quốc lộ 1 tiến vào xã. Ta di động quần bám đánh tiêu hao địch hàng giờ liền, rồi rút ra bên ngoài. Máy bay địch từ tiểu khu ra oanh tạc, ném bom trên đường rút quân của ra, nhưng ta đã ra ngoài an toàn.
Kết quả, địch chết 4 tên, ta thu 1 súng các-bin, bên ta 1 chiến sĩ hy sinh. Với 1 tiểu đội vũ trang, ta đã truy đuổi 1 toán dân vệ, 1 trung đội nghĩa quân chạy dạt ra khỏi xã, động viên phong trào cách mạng của quần chúng có kết quả, diệt được địch, thu được vũ khí. Đêm công tác kết quả và ảnh hưởng tốt.
Thừa thắng, tháng 3.1965, đồng chí Bí thư Ban Cán sự huyện và đồng chí Đội trưởng đội công tác xã Ninh Lộc về ấp Tam Ích, cùng với nòng cốt lãnh đạo trong ấp (ông Trần Hạc) mở mét tinh phát động nhân dân đồng khởi giải phóng, phá "ấp chiến lược", xóa bỏ ngụy quyền, lập chính quyền tự quản. Nhân dân dự mét tinh rất đông, đèn măng-sông thắp sáng choang, dân hô khẩu hiệu vang trời, sau đó kéo nhau ra phá sạch vòng rào "ấp chiến lược". Ngay đêm đó, ta tổ chức được 1 tiểu đội du kích (7 người) trang bị súng trường để ngày sau canh gác, đánh địch bảo vệ ấp. Bộ binh địch chưa nắm được tình hình không dám hành quân phản kích mà dùng cối, pháo bắn phá ven ấp, bắn vào các giàn rớ đánh cá của dân trên cửa sông và đầm Nha Phu. Trên 150 đồng bào trong ấp, do nòng cốt của ta hướng dẫn, kéo lên quận đấu tranh chống khủng bố, địch phải nhượng bộ dừng bắn pháo.
Trong quá trình đồng khởi, du kích diệt 1 xã phó, 1 ấp trưởng ác ôn, 1 thám báo của địch. Sau đồng khởi, ông Trần Hạc được bầu làm trưởng ban tự quản thôn. Đêm đêm cán bộ đội công tác vào thôn sinh hoạt, hình thành các tổ chức quần chúng, bàn việc làm ăn, bảo đảm đời sống cho dân. Khí thế cách mạng của nhân dân sôi nổi. Ta rút ra bên ngoài 3 thanh niên bổ sung cho đội vũ trang.
Sau đồng khởi Tam Ích, ta sử dụng du kích của ấp này dùng xuồng đưa cán bộ ta đến xóm Hòn Cóc (còn gọi là xóm Tân Đảo) thuộc ấp Tân Phú, xã Vĩnh ích. Xóm có 105 hộ, nhân dân rất tốt, đã được thuần khiết, ta tiến hành tuyên truyền, giáo dục, vận động đưa nhân dân vào các tổ chức đoàn thể, lập chính quyền tự quản (anh Thì làm trưởng ban). Tổ chức mét tinh ra mắt ban tự quản, bàn kế hoạch đấu tranh chống địch bảo vệ quyền làm chủ, bảo vệ việc làm ăn sinh sống của nhân dân.
Trong cuộc mét tinh, do dân phát hiện ta bắt được tên gián điệp lợi hại từ ấp Ngọc Diêm ra trà trộn nắm tình hình ở đây. Sau đó, Ban cán sự huyện cử cán bộ quân sự ra bám địa bàn tổ chức, huấn luyện và hướng dẫn cho du kích làm nhiệm vụ canh gác, đánh địch bảo vệ nhân dân.
Cuộc đồng khởi giải phóng thôn Tam Ích và xóm Tân Đảo tuy quy mô không lớn và chỉ hơn một tháng sau địch chiếm lại thôn Tam Ích và bắt dân xóm Tân Đảo dời vào đất liền nhưng có ảnh hưởng tốt, cổ vũ mạnh mẽ và hỗ trợ thiết thực cho phong trào 2 xã Ninh Lộc, Ninh Ích phát triển thuận lợi, giúp cho huyện có thêm kinh nghiệm lãnh đạo.
Trong lúc địch tập trung lực lượng đối phó với tấn công, đồng khởi của ta ở Bắc Ninh Hòa, các đội công tác xã Ninh Quang, Ninh Bình phối hợp với đội vũ trang huyện, đột nhập vào các thôn vùng sâu đào hầm bí mật, phát triển cơ sở, trừ gian, diệt ác, rải truyền đơn, đưa thư cảnh cáo trấn áp tinh thần bọn ác ôn lưu vong. Qua đó, Nam Ninh Hòa đã mở rộng diện làm chủ, tranh chấp, lõng kèm ra toàn huyện, nối liền giữa thị trấn với nông thôn. Mở được cửa khẩu mua hàng hóa, nhu yếu phẩm cho huyện, cho tỉnh ở ấp Ngọc Diệm, xã Vĩnh Ích. Phong trào cách mạng của Nam Ninh Hòa phát triển đều và rộng hơn trước. Hoàn thành tốt nhiệm vụ phối hợp trong cuộc đồng khởi giải phóng ở Bắc Khánh.
Cùng với thắng lợi đồng khởi giải phóng của Ninh Hòa, thắng lợi đồng khởi ở Nam Khánh, những tin thắng lợi lớn trong miền như chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, tàu không số chi viện vũ khí của miền Bắc cập bến Vũng Rô an toàn… cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quân và dân Ninh Hòa tiếp tục nổ lực chiến đấu chống địch phản kích, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng.
Về địch, bị ta đánh rất đau và đẩy ra khỏi 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, nằm trên Quốc lộ 1, địa bàn quan trọng của chúng, nên chúng tập trung lực lượng liên tục càn quét lấn chiếm lại vùng giải phóng này. Quân và dân 2 xã Ninh An, Ninh Thọ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ thành quả vừa giành được hết sức ác liệt.
Tháng 3.1965, đại đội độc lập 83 chuyển ra hoạt động ở huyện Vạn Ninh một thời gian rồi rút về lại Phân khu Nam. Tiểu đoàn 30 lấy thanh niên thoát ly ở Ninh Hòa bổ sung quân số rồi chuyển vào Nam Khánh.
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ IV. CÁC CUỘC ĐỒNG KHỞI GIẢI PHÓNG TRONG NĂM 1965
Trước tình hình có bước phát triển mới, đồng thời để triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV (lần thứ II trong thời kỳ chống Mỹ). Huyện Nam Ninh Hòa mở Hội nghị cán bộ toàn huyện tại căn cứ Hòn Lớn. Huyện Bắc Ninh Hòa - Vạn Ninh triệu tập Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ tư (lần thứ nhất trong thời kỳ chống Mỹ) vào thượng tuần tháng 4.1965, địa điểm tại Suối Trầu (Đá Bàn) có 40 đại biểu chính thức tham dự. Thực chất là hội nghị cán bộ, đảng viên toàn huyện, có chức năng và quyền hạn như đại hội.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Bắc Ninh Hòa-Vạn Ninh là Đại hội mừng thắng lợi sau cuộc đồng khởi giải phóng một bộ phận thôn xã ở đồng bằng. Đại hội diễn ra trong khí thế vui tươi, phấn khởi, đã đi sâu kiểm điểm đánh giá lại toàn bộ tình hình từ sau hội nghị Suối Dứa (tháng 4.1962) nhất là là chiến dịch đồng khởi tháng 11.1964 của huyện. Đại hội cho rằng, trong hai tháng đồng khởi giải phóng, huyện Bắc Ninh Hòa đã giải phóng 2 xã, gồm 5.000 dân, mở lõng kèm, tranh chấp và làm chủ nhiều mảng dân cư rộng lớn hơn 2 vạn dân là một thắng lợi lớn, tạo ra bước chuyển biến quan trọng để Ninh Hòa tiếp tục mở phong trào đồng bằng, giành dân, giành quyền làm chủ, cùng với Nam Ninh Hòa đưa phong trào cách mạng của huyện tiến lên bước phát triển mới tiếp tục giành thắng lợi lớn hơn nữa.
Cả Hội nghị cán bộ huyện Nam Ninh Hòa và Đại hội đại biểu huyện Bắc Ninh Hòa-Vạn Ninh đều dựa vào phương hướng nhiệm vụ của Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ tư, và tình hình thực tế của mỗi huyện, đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới, trong đó nhấn mạnh:
- Tích cực củng cố và giữ vững vùng giải phóng, khẩn trương mở phong trào ra phía trước. Phát triển mạnh cơ sở ở các vùng còn yếu, tạo ra nhiều vùng làm chủ, tranh chấp liên hoàn rộng hơn, sâu hơn vào vùng ven thị trấn, dọc theo đường giao thông chiến lược của địch.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên mới, chú trọng đảng viên sống hợp pháp trong vùng địch. Nâng cao chất lượng cả về chính trị, lẫn quân sự cho các đơn vị vũ trang, nữa vũ trang huyện. Tích cực phát triển du kích mật trong các thôn vùng sâu. Vừa xây dựng, vừa chống địch càn quét lấn chiếm. Liên tục tấn công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, diệt ác, phá kèm rộng khắp buộc địch phải phân tán lực lượng phòng thủ, đối phó với ta ở nhiều nơi, tạo thêm nhiều sơ hở để tiêu diệt chúng, chuyển phong trào đồng bằng lên bước cao hơn, đồng thời cũng để hỗ trợ cho quân và dân 2 xã Ninh An, Ninh Thọ bảo vệ thắng lợi vùng giải phóng.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm các đồng chí: Nguyễn Châu (Châu Râu), Tỉnh ủy viên làm Bí thư; Nguyễn Lương, Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư; Mai Tư, Ủy viên Thường vụ; các đồng chí Võ Danh, Võ Đình Thuật, Võ Tuy, Huỳnh Nhị, Võ Đình Dung (tức Giao), Nguyễn Văn Chánh (tức Quận), Trương Đình Khánh…… Ủy viên Ban Chấp hành.
Đồng chí Nguyễn Lương, Phó Bí thư và 2 đồng chí Nguyễn Văn Chánh và Trương Đình Khánh được phân công phụ trách huyện Vạn Ninh.
Sau Hội nghị và Đại hội, cả hai huyện đều tiến hành bổ sung, tăng cường cán bộ cho các đội vũ trang công tác xã, mỗi đội có ít nhất 6 đồng chí trở lên, để đủ sức làm nhiệm vụ diệt ác thay cho lực lượng vũ trang huyện rút về củng cố, xây dựng nâng cao chất lượng, kỹ năng tác chiến, để có khả năng đánh tiêu diệt từng trung đội nghĩa quân, bảo an và biệt kích địch là những đối tượng tác chiến chính của lực lượng ta trên địa bàn huyện lúc bấy giờ. Có vậy mới hỗ trợ có hiệu quả cho phong trào cách mạng của nhân dân đang ngày một lên cao. Phản ứng của địch ngày một mạnh.
Trong lúc ta tiến hành hội nghị, đại hội, địch tập trung lực lượng càn quét lấn chiếm lại vùng giải phóng Ninh An, Ninh Thọ rất ác liệt. Để hỗ trợ cho quân và dân 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, Huyện ủy Bắc Ninh Hòa-Vạn Ninh chủ trương phát động đồng khởi giải phóng tiếp các thôn ven biển xã Ninh Diêm (nay là xã Ninh Thủy) và các thôn phía Bắc xã Ninh Đông tiếp giáp với xã Ninh An nhằm mở rộng vùng giải phóng ra phía trước và vào vùng sâu theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của huyện.
Ở xã Ninh Diêm, sau các lần đồng khởi, các thôn ven biển là vùng làm chủ mức cao, nhưng ngụy quyền, dân vệ và trung đội nghĩa quân vẫn còn. Ban đêm bọn tề xã thôn lánh ra ngủ ở thôn Đông Hà, dựa vào sự che chở của căn cứ hải thuyền. Nghĩa quân di động ngủ ở thôn Bình Tây, xã Ninh Hải. Ban ngày chúng về trụ sở hạch sách đồng bào, hành quân càn quét, khủng bố nhân dân các thôn ven biển, gây cho phong trào cách mạng của quần chúng ở đây gặp rất nhiều khó khăn.
Chấp hành chủ trương của Huyện ủy, Ban Chỉ huy huyện đội Bắc Ninh Hòa bố trí kế hoạch cho trung đội vùng Đông theo dõi nắm chắc quy luật hoạt động của trung đội nghĩa quân nói trên để tập trung lực lượng tiêu diệt.
Sau khi nắm chắc tình hình, Ban Chỉ huy Huyện đội sử dụng trung đội vùng Tây, xuống phối hợp với trung đội vùng Đông, đêm 30.4.1965 đưa lực lượng vào phục kích, ở một vị trí tiếp giáp giữa hai thôn Thạch Danh và Phú Thọ (xã Ninh Diêm) đón đánh đường về của trung đội nghĩa quân. Đêm đó đồng chí xạ thủ khẩu trung liên của ta sơ ý làm nổ một loạt trung liên, lực lượng bị lộ, ta rút xuống trụ lại vùng ven biển. Sáng ngày 1.5, ta bố trí lực lượng phòng thủ trên đồi cát từ thôn thủy đầm đến Gành Mỹ Á, phòng địch từ trụ sở xã tiến sang chặn đường rút về căn cứ của ta.
Khoảng 8 giờ cùng ngày, 1 đại đội bảo an, 3 trung đội nghĩa quân chia làm 2 cánh: Một cánh từ cầu Bá Hà tiến sang, một cánh từ xóm Đùi thôn Phú Thọ tiến qua thôn Mỹ Lương đi thẳng vào trận địa phục kích của ta. Ta và địch đánh nhau giằng co kéo dài đến 16 giờ. Phía sau trận địa của ta là biển, 4 chiếc hải thuyền địch chi viện, dùng súng cối 60 ly và đại liên bắn dữ dội vào đồi cát. Lực lượng ta bám trận địa chiến đấu dũng cảm. Nhưng cát nóng, không có nước uống, đồng chí y tá tiếp nước uống hy sinh, 16 giờ ta rút quân ra bên ngoài.
Kết quả, địch chết và bị thương khoảng 50 tên, bên ta đồng chí y tá hy sinh.
Chưa giải phóng được xã, ngày 12.5.1965, ta sử dụng Trung đội vùng Đông, trung đội du kích và đội vũ trang công tác xã, vào phát động nhân dân các thôn ven biển như: Bá Hà, Ngân Hà, Thủy Đầm, Mỹ Lương, Xóm Mới (Phú Thạnh), đồng khởi giải phóng, xóa bỏ chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Bộ đội, du kích cùng với nhân dân tiến hành bố phòng bằng dây kẻm gai, chông mìn, đào hầm hào, công sự chiến đấu, chuẩn bị đánh địch phản kích.
Tuy trong xã còn địch, nhưng sau đồng khởi giải phóng, nhân dân rất phấn khởi, khí thế cách mạng sôi nổi, thôn xóm rộn rã tưng bừng. Thanh niên xóa di tích địch, cắm cờ giải phóng, kẻ khẩu hiệu, tập hát các bài ca cách mạng, tham gia du kích, 40 thanh niên tình nguyện thoát ly gia nhập bộ đội.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chính quyền cách mạng xã tổ chức nhân dân mét tinh mừng chiến thắng, hội họp bàn bạc việc sản xuất bảo đảm đời sống, làm nhiệm vụ kháng chiến, gia nhập các tổ chức đoàn thể. Đặc biệt là bàn kế hoạch dự trữ lương thực, để chống địch lâu dài.
Địch phản ứng bắn pháo bừa bãi vào làng, vào nhà dân. Đêm 25.6.1965, chúng bắn vào thôn Mỹ Lương làm bị thương 2 dân thường. Gia đình nạn nhân và đồng bào cả thôn đốt đèn đuốc, khiêng 2 người bị thương lên trụ sở ngụy quyền xã đấu tranh quyết liệt. Bọn ngụy quyền xã buộc phải nhượng bộ, băng bó vết thương và bồi thường cơm thuốc cho người bị hại.
Tuy vậy, pháo địch vẫn tiếp tục bắn vào làng, phẩn nộ trước hành động dã man, ngoan cố của địch, được chi bộ và chính quyền lãnh đạo, ngày 27.6.1965, trên 1.000 quần chúng có đảng viên và cơ sở cách mạng làm nòng cốt và hướng dẫn, xuống đường kéo lên quận đấu tranh đòi địch không được bắn phá vào làng, đòi bồi thường thiệt hại cho người và tài sản của nhân dân. Trước khí thế phẩn uất cao độ, lý lẽ vững chắc và tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, tên quận trưởng phải cam kết chấm dứt bắn pháo. Nhưng sau đó (tháng 7.1965), địch chuyển sang phong tỏa nguồn lương thực, lập trạm kiểm soát không cho bán gạo xuống các thôn ven biển, 700 đồng bào lại xuống đường kéo lên quận đấu tranh. Lần này địch cho lực lượng đón chận đoàn biểu tình tại đèo Hà Thanh, đồng bào đã ào lên vừa tranh thủ, vừa xô xác với binh lính địch vượt qua và kéo vào quận đường đưa đơn đòi phải để cho dân được mua gạo bình thường. Trước những lý lẽ cứng rắn, hợp lẽ phải của đồng bào, tên quận trưởng một lần nữa phải nhượng bộ, bải bỏ lệnh phong tỏa của chúng.
Trên mặt biển, hàng ngày bọn hải thuyền địch cay cú, kiểm soát gắt gao, cướp bóc trắng trợn các thuyền đánh cá của nhân dân các thôn giải phóng. Chúng bắn xã vào các thuyền vào bờ không chờ chúng kiểm soát và lấy cá. Nhân dân liên tục kéo lên căn cứ hải thuyền đấu tranh, đòi chấm dứt tình trạng cướp bóc và giết người của địch. Chúng tìm cách đổ lỗi cho dân, nhưng cuối cùng chúng cũng phải nhượng bộ.
Ở vùng Tây, sau Đại hội, ta rút số cán bộ và du kích thôn Phước Thuận xã Ninh Đông ra thành lập Ban khởi nghĩa gồm các đồng chí: Hồ Lơ, Nguyễn Hiệu, Hồ Cảnh, Nguyễn Đẹt, do Hồ Lơ làm trưởng ban, đồng thời hướng dẫn kế hoạch cho các đồng chí này về chuẩn bị đồng khởi giải phóng các thôn phía Bắc xã Ninh Đông, tiếp giáp với vùng giải phóng xã Ninh An như: Phước Thuận, Nội Mỹ, Phú Sơn, Phú Văn, có số dân khoảng 4.000 người.
Thực hiện chỉ thị của Huyện ủy, tháng 6.1965, Ban Chỉ huy Huyện đội sử dụng Trung đội vùng Tây, 1 tiểu đội du kích xã Ninh An, phối hợp và hỗ trợ cho đội công tác và du kích xã Ninh Đông tiến hành đồng khởi giải phóng xã. Phương thức giải phóng các thôn này là từng bước đánh lấn địch, truy diệt bọn ngụy quyền xã thôn. Trước quyết tâm và tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong xã, địch phải chạy dạt vào các thôn vùng sâu, ta chiếm giữ và làm chủ các thôn phía Bắc xã, thành lập chính quyền tự quản, tổ chức du kích bảo vệ vùng giải phóng, tiến hành những công việc trong vùng mới giải phóng theo chỉ đạo từ trước của cấp trên.
Đến lúc này, vùng giải phóng phía Bắc huyện mở rộng về phía Nam đến thôn Văn Định Thượng, phía Tây giáp 2 thôn làm chủ Thổ Châu (xã Ninh Thân) và thôn Vĩnh Thạnh (xã Ninh Thượng) gồm khoảng 1 vạn dân. Phạm vi kiểm soát của địch bị đẩy lùi vào sát vùng ven quận lỵ. Hai thôn Văn Định và Quan Đông của xã Ninh Đông trở thành vùng tranh chấp giữa ta và địch. Để bảo vệ các thôn mới giải phóng, đội công tác xã liên tục đánh địch, khuấy động tình hình ở các thôn trong vùng sâu. Cuối tháng 6.1965, ta phát hiện bộ máy ngụy quyền xã đóng tạm tại nhà một người dân (nhà ông Dương Thiện) ở thôn Quan Đông, đội vũ trang công tác xã, do đồng chí Hồ Hửu Ân làm đội trưởng, ban đêm tập kích vào nhà, do sơ xuất về kỹ thuật, chúng kịp chống trả, ta chỉ diệt được tên sảnh sát quận, thu một súng ngắn. Bên ta hy sinh một đồng chí, đội trưởng Hồ Hửu Ân bị thương. Bọn tề hoảng hồn lại tiếp tục rút chạy vào sâu hơn nữa.
Ở huyện Nam Ninh Hòa, tháng 8.1965, ta sử dụng Đại đội 5 của tỉnh đứng trên địa bàn, phối hợp với trung đội vũ trang huyện (2 tiểu đội) tấn công giải phóng xã Ninh Hưng (khoảng 3.000 dân). Tề ngụy tháo chạy, ta phát động nhân dân đứng lên làm chủ, xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng. Địch sử dụng đại đội bảo an 2 lần hành quân phản kích lấn chiếm lại, bị ta đánh tiêu hao nhiều tên phải lui ra. Từ đó ta tổ chức du kích canh gác bảo vệ xóm làng, tuyển thanh niên bổ sung lực lượng, tổ chức, hướng dẫn nhân dân làm nhiệm vụ kháng chiến và mở rộng sản xuất vụ mùa ra sát chân căn cứ Hòn Lớn.
Để bảo vệ vùng giải phóng xã Ninh Hưng, Ban Cán sự huyện Nam Ninh Hòa sử dụng đội vũ trang công tác xã Ninh Quang, Ninh Bình thường xuyên luồn vào các thôn vùng sau tuyên truyền phát huy chiến thắng, bắt giáo dục và trừng trị những tên làm tay sai cho địch. Sử dụng đại đội 5 và trung đội địa phương ban ngày về bám trụ tại thôn Phú Hòa (xã Ninh Quang) đánh tiêu hao nặng đại đội bảo an và 4 tổng đoàn dân vệ đến giải tỏa.
Cuối tháng 9.1965, đại đội bảo an địch từ thôn Phú Hòa (xã Ninh Quang) bất thần vừa nổ súng, vừa chạy thẳng vào xã Ninh Hưng, cốt tranh thủ sự chủ quan lơi lõng, kkông kịp đối phó của ta để chiếm lại vùng giải phóng.
Lực lượng ta đang có mặt tại trung tâm xã, lập tức triển khai đánh trả kịp thời theo phương án đã xây dựng trước. Toàn bộ đại đội địch lọt vào giữa các tổ lực lượng vũ trang ta đã bố trí sẳn. Từ các hướng, các tổ đánh ép vào, địch bị dồn vào khu thổ mộ (nay là khu vực cơ quan UBND xã) ta dùng cối 60 ly dập vào, chúng hôt hoảng tháo chạy trở lại xã Ninh Quang. Từ đó địch sử dụng may bay, pháo binh bắn phá, bộ binh không càn vào nữa. Nhân dân phấn khởi, hăng hái làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực, thực phẩm cho căn cứ của huyện, của tỉnh ở Hòn Lớn và cho bộ đội tỉnh, huyện đóng tại địa phương. Tuy có một số dân ở các thôn gần rừng ban đêm lánh xuống các thôn vùng sâu, ven Quốc lộ 1 ngủ, nhưng ban ngày họ trở về cùng xóm làng làm nhiệm vụ kháng chiến, bám ruộng đồng tăng gia sản xuất.
Xã Ninh Hưng được giải phóng đã giúp cho huyện Nam Ninh Hòa khắc phục được nhiều khó khăn, tăng thêm thế và lực mới để đẩy mạnh cuộc kháng chiến tại địa phương. Từ bàn đạp xã Ninh Hưng, các đơn vị vũ trang huyện, tỉnh phối hợp với đội vũ trang công tác các xã liên tục tấn công địch, diệt ác trừ gian, tuyên truyền vận động quần chúng phát triển cơ sở, buộc địch phải co về phòng thủ trong vùng sâu, tề thôn xã, phòng vệ dân sự ban đêm rút xuống các thôn ven Quốc lộ 1, hay vào quận lỵ ngủ. Ta mở rộng được nhiều mảng làm chủ ở phía Tây các xã Ninh Bình, Ninh Quang. Nhiều mảng lõng kèm ở các xã Ninh Lộc, Ninh Ích, gồm hàng vạn dân. Đến đầu năm 1966, Nam Ninh Hòa đã phát triển được trên 10 đảng viên, thành lập được 3 chi bộ: Chi bộ thị trấn, Chi bộ xã Ninh Quang và Chi bộ xã Ninh Hưng.
Đồng thời với thắng lợi đồng khởi giải phóng mở phong trào đồng bằng, ở căn cứ phía sau sản xuất phát triển, công tác bố phòng được củng cố xây dựng chặt chẽ hơn. Một số ngành giới được thành lập, được bổ sung cán bộ. Huyện Bắc Ninh Hòa thành lập Ban An ninh do đồng chí Hà Khang làm Phó ban. Ban Kinh tài do đồng chí Hiệp làm Trưởng ban. Hội phụ nữ do Nguyễn Thị Nhị làm Hội trưởng, Bệnh xá do y sĩ Nguyễn Thanh Bình phụ trách. Nam Ninh Hòa, Ban An ninh do đồng chí Lê Trực làm Phó ban, Ban Kinh tài do Nguyễn Văn Tấn làm Trưởng ban, Hội Phụ nữ do Nguyễn Thị Máy làm Hội trưởng, Bệnh xá do Huỳnh Thanh Phong làm Bệnh xá trưởng; ở Hòn Hèo có trạm xá tiền phương do y sĩ Nguyễn Xuân Cung phụ trách.
CHỐNG ĐỊCH CÀN QUÉT LẤN CHIẾM, BẢO VỆ VÙNG GIẢI PHÓNG.
Sau đồng khởi giải phóng, địch tập trung lực lượng phản kích đánh chiếm lại vùng đã mất rất ác liệt, nhất là ở hai xã Ninh An và Ninh Thọ, trọng điểm là vùng Lạc Hòa tiếp giáp với căn cứ Đá Bàn.
Tháng 4.1965, 2 đại đội bảo an và 1 trung đội nghĩa quân càn vào các thôn Lạc Bình, Ninh Điền, chúng vây ráp, bắn phá, sục sạo tìm nơi ẩn nấp của cán bộ, du kích, khủng bố gia đình có người tham gia kháng chiến. Càng về sau mật độ càn quét, đánh phá của địch càng dày, càng ác liệt. Chúng bắn pháo cầm canh vào làng, dùng trực thăng vũ trang, máy bay khu trục A37 oanh tạc, dội bom vùng Lạc Hòa, Lạc Ninh. Trong tháng 7.1965, có đến 9 trận càng quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn chủ lực ngụy, có máy bay, đại bác yểm trợ, cố vấn Mỹ chỉ huy, càn quét liên tục hai xã Ninh An, Ninh Thọ. Chúng chà đi xát lại suốt tháng, xóm làng tơi bời, xơ xác. Nhiều nhà bị pháo bắn cháy, trâu bò bị giết, của cải bị cướp phá.
Tình hình hết sức căng thẳng và ác liệt, nhưng quân và dân hai xã Ninh An, Ninh Thọ chiến đấu rất kiên cường, dùng 3 mũi giáp công đấu tranh chống địch quyết liệt. Du kích dựa vào ưu thế địa hình của xã rộng, đan xen nhiều dãi rừng lùm bụi và tiếp giáp với căn cứ bên ngoài, đã chủ động xây dựng các tuyến bố phòng, chông mìn, công sự chiến đấu và bố trí một hệ thống hầm bí mật hợp lý. Địch vào là quần bám tiêu hao địch suốt ngày. Tiêu biểu nhất lúc bấy giờ là hai đồng chí Trần Hùng (tức Hải) Xã đội trưởng xã đội Ninh An và đồng chí Trần Long (tức Vinh) Xã đội trưởng xã đội Ninh Thọ là hai cán bộ chỉ huy du kích rất dũng cảm, năng động và linh hoạt. Các đồng chí luôn nắm chắc lực lượng, bám sát dân, sát địa bàn, địch càn vào là tổ chức lực lượng đánh dưới mọi hình thức: phục kích, tập kích hoặc phân tán gài mìn, bắn tỉa tiêu hao địch cho đến khi địch ra khỏi xã. Có tháng đánh 21 trận, tuy đánh nhỏ lẻ nhưng diệt và làm bị thương nhiều địch.
Lực lượng đấu tranh binh vận, khi địch rải quân chuẩn bị tấn công vào xã là kéo ra xáp mặt binh lính và chỉ huy địch vừa hù dọa, vừa tranh thủ, nhiều lần chúng hành quân qua loa dọc quốc lộ rồi rút về.
Sau mỗi trận càn, hay mỗi lần pháo địch bắn gây thiệt hại tài sản của nhân dân, là đông đảo nhân dân trong từng thôn hay từng khu vực bị thiệt hại, nòng cốt là lực lượng đấu tranh chính trị cắt sừng trâu bò bị chết, mang những đồ đạt, vật dụng bị pháo bắn cháy, kéo vào quận đường đấu tranh quyết liệt và nằm vạ tại công đường, chừng nào địch chịu bồi thường thiệt hại và cam kết không bắn pháo, thả bom vào làng nữa mới chịu về. Địch phải nhượng bộ chấp nhận yêu sách của dân.
Du kích không chỉ đánh quân càn quét mà còn cùng với nhân dân gở đường ray, phá banh nhiều đoạn đường sắt chạy ngang qua 2 xã. Bố trí lực lượng kiểm soát, khống chế địch trên quốc lộ 1, bắn tỉa lính địch trên các đoàn xe quân sự. Nhiều cán bộ, chiến sĩ du kích như anh Chẩn ở Ninh An, anh Sạn ở Ninh Thọ… lúc thì cải trang làm lính bảo an, lúc thì đội rơm rạ bò ra gần Quốc lộ 1 bắn tỉa lính địch trên xe. Tổ du kích thôn Xuân Phong (xã Ninh Thọ) bắn chết tên trung tá tình bảo Mỹ trên chiếc xe Jeef chạy từ Ninh Hòa ra Vạn Ninh, phá hủy xe, thu vũ khí và nhiều tài liệu quan trọng.
Quốc lộ 1 bị cắt đứt, huyện Vạn Ninh bị cô lập, địch bất ngờ chở 5 xe lương thực tiếp tế cho lực lượng của chúng ở Vạn Ninh mà không có quân hộ tống, du kích xã Ninh An phát hiện được chận tịch thu, bắt đoàn xe chạy ngược lên đứng ở phía Nam Hòn Hấu. Ta chưa kịp chuyển, địch tổ chức cấp tốc cuộc hành quân bằng trực thăng ồ ạt bay ra giành lại.
Từ đây ta làm chủ hoàn toàn Quốc lộ 1 và Tỉnh lộ 7 (nay là Tỉnh lộ 1) nhiều tháng liền. Ta dùng xe lam chở muối từ xã Ninh Diêm về căn cứ Đá Bàn dự trữ cho huyện, cho tỉnh. Trong Hồi ký "Những năm tháng nhớ mãi" của đồng chí Nguyễn Hồng Châu (tức Năm Phổ), Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa lúc ấy ghi lại: "Xe ô tô, người gồng gánh từ Phú Thọ đến Đá Bàn qua Lạc Bình, Ninh Thọ rồi Ninh An chở muối dự trữ cho căn cứ. Đông bào miền núi từ Khánh Sơn, Vĩnh Khánh cũng đến Hòn Khói mang muối, lạt muối lâu ngày thấy những đống muối như hòn núi con, ai nấy đều say sưa mà xúc, mà gùi cho nặng về căn cứ". Thời gian này trên Quốc lộ 1 chỉ có xe khách, xe hàng của dân chạy, có lúc ta phá sập cống qua đường hành khách phải xuống xe đi bộ sang.
Mặc dầu ngày nào địch cũng bắn pháo vào vùng giải phóng của hai xã Ninh An, Ninh Thọ, nhưng do có hầm tránh pháo nên nhân dân vẫn bình tĩnh cày cấy. Đồng bào đã quen tai, nghe tiếng đạn pháo bay đã biết nó rơi xa hay rơi gần, gần thì núp tránh, xa thì cứ thản nhiên làm công việc. Đồng lúa của hai xã năm này rất tốt. Riêng du kích xã Ninh An vừa đánh giặc, vừa sản xuất cũng thu hoạch 200 giạ lúa ( mỗi giạ 9 kg).
Tháng 5.1965, đoàn nhà báo Nhật Bản từ phía Nam đi ra tỉnh Phú Yên, đến ngã ba Quốc lộ 1 xuống Hòn Khói, đường bị cắt đứt phải đi bộ. Đến trạm gác của du kích, đoàn xin vào thăm thôn Lạc Hòa (xã Ninh An). Đoàn có 4 người Nhật và 1 người Việt thông dịch và dẫn đường.
Nhân lúc có đồng chí Lưu Văn Trọng, Phó Bí thư Tỉnh ủy ra công tác tại đây, đồng chí nhân danh là cán bộ của xã tiếp xúc với đoàn. Họ tự giới thiệu là phóng viên của một tờ báo của Đảng Dân chủ Nhật sang Việt Nam để tìm hiểu cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Nay họ đến để tìm hiểu vùng giải phóng của ta. Đồng chí Trọng giới thiệu cho họ về phong trào chồng Mỹ cứu nước của nhân dân trong vùng giải phóng, đưa họ đi xem các công sự bố phòng của du kích, những hầm hào chiến đấu, những nhà dân bị địch bắn cháy. Họ quay phim, ghi âm những lời phát biểu của các gia đình nạn nhân. Ta đưa họ đến chùa làng với các tượng Phật còn nguyên vẹn, để họ hiểu chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng. Buổi cơm trưa hôm ấy, được dọn trong một căn nhà của một đồng bào theo đạo Thiên chúa, dưới tượng Đức mẹ Ma-ri-a và Chúa Jésus. Họ tò mò muốn tìm hiểu ta dùng loại vũ khí gì. Ta chỉ cho họ là súng tiểu liên bá xếp (tulle) của Pháp, súng garant và tông-xông của Mỹ. Nghe pháo bắn, họ nhốn nháo, nhưng rất ngạc nhiên khi thấy cán bộ ta và chủ nhà vẫn tươi cười, bình thãn coi như không có gì xảy ra. Họ phát biểu cảm tưởng là rất khâm phục cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Chiều ngày hôm đó, ta đưa họ ra đường để đi Phú Yên.
Đến tháng 9.1965, thực hiện Nghị quyết của Đại hội, chủ trương của Huyện ủy và căn cứ vào thực tế, du kích các xã vùng giải phóng đã có bước trưởng thành, Ban Chỉ huy huyện đội Bắc Ninh Hòa rút tất cả các lực lượng vũ trang của huyện về biên chế tổ chức lại thành 3 đại đội bộ binh. Do huyện đội lấy mật danh là H70, nên các đại đội lấy phiên hiệu là H71, H72, H73.
- H71 là đại đội mạnh, quân số đủ 3 trung đội, được trang bị 6 trung liên, 1 cối giải phóng 60 ly, do đồng chí Nguyễn Hồng, làm Đại đội trưởng, Trương Nhân làm Chính trị viên, Lê Hồng Thái làm Đại đội phó đứng ở vùng Tây.
- H73 (thiếu một trung đội), do Phan Lý làm Đại đội trưởng, Nguyễn Lường (tức Hớn) làm Chính trị viên đứng ở vùng Đông.
- H72 (thiếu một trung đôi), do Lê Trung phụ trách Đại đội trưởng đứng ở Vạn Ninh.
- Các binh chủng chuyên môn có: phân đội trợ chiến, trang bị 1 khẩu đại liên, 1 ĐK57 ly, 1 cối 60 ly; một tiểu đội trinh sát đặc công và 1 tổ công binh.
Huyện Nam Ninh Hòa, 1 đại đội bộ binh (thiếu 1 trung đội) do Lê Trương, làm Đại đội trưởng; Huỳnh Bảy làm Chính trị viên và 1 tiểu đội đặc công do Mai Xảo làm Tiểu đội trưởng.
Vũ khí của các đơn vị vừa tự trang bị, vừa được Phân khu Nam trang bị bổ sung từ số vũ khí miền Bắc chi viện, do tàu không số chuyển vào tại Vũng Rô, ta đi nhận về nên khá đầy đủ.
Đến lúc này, Ban Chỉ huy huyện đội Bắc Ninh Hòa do Võ Danh huyện đội trưởng, Lê Khá chính trị viên, Phạm Tương và Võ Ngọc Ẩn, huyện đội phó.
Huyện Nam Ninh Hoà do Nguyễn Nam Huyện đội trưởng, Nguyễn Hữu Xuân Chính trị viên, Nguyễn Văn Thường Huyện đội phó.
Huyện Bắc Ninh Hoà thành lập đảng đoàn quân sự gồm các đồng chí: Võ Danh, Bí thư, Lê Khá và Trương Nhân, ủy viên.
Cuối năm 1965, phân đội trợ chiến của Huyện đội Bắc Ninh Hòa - Vạn Ninh được bổ sung quân số, xây dựng thành Đại đội 4 trợ chiến, trang bị 2 khẩu ĐK75 ly, 2 khẩu cối 82 ly liền đó Đại đội 4 và 1 Trung đội của Đại đội H71, kể cả vũ khí và đồng chí Phạm Tương Huyện đội phó được rút về tỉnh.
Về Đảng, mỗi đại đội được tổ chức một chi bộ. Tiểu đội trinh sát và cơ quan huyện đội Bắc Ninh Hòa một chi bộ. Tiểu đội đặc công và cơ quan huyện đội Nam Ninh Hòa 1 chi bộ.
Từ 1-2 tiểu đội năm 1961, sau 4 năm vừa chiến đấu vừa xây dựng trong điều kiện rất nhiều khó khăn, đến tháng 9.1965 cả hai huyện Nam và Bắc Ninh Hòa đã tự bổ sung quân số, xây dựng thành 3 đại đội bộ binh (nếu kể cả 1 đại đội cho huyện Vạn Ninh là 4 đại đội) 1 đại đội trợ chiến, và gần 3 tiểu đội binh chủng chuyên môn (đặc công, công binh) là một sự phát triển, trưởng thành rất nhanh chóng. Như một sự lập lại thành tích của thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Ở huyện Bắc Ninh Hòa, sau khi thành lập các đại đội, việc bảo vệ căn cứ Đá Bàn giao cho các trại sản xuất, và cho trường huấn luyện tân binh đảm nhận. Các đại đội, được lệnh mở đợt hoạt động tấn công địch, hỗ trợ cho các xã bảo vệ vùng giải phóng.
Cuối tháng 10.1965, Đại đội H71 phục kích trung đội bảo an ở một địa điểm gần ngã ba đường đi Hòn Khói, diệt 1 tiểu đội, số còn lại chúng chạy thoát. Tiếp theo, phối hợp với Đại đội H73 diệt gọn trung đội nghĩa quân xã Ninh Diêm tại một địa điểm phía Nam núi Đò xã Ninh Hải thu 4 súng trường, 1 tiểu liên và 1 máy bộ đàm PRC10. Bên ta 1 chiến sĩ hy sinh và 1 bị thương; đồng chí hy sinh quê thôn Phú Thọ, ta đưa về gia đình mai táng chu đáo. Sau trận này xã Ninh Diêm được giải phóng trọn vẹn.
Đồng khởi giải phóng ở Ninh Hòa nói chung là một quá trình kết hợp chặt chẽ giữa tấn công quân sự và nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng. Là sự vận dụng sáng tạo, nhuần nhuyển phương châm 2 chân 3 mũi giáp công diễn ra liên tục và giành thắng lợi to lớn. Hơn 2 vạn dân được giải phóng và khoảng 2 vạn dân nằm trong các vùng trranh chấp và làm chủ của ta, kể cả trong trung tâm quận lỵ, chiếm gần một nửa số dân trong huyện. Qua đó, Đảng bộ 2 huyện đã động viên được cao trào toàn dân kháng chiến rất sôi nổi.
Từ năm 1961 đến cuối năm 1965, là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ sôi động nhất của Ninh Hòa, khác nào cao trào kháng chiến trong cuộc Đông Xuân 1953-1954 thời kháng chiến chống Pháp được lập lại.
Đến cuối năm 1965 đầu năm 1966, địch chiếm lại được các xã Ninh Hưng, Ninh Diêm và phía bắc xã Ninh Đông. Riêng 2 xã Ninh An, Ninh Thọ nằm trên trục hành lang nối liền giữa 2 căn cứ Hòn Hèo và Đá Bàn của ta, trực tiếp khống chế trục Quốc lộ 1 của địch chạy ngang qua 2 xã, đã kiên cường bảo vệ thắng lợi vùng giải phóng suốt 2 năm (11.1964 - 10.1966), trước sức tấn công liên tục và tàn bạo của kẻ thù là một thắng lợi có ý nghĩa rất đặc biệt.
Những xã chúng chiếm lại được, thì ở đó chúng không còn thống trị, kiểm soát được dân như trước, vì qua thời gian giải phóng, quần chúng được giáo dục, đa số được ghép vào tổ chức, hệ thống nòng cốt lãnh đạo được hình thành. Qua sự lãnh đạo của chi bộ, của các Ban cán sự, nhân dân tiếp tục giữa vững và phát huy tốt vai trò làm chủ của mình. Uy thế chính trị của bọn ngụy quyền tay sai bị hạ gục. Số nhân viên ngụy quyền vừa dựng lên, tinh thần hoang mang dao động, đêm đêm trốn ngủ trong vùng sâu. Nhân dân vẫn tiếp tục làm chủ thôn xóm.
Các xã vùng giải phóng Ninh An, Ninh Thọ… ngoài số thanh niên thoát ly đưa về huyện, về tỉnh, bổ sung cho tiểu đoàn 30 phân khu Nam hàng trăm người, mỗi xã còn xây dựng được mỗi thôn 1 tiểu đội, ở xã 1 trung đội du kích mạnh, trang bị súng trung liên.
Cán bộ chỉ huy xã đội, trung đội, thôn đội, tiểu đội rất nhiệt tình cách mạng, chỉ huy chiến đấu rất dũng cảm, sáng tạo và linh hoạt, xứng đáng với các bậc đành anh ở các đơn vị tập trung và kế thừa xứng đáng với các bậc đi trước trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Dân quân du kích các xã, nhất là ở 2 xã Ninh An, Ninh Thọ 1 tổ cũng đánh, 1 người cũng đánh, người lớn đánh, thiếu niên cũng đánh, đánh lật cả tàu lửa quân sự địch, diệt được ác ôn thu vũ khí. Nam đánh, nữ cũng đánh giặc rất kiên cường không kém nam giới.
Nhiều mẹ, như mẹ Nguyễn Thị Nhiên ở Lạc Ninh, xã Ninh Thọ có 5 người con trai của mẹ đã thoát ly làm cách mạng, người con gái hôm sớm, đỡ đần giúp mẹ cũng ra đi tham gia kháng chiến. Hàng ngày, mẹ chăn mấy con bò dọc theo đường sắt để nắm tình hình giúp cho bộ đội, du kích đánh tàu lửa quân sự địch và cùng nhân dân đấu tranh chính trị, binh vận. Cách mạng gặp khó khăn về tài chánh, mẹ tham gia vận động đồng bào trong thôn xóm cho cách mạng mượn tiền, mượn vàng để mua lương thực, thực phẩm nuôi cán bộ và bộ đội đánh địch.
Nhờ sự lãnh đạo quyết tâm, sát đúng của hai Đảng bộ Nam và Bắc Ninh Hòa, tinh thần chiến đấu dũng cảm và sự đoàn kết gắn bó keo sơn giữa quân và dân trong huyện, Ninh Hòa đã đương đầu thắng lợi trước mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của Mỹ-Ngụy và trước sực mạnh bom đạn tàn bạo của kẻ thù, làm cho những chổ dựa chủ yếu của đế quốc Mỹ trong chiến lược chiến tranh đặc biệt là ngụy quân, ngụy quyền bị lung lay tận gốc, "quốc sách ấp chiến lược" - xương sống của chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị đánh bại. Tinh thần ngụy quân, ngụy quyền hoang mang sa sút nghiêm trọng.