Chương X - Cuộc đấu tranh giữ gìn lực lượng cách mạng
ĐẤU TRANH ĐÒI MỸ-DIỆM THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Ninh Hoà là chiến trường sau lưng địch. Trong cuộc đấu tranh giữa ta và địch trong nhiều năm liền diễn ra trong thế giằng co quyết liệt, phong trào kháng chiến trong huyện nhiều lúc hết sức khó khăn. Nhưng đến Đông-Xuân 1953-1954, khi phong trào kháng chiến trong cả nước lên đến đỉnh cao giành thắng lợi quyết định, thì ở Ninh Hoà ta đó giải phóng toàn bộ vùng nông thôn đồng bằng và đang thừa thắng chuẩn bị tiêu diệt tiếp các cứ điểm còn lại của địch. Ngày 20.7.1954, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết. Theo hiệp định này, nước Việt Nam tạm thời chia làm 2 miền, ranh giới tạm thời tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, miền Nam còn do đối phương tạm thời quản lý. Việc thống nhất đất nước sẽ thông qua hiệp thương tổng tuyển cử vào tháng 7.1956.
Mặc dầu trước đó có biết là ta và đối phương đang họp Hội nghị Genève về vấn đề Đông Dương, nhưng tin đình chiến đến với Ninh Hoà vẫn thấy đột ngột. Lúc bấy giờ ta đang trên đà chiến thắng dồn dập, tâm lý mọi người đều muốn đánh tới để giành thắng lợi lớn hơn nữa, nhưng đột nhiên phải ngừng bắn, chuyển quân tập kết ra miền Bắc. Ninh Hoà từ chỗ sắp giải phóng, nay trở thành vùng lãnh thổ hoàn toàn do đối phương quản lý. Do vậy, quân và dân Ninh Hoà tiếp nhận thắng lợi của hiệp định trong tâm trạng vừa vui mừng, vừa lo âu. Mừng vỡ miền Bắc được giải phóng, một thắng lợi mà nhân dân ta đó đổ biết bao xương máu mới giành được. Lo âu là rồi đây tình hình sẽ ra sao khi chính quyền và bộ đội ta rút hết ra miền Bắc. Nhân dân sẽ sống như thế nào dưới nanh vuốt tàn bạo của kẻ thù. Đấu tranh chính trị bằng phương pháp hoà bình, liệu có buộc được địch thi hành Hiệp định Genève không ? Cuộc sống của những người kháng chiến cũ rồi sẽ ra sao ?...
Về địch, bước sang giai đoạn mới, kẻ thù của cách mạng nước ta không còn là thực dân Pháp mà là đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ và là tên sen đầm quốc tế có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trong các thế lực đế quốc phản động từ lâu đó dòm ngó nước ta. Một mặt, Mỹ giúp thực dân Pháp xâm lược nước ta, gánh chịu tới 73% chi phí chiến tranh cho Pháp, mặt khác, âm mưu thay Pháp độc chiếm Đông Dương. Lợi dụng khi Pháp thua to ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết, Mỹ nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, ép Pháp công nhận Ngô Đình Diệm, một tên quan lại phong kiến được nuôi dưỡng, đào tạo từ nước Mỹ làm Thủ tướng. Ra sức xúi giục và tổ chức bọn địa chủ, tư sản, các đảng phái chính trị phản động, bọn lưu manh, bọn phản cách mạng, bọn cầm đầu ngụy quyền, ngụy quân tàn ác, một số giáo sĩ tôn giáo và một số giáo dân di cư lầm mưu địch làm chỗ dựa, nhằm thực hiện mưu đồ đen tối của chúng là thống trị miền Nam Việt Nam. Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, và là căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam châu Á. Đồng thời, lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở Đông Nam châu Á lúc bấy giờ, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác.(37)
Thực hiện mưu đồ trên đây, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược Ai-xen-hao - một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới. Dùng viện trợ kinh tế, quân sự, thông qua hệ thống "cố vấn" Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm cùng với lực lượng quân ngụy trên 20 vạn tên để nô dịch nhân dân miền Nam và tiến hành cuộc "chiến tranh một phía" bắt đầu từ cuối năm 1954.
Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là con đường sống còn của nhân dân ta. Ngày 27.7.1954, trong lời kêu gọi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rõ: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ…"
(37) Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV.
(38) Hồ Chí Minh tuyển Tập. NXB Sự thật, Hà Nội 1960, trang 490.
"Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc rằng, đồng bào sẽ đặt lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước".(38)
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9.1954 cũng vạch ra nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam là: "Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng. Chống những hành động tiến công của địch, giữ lấy quyền lợi của quần chúng đó giành được trong thời kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích của ta. Khẩu hiệu chung của miền Nam lúc này là: "Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ", thực hiện chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để tranh thủ ảnh hưởng và tạo sự đồng tình rộng lớn buộc ngụy quyền phải tuân theo hiệp định đình chiến, phải thừa nhận quyền tự do dân chủ của nhân dân trong một mức độ nào đó, phải tán thành tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà.".
Ở Ninh Hoà, trước ngày đình chiến tháng 7.1954, bộ máy ngụy quyền tay sai của Pháp ở cơ sở đều bị tan rã. Sau tiếp quản, ngụy quyền Ngô Đình Diệm gấp rút thiết lập lại bộ máy hành chánh các thôn bằng cách chọn lọc, tập họp lại những tên tay sai đắc lực của Pháp sang làm tay sai cho Mỹ, thực chất là chuyển từ bộ máy tay sai của Pháp sang làm tay sai cho Mỹ. Lúc đầu ngụy quyền Ngô Đình Diệm vẫn giữ hình thức tổng và vẫn lấy thôn là đơn vị hành chánh cấp cơ sở. Toàn huyện lúc này có 123 thôn, bộ máy thôn gọi là "Hội đồng hương chính thôn" gồm có chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký. Từ năm 1955, Ninh Hoà có thêm 5 buôn người dân tộc Êđê, tổng số thôn lên tới 128, chia thành 28 xã. Bộ máy xã lúc đầu gọi là "Hội đồng hành chánh" sau đổi lại là "Uỷ ban hành chánh", đứng đầu là chủ tịch uỷ ban. Bộ máy thôn chỉ còn trưởng, phó thôn. Đầu 1960, chúng cho sát nhập một số thôn ít dân lại với nhau, toàn huyện chỉ còn 111 thôn, 20 xã (19 xã người kinh, 1 xã người dân tộc thiểu số), tổng số dân có 74.582 người, phật giáo chiếm 30%, Thiên chúa giáo 5%, Cao đài và Tin lành 1%.(39)
(39) Theo "Địa chớ quận Ninh Hòa" của ngụy quyền quận Ninh Hòa năm 1961.
Đi đôi với việc thiết lập hệ thống hành chánh, an ninh ổn định tình hình, chúng lần lượt thành lập các tổ chức chính trị phản động như: "Đảng cần lao nhân vị", "phong trào cách mạng quốc gia", các ngụy đoàn thể như: "Thanh niên cách mạng" (sau đổi thành Thanh niên cộng hoà), "phụ nữ liên đới", "hiệp hội nông dân". Đồng thời ra sức tập hợp các thế lực phản động trong các tôn giáo, trong người Hoa, người dân tộc thiểu số làm hậu thuẫn cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Bí mật tổ chức mạng lưới gián điệp, chỉ điểm nắm tình hình chuẩn bị cho bước đàn áp, đánh phá phong trào cách mạng tiếp theo.
Lực lượng quân ngụy có một đồn bảo an và 1 đại đội bảo an cơ động đóng tại quận lỵ. Lực lượng phòng vệ dân sự toàn huyện có 5644 tên, ghép thành 549 toán, nằm trong 153 liên toán. Mỗi xã có xã đoàn chỉ huy, ở huyện có phòng dân vệ, dưới sự chỉ huy, điều hành của tên quận trưởng. Các tổ chức chuyên môn cấp quận có: chi công an, chi thông tin, chi chiêu hồi, 1 đồn cảnh sát, 1 đồn hiến binh. Toàn huyện có 1175 liên gia, 287 đại biểu. Đồng thời với ổn định tổ chức kiểm soát nhân dân, hàng ngày chúng ráo riết tuyên truyền đề cao Mỹ, đề cao "chính nghĩa quốc gia"!, nói xấu "Cộng sản".
Tuy vậy, những tháng cuối năm 1954, khắp thôn xóm còn bao trùm không khí vui mừng hoà bình, ảnh hưởng của cách mạng đang rộng lớn trong nhân dân. Nội bộ địch đang bận lo đấu đá thanh toán lẫn nhau giữa bọn tay sai thân Pháp, thân Mỹ. Mặt khác đang lúc chúng phải tập trung sự quan tâm, tập trung lực lượng đàn áp, tiếp quản các tỉnh vùng tự do Liên khu 5, nên tình hình ở Ninh Hoà cho đến cuối năm 1955 vẫn còn nhiều sơ hở.
Tranh thủ tình hình thuận lợi, Ninh Hoà nhất là các xã phía Nam huyện tổ chức được nhiều phong trào quần chúng rất rộng rãi và mạnh mẽ như: phong trào phục hoá, khai hoang, tăng gia sản xuất cải thiện đời sống; phong trào học bình dân học vụ xóa mù chữ; phong trào tổ chức mừng Tết hoà bình, dưới nhiều hình thức văn hoá, văn nghệ quần chúng như: diễn kịch, hô bài chòi, sáng tác ca dao, câu đối, câu đố, múa điệu múa chim bồ câu trắng… ca ngợi hoà bình, hoà hợp dân tộc, phản đối khủng bố, trả thù; phong trào xoá bỏ mặc cảm, tị hiềm, thăm viếng chúc Tết những gia đình neo đơn, nghèo khó (phần lớn nhằm vào các gia đình có con em hy sinh, hay đi tập kết ra miền Bắc). Do hình thức, nội dung vừa mới, vừa có ý nghĩa sâu sắc, hợp với hoàn cảnh chiến tranh vừa kết thúc, hợp với tâm tư tình cảm của nhân dân cho nên được nhân dân, không phân biệt bên này hay bên kia trước đây, hưởng ứng mạnh mẽ. Nhiều chùa phật giáo trong huyện tổ chức cầu siêu các chiến sĩ trận vong, cầu hoà bình, cầu quốc thái dân an. Ngụy quyền các thôn xã được lệnh ngăn chặn, nhưng không làm được.
Bước sang giai đoạn cách mạng mới, từ đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị bằng phương pháp hoà bình, Huyện uỷ Ninh Hoà đứng trước nhiều vấn đề rất mới mẽ, phức tạp. Tình hình đó, đòi hỏi phải có sự chuyển hướng về nhận thức, sắp xếp lại lực lượng, phải có sự thay đổi về phương châm, phương thức hoạt động, phương thức đấu tranh… Do vậy, vào những tháng cuối năm 1954, Huyện uỷ tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết tháng 8.1954 của Tỉnh uỷ, xác định rõ kẻ thù, và giải quyết những vấn đề nói trên đồng thời, bố trí lại lực lượng cán bộ, theo quy định của Tỉnh uỷ.
Cơ quan lãnh đạo huyện chỉ để lại 7 đồng chí, gọn nhẹ để có điều kiện bảo đảm bí mật, tránh bộc lộ lực lượng địch viện cớ phá hoại hiệp định, khủng bố nhân dân. Ở mỗi xã chỉ để lại từ 2 đến 3 cán bộ thoát ly, sống bất hợp pháp hoạt động bí mật (toàn huyện có khoảng 30 đồng chí). Tất cả số còn lại (khoảng 200 người) được trở về lại gia đình, sống như người dân, cùng nhân dân đấu tranh thống nhất nước nhà.
Huyện uỷ đầu tiên được Tỉnh uỷ chỉ định gồm có các đồng chí: Đặng Vinh Hàm, Nguyễn Hửu Thiều, Nguyễn Châu (Châu Râu), Mai Tư, Nguyễn Bào, Lê Trọng Lợi, Lê Đình Thuật, do Đặng Vinh Hàm, Ủy viên Thường vụ Tỉnh uỷ làm Bí thư; Nguyễn Hửu Thiều Phó Bí thư, Nguyễn Châu, Ủy viên Thường vụ.
Cơ quan thường trực Huyện uỷ có các đồng chí: Phạm Đình Ý(đại đôi phó đặc công) làm công tác bảo vệ, Nguyễn Quý(40)làm công tác văn thư, ấn loát. Lê Mét và 2 nhân viên là Nguyễn Đợi và Nguyễn Phương phụ trách công tác liên lạc bất hợp pháp về tỉnh và xuống các vùng, các xã trong huyện.
Đầu năm 1955, đồng chí Tô Văn Ơn (Sáu Ngô), Tỉnh uỷ viên, phụ trách huyện Vạn Ninh, được tỉnh điều vào Ninh Hoà làm Bí thư thay đồng chí Đặng Vinh Hàm. Tháng 8.1956, đồng chí Tô Văn Ơn về công tác ở Thường vụ Tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Thặng phụ trách ngành binh địch vận tỉnh, được bầu vào Tỉnh uỷ, về làm Bí thư thay đồng chí Tô Văn Ơn.
(40) Cuối 1955, Nguyễn Quý đầu hàng làm tay sai cho địch chống lại cách mạng, chống lại nhân dân.
Trong Huyện uỷ, đồng chí Lê Trọng Lợi, đầu năm 1955 được tỉnh điều vào nhận công tác ở phía Nam Khánh bị địch phục bắn bị thương, bị bắt tại dốc Thờ xã Ninh Lộc; đồng chí Lế Hiến Thuần, Huyện uỷ viên huyện Vạn Ninh, được Tỉnh ủy điều bổ sung vào Huyện ủy Ninh Hoà, phục trách vùng Tây. Cuối năm 1955, đồng chí Thuần hy sinh, đồng chí Ngô Đến, Huyện uỷ viên huyện Vạn Ninh được điều bổ sung tiếp vào Huyện uỷ Ninh Hoà, phụ trách vùng Tây thay đồng chí Thuần.
- Vùng Đông có Cao Lượng, Nguyễn Thành (Ninh Đa) Phan Giỏi (Ninh Phú), Võ Đình Dung (Ninh Hà), Võ Đình Hiến (Ninh Phước), các đồng chí Thăng và Thị (Ninh Diêm).
- Ở Ninh An, Ninh Thọ có: Lê Hay, Mai Ngọc (Ninh Thọ), Dương Chồi, Nguyễn Ân (Ninh An). Đồng chí Mai Tư, Huyện uỷ viên phụ trách 2 xã này.
- Vùng Tây có Nguyễn Khiết, Nguyễn Thuần, Lê Nam (Ninh Thân) Lê Bình, Lại Tuân (Ninh Đông) Võ Tự Do (Ninh Phụng). Các đồng chí Lê Hiến Thuần rồi Ngô Đến phụ trách vùng này.
- Vựng Nam có Lê Hữu Tim, Phùng Sái (Ninh Ích) Trần Như Hổ, Nguyễn Long (Ninh Lộc) Nguyễn Châu (Châu Nò, Ninh Hưng), Phạm Lý Trung (Ninh Bình) - Đồng chí Nguyễn Bào, Huyện uỷ viên phụ trách vùng này.
Ngoài ra, còn có một số cán bộ quân sự, chiến sĩ đặc công, quân báo được để lại trên địa bàn với ý định "khi cần thiết, tập hợp lại làm bộ khung xây dựng lực lượng vũ trang, gồm các đồng chí Nguyễn Quang (Hà), Nguyễn Phan, Hồ Mão (Ninh Đa), Nguyễn Xuyên (Ninh Hưng) Phạm Ngọc Thử (Ninh Đa) Nguyễn Sơn (Thị trấn)…(41)
(41). Đến cuối 1955, đã có một số cán bộ xã đầu hàng phản bội, chống lại cách mạng như: Trần Như Hổ, Nguyễn Châu (Châu Nò), Nguyễn Xuyên, Nguyễn Quang, Phạm Ngọc Thử.Đồng chí Lê Hữu Tim vì sức yếu phải đi tập kết ra miền Bắc.
Cơ quan thường trực Huyện uỷ lúc đầu ở vùng rừng Suối Sộp giáp ranh Chánh Thanh (Hòn Hèo) thường xuyên di động, không có địa chỉ cố định, tiếp xúc với các xã qua hộp thơ, qua ám tín hiệu. Huyện uỷ họp thường kỳ 6 tháng một lần, lúc họp ở Hòn Hèo, lúc ở núi Ổ Gà, hoặc ở Đá Bàn vào thời gian trăng sáng. Ban Thường vụ họp theo yêu cầu công việc. Nội dung sinh hoạt chủ yếu là phản ánh tình hình, bàn kế hoạch công tác, nhắc nhở nhau làm tốt công tác bí mật, giữ gìn phẩm chất, ý chí chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quan hệ làm việc giữa Ban Thường vụ với cán bộ các vùng, các xã bằng các cuộc họp, bằng trực tiếp truyền đạt và trao đổi công việc, không dùng công văn, giấy tờ. Cần thiết, thì viết ẩn bằng nước cơm chen vào toa dầu, toa thuốc… Người nhận dùng thuốc sát trùng "tanh-tuy-iốt" thoa để đọc, tuy vậy vẫn phải dùng mật mã hay dùng lối nói lóng. Sổ tay chỉ ghi chép những vấn đề tối cần bằng chữ riêng của mỗi người.
Trừ số rất ít cán bộ được tỉnh quyết định cho đi tập kết ra miền Bắc và số cán bộ hoạt động bí mật, tất cả số cán bộ, đảng viên, những người thoát ly kháng chiến còn lại của huyện đều được bố trí về lại gia đình, sống hợp pháp như người dân, cùng với nhân dân đấu tranh giành quyền sống hàng ngày, đòi địch thi hành Hiệp định Genève thống nhất nước nhà. Đảng viên không còn sinh hoạt trong tổ chức chi bộ nhưng phải giữ vững phẩm chất, niềm tin, quan hệ tốt với quần chúng, khi cần thì Đảng bắt liên lạc giao nhiệm vụ. Đảng viên không được tự ý bắt liên lạc với tổ chức. Mặt khác, ở mỗi xã hay mỗi thôn, lúc đầu cán bộ bất hợp pháp chọn tiếp xúc với một vài đảng viên ít bị lộ, địch ít chú ý, phân công số đồng chớ này liên hệ theo dõi giao việc một cách hợp pháp cho số đồng chí khác. Sau một thời gian sẽ chọn ra những đồng chí tỏ ra vững vàng, kiên định, ít bị lộ hình thành chi bộ để lãnh đạo quần chúng.
Lãnh đạo của Đảng thời gian này chủ yếu là thông qua nòng cốt sống hợp pháp ở thôn, xóm, trong các tổ chức hợp pháp để đưa chủ trương của Đảng vào quần chúng. Hạn chế tối đa hình thức bí mật bất hợp pháp. Nơi nào nhiều cơ sở, cần có sự lãnh đạo trực tiếp, kịp thời, chỉ được hình thành Ban cán sự bí mật, số lượng không quá 3 người, nhưng phải sinh hoạt đơn tuyến giữa trưởng ban với thành viên, không có sinh hoạt tập thể Ban.
Đường lối đấu tranh, là đấu tranh chính trị bằng phương pháp hoà bình trên cơ sở pháp lý của Hiệp định Genève, trên những cơ chế dân chủ giả hiệu của địch. Phương thức chủ yếu là công khai hợp pháp. Có thể kết hợp nữa hợp pháp và bất hợp pháp với điều kiện, phải bảo đảm địch không có cơ sở để xác định là hành động vi phạm hiệp định của ta. Công tác bí mật được coi có tính nguyên tắc và là kỷ luật nghiêm khắc nhất của Đảng. Cán bộ được trang bị súng ngắn, nhưng không được bắn, trừ trường hợp phải tự vệ khi địch áp sát. Bí mật chặt chẽ đến mức như chỉ nhằm giữ gìn lực lượng cho 2 năm sau giành thắng lợi trong tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Ngày 20.7.1955 là thời điểm hai miền phải hiệp thương để thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Ngày 6.5.1955, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra tuyên bố sẵn sàng mở hội nghị hiệp thương với Nhà đương cục miền Nam bắt đầu từ ngày 20.7.1955 để bàn việc tổ chức tổng tuyển cử tự do, nhằm hoà bình thống nhất đất nước vào tháng 7.1956 như Hiệp định Genève quy định.
Ngày 19.7.1955, Chính phủ ta lại gửi công hàm cho chính quyền miền Nam đề nghị cử đại biểu tham dự hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20.7.1955.
Hưởng ứng bản tuyên bố của Chính phủ, thực hiện chỉ thị phát động đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử của Tỉnh uỷ, tháng 10.1955, Huyện uỷ chỉ đạo toàn huyện tổ chức đợt đấu tranh bằng rải truyền đơn, bươm bướm, dán biểu ngữ, kẻ khẩu hiệu trên các quốc lộ, qua đường dây bưu điện gửi đơn, gửi kiến nghị đòi nhà cầm quyền miền Nam đáp ứng công hàm của Chính phủ ta, phát loa kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống khủng bố trả thù người kháng chiến cũ. Đợt đấu tranh có ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân.
Đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm chẳng những không đáp ứng tâm tư nguyện vọng của nhân dân và công hàm của chính phủ ta mà ra sức phá hoại hiệp định, hô hào "Bắc tiến", "lấp sông Bến Hải". Ngày 16.7.1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố "không có hiệp thương tổng tuyển cử, chúng ta không ký Hiệp định Genève, bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi Hiệp định đó.".
Ngày 20.7.1955, Diệm bày trò biểu tình chống hiệp thương, dùng bọn lưu manh, côn đồ đập phá trụ sở Uỷ ban giám sát quốc tế ở Sài Gòn. Ở Ninh Hoà chúng tổ chức kỷ niệm ngày 20.7 là ngày "đau thương, uất hận, đất nước bị chia cắt bởi Cộng sản" trong hàng ngũ tai sai của chúng.
Tiếp đến, ngày 23.10.1955, chúng tổ chức cuộc trưng cầu dân ý truất phế "Quốc trưởng Bảo Đại" tay sai Pháp, đưa Ngô Đình Diệm tay sai Mỹ lên làm "Tổng thống" với hình thức dân chủ giả hiệu rất lố bịch. Chúng hô hào rùm beng "tự do dân chủ","tự do lựa chọn", nhưng bố trí tay sai canh gác, cải trang trà trộn chen dày ở các điểm bỏ phiếu. Dùng màu xanh cho lá phiếu Bảo Đại, màu đỏ cho lá phiếu của Diệm, rồi đặt vè "phiếu xanh bỏ giỏ, phiếu đỏ bỏ thùng" bắt dân học thuộc và làm theo, làm trái là "thân Cộng", sẽ bị khủng bố.
Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, nhân dân đấu tranh bằng dư luận phản đối kịch liệt. Nhiều người vạch mặt Diệm là tên quan lại gian ác khi làm Quản đạo tỉnh Ninh Thuận, là tên bất tài, bất mãn của triều đình Huế, đâu phải là "chí sĩ cách mạng" như chúng tuyên truyền rêu rao. Tầng lớp cao tuổi dựa vào tập tục xưa, cho rằng "phế truất chiếm ngôi vua là phường phản tặc" để lôi cuốn nhân dân chống Diệm. Trong ngày bỏ phiếu, nhiều người viện cớ đau ốm không đến thùng phiếu, nếu buộc phải đi, phải bỏ thì bí mật bấm nát hình Diệm trong lá phiếu khi bỏ vào thùng. Ở nhiều nơi như Phú Hoà (xã Ninh Quang) một số cụ công khai bỏ phiếu Diệm ra giỏ, bị địch phát hiện đe doạ và bắt phải bỏ lại vào thùng phiếu, các cụ kiên quyết không làm theo với lý do "quốc gia hô hào tự do lựa chọn, tín nhiệm ai tụi bỏ cho người ấy". Bọn địch đuối lý, toan dỡ trò hành hung, bị nhân dân xôn xao phản đối và tỏ thái độ ủng hộ hành động kiên cường hợp pháp của các cụ, buộc địch phải nhượng bộ, chờ tìm cớ khác để khủng bố sau.
Qua cuộc trưng cầu dân ý, chế độ độc tài, tay sai Mỹ của Ngô Đình Diệm bị phơi bày trơ trẻn, bị nhân dân bàn tán mỉa mai, đả kích thậm tệ. Tuy nhiên, trong tình hình buổi đầu địch còn nhiều sơ hở, cơ sở và quần chúng cách mạng phạm phải chủ quan, thiếu cảnh giác, thiếu kinh nghiệm trong phương thức đấu tranh mới, để bộc lộ lực lượng, đến khi địch tiến hành "tố Cộng" "diệt Cộng", phong trào bị tổn thất khá nặng.
ĐẤU TRANH CHỐNG "TỐ CỘNG", "DIỆT CỘNG", PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRẢI QUA NHỮNG THỬ THÁCH LỚN.
Sau khi nắm trọn quyền thống trị miền Nam Việt Nam, Diệm hô hào "bài phong, đả thực, diệt cộng". Khẩu hiệu "bài phong, đả thực" chỉ để mị dân, để tỏ ra chúng cũng cách mạng, cũng chống phong kiến, đế quốc, nhưng thực chất là nhằm thực hiện âm mưu của Mỹ hất cẳng Pháp, truất phế Bảo Đại, tiêu diệt lực lượng vũ trang của các giáo phái và lực lượng tay sai khác của Pháp. Mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của Mỹ Diệm là tập trung đánh phá phong trào cách mạng của nhân dân, tiêu diệt Đảng Cộng sản. Sự thực thì ai cũng rõ, bộ máy thống trị của ngụy quyền từ tỉnh đến cơ sở, đều gồm những tên đã nhẵn mặt làm tay sai cho Pháp.
Ở Ninh Hòa, sau khi thiết lập xong bộ máy kiểm soát, ổn định được tình hình, thái độ của địch ngày một hung hăng, bắt đầu đàn áp mạnh phong trào cách mạng, bắt cóc, thủ tiêu những người kháng chiến cũ và quần chúng yêu nước. Đêm ngày 10.9.1955, chúng cho bọn tay sai gian ác đến nhà bắt cóc anh Nguyễn Lưu ở thôn Bình Trị (xã Ninh Bình) đêm đi giết, bỏ xác tại Gò Quýt trong xã.
Anh Nguyễn Lưu, nguyên là Trưởng Ty thông tin - Tuyên truyền của Khánh Hòa trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Lợi dụng điều khoản bàn giao vùng ta quản lý cho đối phương theo Nghị định thư Trung Giã, ta phân công anh ở lại với danh nghĩa trên để hoạt động hợp pháp, tranh thủ nhân dân và cả trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền. Đồng chí Nguyễn Lưu đã thể hiện năng lực của mình trong việc tranh thủ quần chúng. Với tư cách hợp pháp, qua nhiều cuộc tranh luận, anh làm sáng tỏ chính nghĩa của cách mạng. Được cấp trên đồng ý, anh nhận làm Trưởng Ban bình dân học vụ quận. Phong trào bình dân học vụ xóa mù chữ, do anh hướng dẫn phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng của cách mạng ngày một rộng rãi, là điều bất lợi cho địch. Chúng có thể tìm cách sát hại anh, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Huyện ủy Ninh Hòa cử cán bộ gặp anh Lưu bàn việc đưa anh ra bên ngoài. Anh nhận lời nhưng chưa kịp đi thì bị địch giết.
Tiếp sau đó, chúng bắt cóc ông Nguyễn Cúc quê tỉnh Bình Định vào làm ăn sinh sống tại thôn Hà Liên (xã Ninh Hà) bỏ vào bao bố, nhận xuống biển thủ tiêu ông mất tích, chỉ vì ông là một người có tư cách đạo đức tốt, có uy tín trong nhân dân.
Tình hình ở các thôn xóm mỗi lúc một căng thẳng, quyền tự do bị bóp nghẹt, những người kháng chiến cũ và quần chúng yêu nước bị địch khống chế nghiêm ngặt. Tháng 2.1955, Ngô Đình Diệm đề ra chính sách "tố Cộng", "diệt Cộng", một biện pháp chiến lược, được nâng lên thành quốc sách cực kỳ phản động, nhằm tiêu diệt tận gốc phong trào cách mạng miền Nam. Chúng lập "phủ đặc ủy công dân" và "Hội đồng chỉ đạo Tố cộng" với phương châm" tố lâu dài, từng bước, kiên quyết, triệt để "với khẩu hiệu "giết nhằm còn hơn bỏ sót, đạp lên oán thù" và đề ra yêu cầu là "phải tiêu diệt cá nhân phần tử Cộng sản, tư tưởng, tổ chức, uy thế chính trị của Cộng sản, làm cho nhân dân từ chổ cảm tình, ủng hộ đến chỗ sợ hãi xa lánh, căm thù Cộng sản".
Ở Ninh Hòa, địch phát động đợt 1 chiến dịch "tố Cộng, diệt Cộng" vào tháng 11.1955. Chúng huy động cả lực lượng chính trị, quân sự, an ninh, tình báo, thông tin… tổ chức thành các đoàn "Tố Cộng, diệt Cộng" lấy danh nghĩa là đoàn hành chánh lưu động, thành phần gồm những tên tay sai phản động, có hận thù với cách mạng, có ý thức hệ đối lập, bọn bất mãn đầu hàng phản bội, được huấn luyện kỹ lưỡng đi về các thôn, xã củng cố xây dựng ngụy quyền, thực chất là để thực hiện chiến dịch "Tố Cộng, diệt Cộng". Chúng chọn một số thôn, xã có phong trào cách mạng mạnh như thôn Phú Hòa (xã Ninh Quang), thôn Phước Thuận (xã Ninh Đông), thôn Bá Hà (xã Ninh Diêm)… sử dụng bọn tay sai tại chỗ và một số nơi khác đến cùng làm "thí điểm" rút kinh nghiệm, sau đó lan ra các thôn, xã khác.
Chúng đến kiểm soát từng nhà, bắt dân đến chỗ tập trung học "Tố cộng". Nội dung học là thuyết "Duy linh, Cần lao nhân vị" "Cộng đồng đồng tiến", suy tôn Ngô Đình Diệm, xuyên tạc, nói xấu đường lối cách mạng của Đảng ta, phủ nhận công lao của kháng chiến, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vây bắt những người kháng chiến cũ đưa vào Nhà lao Nha Trang, được mệnh danh là "trại cải huấn", "cải hối" để học tập "tẩy nảo", bắt viết giấy phản tỉnh, "sám hối", nhận đi kháng chiến là "tội lỗi", là "phản bội Tổ quốc", ly khai, xé cờ Đảng.
Học xong ở thôn, xã, chúng tập trung nhân dân lên quận, hoặc ở từng khu vực làm lễ ly khai, xé cờ Đảng, bước qua ảnh Bác Hồ, hô khẩu hiệu "đả đảo" lãnh tụ ta, ủng hộ " Ngô tổng thống" của chúng, nhằm hạ uy thế chính trị của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa lực lượng kháng chiến cũ và quần chúng cách mạng.
Các buổi "tố Cộng" thực chất là tập trung dân lại để khủng bố, bắt dân tố giác lẫn nhau, nói xấu cộng sản, bắt dân ly khai cách mạng. Những người không làm đúng hoặc làm ngược lại yêu cầu của chúng, thì bị chúng khủng bố, đánh đập hoặc bắt vào nhà tù tra tấn rất dã man.
Trước những hành động đàn áp trắng trợn của địch, cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh rất kiên cường và khôn khéo. Trừ một số ít phần tử bất mãn, thoái hóa, một số tay sai của chúng giã danh là Cộng sản đấu tố còn hầu hết những người kháng chiến cũ không ai thực tâm "tố Cộng", xé cờ Đảng, ly khai cộng sản. Nhân dân, nhiều người viện cớ đau ốm không đi học, những người bị lùa đến chỗ tập trung thì ngồi im chịu nhục mạ, viện cớ là trong thời kháng chiến sống trong vùng quốc gia kiểm soát, không hiểu gì về cộng sản nên không tố, không theo cộng sản nên không ly khai, bước qua ảnh Bác Hồ là phạm tội với trời phật nên không dám bước, ai có quan hệ với Việt cộng, quốc gia còn chưa biết huống chi dân, biết đâu mà chỉ. Rải rác nơi nào cũng có những người lớn tuổi, có học, có thanh thế trong làng như Nguyễn Hữu Nghệ ở xã Ninh Hưng, Đoàn Quý ở xã Ninh Bình, Phan Chất xã Ninh Đông… đứng lên phản bác luận điệu xuyên tạc của địch, công nhận cộng sản có công đánh Pháp giành độc lập, đồng thời chất vấn, tố cáo những việc làm sai trái của địch tại địa phương. Nhiều buổi học "tố Cộng" trở thành tố địch, chúng đuối lý, lúng túng không trả lời được, bèn hùng hổ trấn áp, đe dọa rồi tuyên bố giải tán buổi học.
Năm 1957, Mỹ-Diệm phát động tố cộng đợt 2, đàn áp nhân dân mạnh hơn. Vừa đánh phá trên quy mô toàn huyện, vừa tập trung có trọng điểm với chủ trương "làm sạch Cộng sản", trên từng vùng theo phương châm "diệt tận gốc, bóc tận rễ".
Tháng 3.1956, Mỹ-Diệm công khai xóa bỏ Hiệp định Genève, tổ chức bầu cử Quốc hội riêng lẽ, ban hành Hiến pháp mới, bầu Diệm làm Tổng thống. Thừa dịp này, bọn phản động địa phương càng lộng hành đánh phá phong trào, trả thù nhân dân quyết liệt hơn.
Chúng tập trung lực lượng tiến hành tố cộng liên miên, làm xong ở thôn xã, chúng chọn người đưa về các địa điểm "tố Cộng" tập trung, bắt những người kháng chiến cũ đứng trên đài cao tố cáo Cộng sản, nhận tội lỗi, xé cờ, tuyên bố ly khai Đảng Cộng sản. Chúng sử dụng những tên lưu mạnh, côn đồ cầm cây gậy đứng bên dưới đài chờ sẳn, để thẳng tay đánh chết những cán bộ, đảng viên bị chúng đưa lên đấu trường, nếu không làm, hoặc làm ngược lại yêu cầu của chúng. Trong các buổi lễ ly khai, nhiều người chỉ nói lên những thắc mắc (giả tạo) của mình với cán bộ lãnh đạo và cố ý giả vờ quen miệng, hô lộn "đả đảo Ngô Tổng thống, ủng hộ Hồ Chí Minh" như trường hợp của chị Nguyễn Thị Hiệp ở thôn Bình Trị, xã Ninh Bình, ông Phẩm ở xã Ninh Đa… tất nhiên là bị địch khủng bố dữ dội.
Đồng thời với việc bắt dân học tập "tẩy nảo", chúng tổ chức quản lý, kiểm soát nhân dân hết sức gắt gao. Ở từng thôn, chúng lên sơ đồ, cải biến địa hình, phân thành từng ô liên gia, đại biểu, ghép các hộ gia đình thành từng "ngũ gia liên bảo", cắt cử bọn tay sai theo dõi kiểm soát nghiêm ngặt nhân dân trong từng nhóm, từng ô, từng hộ gia đình.
Chúng phân hộ nhân dân thành hai loại: các gia đình có người tham gia kháng chiến, có thân nhân đi tập kết, liệt vào loại "nguy hiểm", trước cửa nhà phải treo biển màu vàng, những gia đình chúng cho là không có liên quan với việt cộng, có xu hướng quốc gia thì treo biển màu xanh. Những gia đình biển màu vàng phải chụp ảnh, lập hồ sơ lý lịch nộp cho ngụy quyền xã để theo dõi. Hàng ngày hay hàng tuần, tùy theo từng đối tượng, phải đến trụ sở xã trình diện. Ban đêm phải ngũ tập trung ở nơi quy định, ban ngày bị giám sát sít sao, ra khỏi làng phải xin phép. Nghĩa vụ xâu, thuế phải làm đầy đủ, quyền lợi như phần ruộng công điền được phân loại xấu hoặc bị cắt xén bớt. Mỗi lần trong thôn xóm xảy ra những vụ mất an ninh lập tức bị bắt lên trụ sở tra hỏi, quy kết, đe dọa đủ điều. Những gia đình này luôn sống trong tình trạng căng thẳng như "chim treo trên lửa, cá nằm dưới dao".
Chúng bắt toàn dân phải sắm cây dây, trống mõ, khi phát hiện cán bộ cách mạng về làng phải đánh mõ báo động, toàn dân phải đốt đèn đuốc vây bắt. Trước cổng mỗi nhà phải treo biển "gia đình tôi không sống chung với cộng sản", ban đêm ra khỏi nhà phải xách đèn dầu. Ban ngày ngồi tụm năm, tụm ba là điều cấm, ma chay cưới hỏi đều phải xin phép và bị giám sát chặt chẽ.
Ruộng đất của nhân dân khai hoang trong những năm kháng chiến chống Pháp bị thu lại. Số trâu bò, nông cụ, lúa gạo của căn cứ Đá Bàn để lại phân phối cho dân, dù không còn hiện vật, chúng cũng bắt phải quy thành tiền nộp lại cho chúng. Có nhiều trường hợp trâu bò của gia đình bị chúng gán là của kháng chiến để cướp không của dân. Trong lúc đó thì thuế ruộng đất của chúng tăng gấp đôi, thuế đảm phụ tăng gấp rưỡi, xâu bơi tạp dịch bị huy động liên miên.
Trong thời gian tố cộng, ở thôn xóm ban đêm không một bóng người qua lại, không có tiếng hát, tiếng cười, im lặng đến rợn người. Ban ngày dân ra đường gặp người thân, thuộc gia đình màu vàng không dám tiếp xúc, đau ốm không dám viếng thăm giúp đỡ vì sợ liên lụy, sợ bị gán ghộp là chưa dứt khoát tư tưởng với Cộng sản. Chúng bắt cha phải từ con, vợ phải ly khai chồng, hoặc phải gọi trở về với "quốc gia", hay bố trí bắt nộp cho chúng. Qua "tố Cộng", "diệt Cộng" những người kháng chiến cũ lớp bị giết, lớp bị bắt tù đày, lớp bung chạy sống lưu lạc khắp nơi. Nhiều gia định ly tán, cuộc sống bị suy sụp giữa chừng, vợ con đói khổ phải đi làm thuê, ở mướn. Luân thường đạo lý, nghĩa xóm, tình làng bị đảo lộn hoàn toàn, thôn xóm tóc tang ảm đạm, đời sống của nhân dân vô cùng điêu đứng.
Đồng thời với "tố Cộng", "diệt Cộng" chúng ráo riết bắt lính xây dựng lực lượng chuẩn bị "Bắc tiến". Ở Ninh Hòa chúng tổ chức ở mỗi xã một xã đoàn dân vệ (từ 1 đến 2 tiểu đội) mỗi tổng một tổng đoàn dân vệ (1 trung đội), trang bị và huấn luyện cho Thanh niên Cộng hòa, tổ chức một màng lưới gián điệp, chỉ điểm sâu rộng. Hàng ngày chúng sử dụng số này cùng bọn thám báo len lõi, sục sạo các vùng ven sông, trên các gò đống ven làng, trong vườn các gia đình bị chúng nghi có liên hệ với cách mạng, để phát hiện dấu vết nơi ẩn náu của cán bộ ta.
Giữa năm 1958 về sau, địch tiếp tục "tố Cộng", "diệt Cộng" đợt 3, đánh phá ác liệt cả trong làng và bên ngoài rừng núi. Tháng 5.1957, Diệm ban hành đạo luật "đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật", cho tay chân thẳng tay khủng bố, bắn giết bất kỳ người nào mà chúng cho là "Việt cộng", hoặc có quan hệ với "Việt cộng". Tên xã trưởng, thôn trưởng cũng có quyền bắt người tra tấn cho đến chết. Đầu năm 1959, tên Tổng Luận, Chủ tịch Hội đồng hành chánh liên xã Ninh An, Ninh Thọ cho tay chân bắt đồng chí Lê Hay, cán bộ nằm vùng xã Ninh Thọ, tra tấn cho đến chết, rồi đem giấu xác ở vùng rừng tàu bay, cấm nhân dân không được lui tới vùng này. Bọn Công an xã Ninh Phú tra tấn đồng chí Phan Giỏi, cũng là cán bộ nằm vùng cho đến chết tại chỗ. Dựa vào quyền lực ưu đãi này, bọn tay sai ác ôn tha hồ tung hoành, muốn cướp vợ ai thì bắn chết chồng, muốn cướp tài sản của ai thì giết rồi vu khống là có hành vi, chứng cớ quan hệ với "Việt Cộng". Chúng dùng chiêu bài "thân Cộng" để hù dọa tống tiền, cướp của của nhân dân, mua hàng hóa không trả tiền, mượn tiền ai là phải có, nếu không thì tai họa khó lường.
Chúng mở rộng nhà tù, cảnh sát hóa bộ máy ngụy quyền, lùng bắt hàng loạt những người bị chúng tình nghi, nhiều gia đình cả vợ chồng con cái đều bị bắt, nhiều người bị bắt đi, bắt lại 2 đến 3 lần đưa vào trại giam để cải huấn, "cải hối" bằng các ngón đòn tra tấn rất dã man của công an. Có lúc địch còn tổ chức "tố Cộng" trong "cải hối thất", đặt ra tòa án, dùng bọn đầu hàng phản bội trong nhà tù làm "thẩm phán", "công tố viên" đưa những người đảng viên là kháng chiến cũ, những quần chúng yêu nước trung kiên không chịu khai báo, đầu hàng ra luận tội, đấu tố, đánh đập rất tàn bạo. Chúng đày trước sau hơn 60 cán bộ, đảng viên của Ninh Hòa ra các nhà tù Côn Đảo, Chín hầm ở Thừa Thiên-Huế, Tân Hiệp ở Biên Hòa… là những nơi giết tù dã man khét tiếng ở miền Nam của Mỹ-Diệm. Các nhà tù của tỉnh luôn chật ních người, số già yếu không chỗ nhốt thì bắt ngủ tập trung tại huyện, tại xã. Cả miền Nam lúc bấy giờ là một nhà tù khổng lồ của chế độ Mỹ-Diệm.
Ở bên ngoài rừng núi, địch sử dụng bọn gián điệp trà trộn trong số đồng bào đi làm rừng, làm rẫy để theo dõi nắm tình hình, sử dụng bọn thám báo sục vào rừng phát hiện dấu vết, rình mò tiêu diệt cán bộ ta. Bọn này rất lộng hành, chúng biết cán bộ ta có súng nhưng không dám bắn vì sợ vi phạm hiệp định, nên chỉ có một vài tên thám báo cũng dám đi sâu vào rừng, tìm nơi ở của cán bộ ta để tiêu diệt lãnh thưởng. Bọn dân vệ, thanh niên cộng hòa thường bất ngờ bao vây săn lùng các dải rừng gần làng chúng nghi có cán bộ ta ẩn trú, hình thức là săn thú, nhưng thực chất là săn bắt cán bộ cách mạng.
Cán bộ bất hợp pháp của huyện mỗi người sống cách xa nhau hàng ngày đường, một hai tháng mới gặp nhau một lần. Ăn ở đi lại chỉ đơn độc một mình. Nếu bám ven rừng thì phải chui rúc trong rẫy hổi rừng gai để tránh đồng bào đi làm núi. Phải giữ bí mật nghiêm ngặt, thực hiện đúng khẩu hiệu "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng". Từ chỗ ở, đường đi, bếp nấu ăn, cây cột võng nhất thiết không để có dấu tích. Nhiều nơi như giồng Cốc (xã Ninh Trung) ban đêm thường bị cọp chận đường, rình chỗ ở, cán bộ phải cột võng trên cây, hoặc phải có hầm bí mật để ngủ. Sống một mình, cán bộ ta còn phải chuẩn bị bên mình đủ loại thuốc, phòng khi bị thương, bị rắn độc cắn, bị trúng gió để chữa trị.
Số cán bộ bám hầm bí mật trong làng, quanh năm, suốt tháng không thấy ánh nắng, thường xuyên bị địch vây làng, soát nhà, xâm hầm, dùng chó cảnh sát đánh hơi phát hiện. Nhiều lúc phải chui vào đống rơm, đám mía ở tạm, lúc bất trắc phải ép mình trong bồ đựng lúa rồi đổ lúa phủ lên trên để tránh địch. Sức sống của cán bộ bất hợp pháp tưởng chừng không sao thích ứng nổi, nhưng tinh thần như gang thép, tất cả đều kiên cường chịu đựng, không nề gian khổ, không sợ hy sinh, bám làng, bám dân làm nhiệm vụ.
Đến năm 1957, toàn huyện chỉ còn 6 đồng chí: Nguyễn Thặng Bí thư, Nguyễn Hữu Thiều, Phó bí thư; Nguyễn Châu (Châu Râu) Ủy viên Thường vụ; Mai Tư Huyện ủy viên phụ trách xã Ninh Thọ, Võ Tự Do ở xã Ninh Phụng, Dương Chồi ở xã Ninh An, Lê Mét phụ trách đường dây liên lạc bất hợp pháp.
Trước tình hình ngày một xấu, từ cán bộ, đảng viên đến quần chúng nhiều nơi trong huyện đều rất băn khoăn trăn trở, cho rằng: trong lúc Mỹ-Diệm công khai xóa bỏ Hiệp định Genève, hô hào Bắc tiến, thi hành nhiều chính sách cực kỳ tàn bạo để tiêu diệt Đảng ta, tiêu diệt phong trào cách mạng của quần chúng. Còn ta vẫn một mực nhấn mạnh đấu tranh chính trị bằng phương pháp Hòa bình thì không thể nào hạn chế được thủ đoạn đánh phá của địch, không thể nào bảo vệ được lực lượng, duy trì được phong trào cách mạng.
Tuy băn khoăn trăn trở như vậy, nhưng cán bộ còn lại người nào, vẫn bám làng, bám dân hoạt động. Chi bộ thôn Lạc Ninh (xã Ninh Thọ) gồm 3 đảng viên: Mai Tư (bất hợp pháp) làm bí thư và 2 đảng viên sống hợp pháp là Huỳnh Thị Hòa, Huỳnh Thị Rức vẫn tồn tại lãnh đạo quần chúng chống địch.
Giữa lúc đó, vào giữa năm 1957, trong cuộc Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại Suối Giá xã Ba cụm (Khánh Sơn), đồng chí Trần Lê, Khu ủy viên Khu ủy 5, Bí thư Liên tỉnh 3 phổ biến chủ trương của Khu ủy 5 là phải chuyển số cán bộ lãnh đạo và đảng viên sống bất hợp pháp ở căn cứ kể cả số cán bộ tình báo, quân báo, của quân đội ra sống hợp pháp hoạt động, với nhận định rằng: tình hình hiện nay không thể để bộ phận bất hợp pháp tồn tại ở rừng núi, vì rất dễ bị lộ, dẫn đến sự manh động tự phát chống trả bằng hành động vũ trang tự vệ của lực lượng ta, gây rối ren mất ổn định đường lối lãnh đạo của Đảng, vì vậy phải ra sống hợp pháp, hoạt động chủ yếu là hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bất hợp pháp, đồng thời ra sức xây dựng nguồn cán bộ hợp pháp mới, tiến tới hình thành các tổ chức Đảng tồn tại hợp pháp, đứng trong vùng sâu, vùng đông dân cư, nhất là ở các thị xã, thị trấn để chỉ đạo công cuộc cách mạng. Ra hợp pháp có thể mất đi một bộ phận cán bộ, nhưng còn có sự lãnh đạo của Đảng ở miền Nam là điều quan trọng.
Chủ trương này gây ra sự tranh cãi gay gắt trong Hội nghị. Nhiều đồng chí cho rằng: Mỹ-Diệm đang tiến hành "tố Cộng", "diệt Cộng" kiểm soát nhân dân rất gắt gao. Chúng đã phát xít hóa chế độ thống trị của chúng. Cán bộ bất hợp pháp hầu hết đều bị lộ mặt, bọn đầu hàng phản bội làm tay sai cho địch đều biết rất rõ. Tình hình như vậy mà đưa hàng loạt cán bộ ra sống bất hợp pháp khó có thể tránh tổn thất lớn, khó tồn tại để hoạt động… Nhiều ý kiến đề nghị, có thể tạm thời rút hết số cán bộ bất hợp pháp về sâu trong căn cứ tự sản xuất sinh sống, tham gia xây dựng căn cứ, khi có điều kiện sẽ phát triển xuống lại đồng bằng. Những ý kiến tuy chưa có cơ sở lý luận đầy đủ, rõ ràng, nhưng hoàn toàn hợp lý, song không được chấp nhận vì Khu ủy 5 đã có nghị quyết rồi. Tuy không thông suốt, nhưng là chủ trương, chỉ thị của cấp trên nên các cấp ủy Đảng trong tỉnh vẫn thi hành nghiêm chỉnh.
Sau Hội nghị, Huyện ủy Ninh Hòa sắp xếp cho số cán bộ có yêu cầu xin đi tập kết và mất sức ra miền Bắc như: Phạm Đình Ý, Cao Lượng, Lại Tuân. Đồng chí Nguyễn Thặng được rút về Liên tỉnh 3 ra sống hoạt động hợp pháp do Liên tỉnh phân công. Các đồng chí Võ Tự Do, Dương Chồi đổi vùng ra sống hợp pháp chờ nhiệm vụ mới. Huyện ủy Ninh Hòa chỉ còn 3 đồng chí: Nguyễn Hữu Thiều, Nguyễn Châu, Mai Tư do Nguyễn Hữu Thiều làm Bí thư và Lê Mét phụ trách liên lạc. Nhiều vùng trong huyện không còn cán bộ phụ trách. Năm 1957 theo đề nghị của huyện, tỉnh chuyển 3 đồng chí: Võ Bá Hiệp (tức Kiếm), Hồ Sĩ, Phạm Thiệt, nguyên là cán bộ Ninh Hòa đang công tác tại huyện miền núi Vĩnh Khánh về lại huyện, đứng chân ở vùng Nam tiếp nối cơ sở. Sau một thời gian, do số đồng chi này không phải là người quê ở phía Nam huyện nên chỉ bắt mối xây dựng được cơ sở ở các thôn có người thân ở phía Tây huyện như các thôn: Văn Thạch, Đại Cát, Xuân Hòa, Điềm Tịnh. Đầu năm 1958, Liên khu ủy 5 vẫn tiếp tục chỉ thị nhắc nhở các tỉnh là tư tưởng bất hợp pháp và cái túi bất hợp pháp vẫn còn nặng, cần tiếp tục chuyển ra. Đến năm 1959, Khu ủy chủ trương gọi các đồng chí ra hợp pháp trở về căn cứ, thì không ít đồng chí đã bị địch bắt giam cầm, bị thủ tiêu, có người đã đầu hàng phản bội làm tay sai cho địch.
Trong một báo cáo của Khu ủy 5 gửi về Trung ương có đoạn viết "chủ trương này thất bại về cơ bản, vì hầu hết cán bộ đều bị lộ mặt không chuyển ra được". Một số kiên quyết chuyển ra sống hợp pháp (gồm cán bộ từ khu đến đảng viên thường) thì hoặc bị bắt, hoặc buộc phải chạy vào bất hợp pháp trở lại, hoặc chỉ lay hoay tạo thế sống hợp pháp không công tác được. (42)
Ở huyện Ninh Hòa lúc này, địch phát động "tố Cộng", "diệt Cộng" đợt 3, một mặt chúng thi hành một số chính sách mị dân như mở tín dụng đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng trường cấp hai Trần Bình Trọng (nay là trường Đinh Thiên Hoàng), đầu tư hỗ trợ đắp đê ngăn mặn ở 2 xã Ninh Giang và Ninh Hà, làm bi ruột ngựa dẫn nước tưới ở xã Ninh Trung, đầu tư cho không một số vật tư nông nghiệp như phân đạm, thức ăn gia súc (sửa khô, bột bắp) để lấy lòng dân, để dân bầu vợ chồng Ngô Đình Nhu vào Quốc hội tay sai Mỹ. Mặc khác, tiến hành khủng bố ác liệt phong trào cách mạng, tăng cường bắt lính đôn quân, tăng các khoản đóng góp của nhân dân, hô hào "Bắc tiến", gieo rắc không khí chiến tranh, ban hành đạo luật 10/59, thành lập tòa án quân sự lưu động, hợp thức hóa hành động giết người của chúng. Đàn áp Phật giáo, khuyến khích phát triển Thiên chúa giáo (vào đạo Thiên chúa được thưởng tiền, gạo, được che chở, giúp đỡ khi cần thiết). Ngô Đình Diệm cố nâng Thiên chúa giáo thành quốc đạo, để làm hậu thuẫn cho chế độ độc tài gia đình trị và tôn giáo trị của chúng.
Qua màng lưới tình báo, gián điệp, chúng bí mật khống chế, mua chuộc được một số cán bộ kháng chiến cũ thoái hóa biến chất đầu hàng bí mật làm tay sai cho chúng, đánh phá cơ sở, đánh vào uy thế chính trị của cách mạng, của Đảng ta như: Trần Như Hổ, Nguyễn Châu (bí thư xã Ninh Hưng), Hồ Dụng, Nguyễn Quý, Phạm Ngọc Thử, Nguyễn Hửu Chí, Đặng Loan, Nguyễn Gần (tức Ga), Nguyễn Xuyên…
Qua cung cấp tình hình của số này, địch phát hiện được một số hầm bí mật, bắn chết và bắt được một số cán bộ bất hợp pháp của ta như: Lê Bình, Nguyễn Bào, Phùng Sái, Lê Hiến Thuần, Phạm Lý Trung, Phan Giỏi… và hàng loạt cơ sở ở các xã Ninh Đa, Ninh Hưng, Ninh Lộc.
(42) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, trang 348.
Tuy nhiên, đa số cán bộ đảng viên và cơ sở cách mạng bị địch bắt đều đã nêu cao khí tiết, chiến đấu rất kiên cường, để lại nhiều tấm gương cao đẹp. Đồng chí Lê Hiến Thuần bị tên Đặng Loan, một cán bộ nằm vùng của huyện Vạn Ninh đầu hàng làm tay sai cho địch, về quê ở Thạch Định sinh sống bí mật chỉ chỗ ở của đồng chí cho địch, đồng chí bị địch bao vây bắn bị thương nặng, đưa về nhà thương Ninh Hòa cứu chữa để khai thác cơ sở. Đồng chí không để băng bó, mà tranh thủ chút sức lực còn lại vạch mặt địch, phổ biến chính sách của cách mạng cho những người xung quanh rồi trút hơi thở cuối cùng. Đồng chí Ngô Đến (Huyện ủy viên phụ trách vùng Tây, thay đồng chí Thuần) bị bắt đày ra nhà tù Côn Đảo, đồng chí kiên quyết không ly khai Đảng Cộng sản, chiến đấu đến kiệt sức hy sinh trong Hầm Cọp của địch. Đồng chí Phan Giỏi bị địch tra tấn cho đến chết, không hề tiết lộ một điều gì cho địch. Những tấm gương anh dũng của các đồng chí ấy đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với cách mạng.
Trong các đợt "tố Cộng","diệt Cộng", tuy địch dùng bạo lực và nhiều thủ đoạn cực kỳ hiểm độc đánh phá phong trào, đàn áp nhân dân. Nhưng nhân dân được cán bộ của Đảng hướng dẫn đã đoàn kết đấu tranh chống lại địch dưới nhiều hình thức rất dũng cảm và sáng tạo, để bảo vệ lực lượng cách mạng. Không một ai trong huyện tố giác, phát hiện cơ sở cách mạng cho địch. Ngược lại, nhiều người vừa đi học "tố Cộng", vừa nuôi giấu cán bộ cách mạng trong nhà, báo cáo tình hình, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cán bộ ở bên ngoài. Vừa chống "tố Cộng" tại chổ, vừa liên kết với nhau từng tập thể 5-10 người kéo lên quận, lên tỉnh đưa đơn tố cáo và đòi xử trị bọn "cán bộ tố Cộng" cấu kết với bọn ngụy quyền địa phương lợi dụng chiêu bài "tố Cộng" ức hiếp vu khống, tống tiền, cướp đoạt tài sản, ruộng đất, trâu bò, quỵt tiền mượn, tiền mua hàng hóa của nhân dân.
Nhân dân ở hai thôn Lạc Ninh và Xuân Phong (xã Ninh Thọ) do chi bộ lãnh đạo, làm đơn kéo vào quận đấu tranh đòi trừng trị tên tổng Luận - Chủ tịch Hội đồng liên xã Ninh Thọ, Ninh An tra tấn chết đồng chí Lê Hay rồi phi tang, chạy tội. Do có chứng cứ rõ ràng và thái độ đấu tranh kiên quyết của nhân dân, tên quận trưởng Ninh Hòa buộc phải cách chức tên Chủ tịch Hội đồng xã độc ác này.
Một lần, đồng chí Mai Tư (Ba Rồm) đi công tác ghé về thăm nhà tại thôn Lạc Ninh, bị tên Kiên đại diện xã phát hiện, đồng chí chạy thoát không để lại dấu vết gì. Tên Kiên lập biên bản tịch thu tài sản và bắt cả gia đình đồng chí vào trại giam tra hỏi. Hai chị Huỳnh Thị Hòa, Huỳnh Thị Rức đảng viên của chi bộ đã khéo léo tranh thủ một số nhân viên ngụy quyền xã từng có mâu thuẫn với tên Kiên, gây mối nghi nghờ đối với việc làm của tên Kiên, đồng thời hướng dẫn gia tộc và nhân dân trong thôn làm đơn tố cáo tên Kiên quan hệ với Việt Cộng, và vu cáo gia đình đồng chí Mai Tư. Địch nghi ngờ bắt tên Kiên tra khảo. Không chịu được đòn đau, tên Kiên nhận bừa là ra Lạc Ninh nhận tài liệu của "Việt Cộng". Những tên cùng đi với tên Kiên tuy thực sự nhìn thấy đồng chí Mai Tư nhưng quá sợ nên cũng chối phăng là không nhìn thấy. Không đủ bằng chứng, địch phải hủy bỏ biên bản, trả lại tài sản và thả những người bị bắt. Tên Kiên bị bắt giam và mất chức đại diện xã. Nhân dân xã Ninh Thọ mỉa mai tên Kiên "thiện chí quốc gia, đánh già ra Cộng sản".
Nhân dân thôn Phú Gia (xã Ninh An) làm đơn ký tên tập thể toàn thôn, cử đoàn đại diện 20 người kéo vào tỉnh đường đấu tranh đòi trừng trị tên Chủ tịch Ủy ban hành chánh xã Ninh An cướp tiền của, ruộng đất của nhân dân, được chi công an bao che. Đoàn đại diện khi đưa đơn tuyên bố sẽ nằm chờ trước cổng công đường cho đến khi nào được giải quyết thỏa mãn yêu cầu mới trở về. Tên tỉnh trưởng buộc phải cách chức tên chủ tịch ủy ban hành chánh xã và đổi tên phó chi trưởng công an quận đi nơi khác.
Trong điều kiện địch tập trung toàn bộ bộ máy bạo lực phản cách mạng hòng nhanh chóng tiêu diệt ta bằng những thủ đoạn đánh phá cực kỳ tàn ác. Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa chỉ với tay không và tinh thần kiên định cách mạng, đã anh dũng, kiên trì chiến đấu, làm thất bại về cơ bản quốc sách "tố Cộng, diệt Cộng" của Mỹ-Diệm. Mặc dù chúng gây cho Đảng bộ và nhân dân những tổn thất rất nặng nề và khó khăn to lớn, nhưng chúng không thể nào tiêu diệt được Đảng ta, đè bẹp được phong trào đấu tranh của nhân dân. Đến năm 1959, nhiều địa phương trong tỉnh không còn cán bộ, không còn cơ sở cách mạng, ở Ninh Hòa Huyện ủy còn 3 đồng chí, 1 chi bộ và nhiều cơ sở nằm rải rác ở một số thôn trong 3 xã: Ninh Thọ, Ninh An, Ninh Phụng.
Tuy nhiên, trong bước ngoặc mới của lịch sử, do chưa nhận thức và đánh giá đúng bản chất và âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù mới, nên lúc đầu, việc chuẩn bị cho cuộc chiến đấu còn một chiều và đơn giản. Khi kẻ thù quyết liệt dùng bạo lực phản cách mạng chống lại nhân dân, chống phá cách mạng, lãnh đạo các cấp, trước hết là Khu ủy không từ tình hình cụ thể, phân tích cụ thể để có chủ trương cụ thể đưa phong trào cách mạng tiến lên, mà lại rụt rè, e ngại sợ làm trái với chủ trương, phương châm đã vạch ra từ trước, không kiên quyết phát động quần chúng dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của địch. Sai lầm nghiêm trọng này khiến cho hàng vạn cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng trung kiên và hàng chục vạn người dân yêu nước phải hy sinh hoặc bị tra tấn tù đày, cách mạng thoái trào.(43)
(43). Theo cuốn "Khu 5, 30 năm chiến tranh giải phóng". Tập II (cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) thời kỳ 1954-1968.
Ở Ninh Hòa, từ đấu tranh vũ trang, chuyển sang đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình, Đảng bộ chưa có kinh nghiệm rất lúng túng. Chỉ tin và dựa vào sự chỉ đạo của Đảng cấp trên. Không đánh giá và lường hết được mức độ phản động, phá hoại hiệp định một cách trắng trợn của địch và những tình huống xấu có thể diễn ra sau đó, cho nên không có kế hoạch giáo dục, lãnh đạo tư tưởng và kế hoạch bảo vệ lực lượng, bảo vệ phong trào cách mạng một cách cụ thể và chủ động từ trước. Chủ quan, thiếu cảnh giác, trong một thời gian dài (từ 7.1954-1955) để cho cán bộ, đảng viên và cơ sở tiếp xúc với nhau lộ liễu, cải trang đi lại vụng về sơ hở. Đến khi địch chuyển sang tấn công vào Đảng Cộng sản, vào phong trào cách mạng của nhân dân, trả thù người kháng chiến cũ phong trào gặp khó khăn. Trong lúc đó chỉ đạo của cấp trên cũng chưa có sự chuyển hướng gì mới, vẫn nhấn mạnh đấu tranh chính trị một chiều, để địch tự do hoành hành bắn giết cán bộ, nhân dân, phong trào của huyện bị tổn thất rất nặng, trên 40 cán bộ bất hợp pháp, 200 cán bộ về sống hợp pháp, nếu kể 700 thanh niên ra đến tỉnh Bình Định rồi phải trở về, tổng số gần một ngàn người, lớp bị giết, lớp bị bắt, một số đầu hàng và bị địch bắt đi lính đánh lại ta.
Đến năm 1957, Ninh Hòa từ là huyện có phong trào cách mạng rất mạnh, đội ngũ cán bộ rất đông, chỉ còn lại 7 cán bộ bất hợp pháp, lại phải chuyển ra sống hợp pháp theo chủ trương của cấp trên, chỉ còn lại 3 cán bộ lãnh đạo Huyện ủy và một số cán bộ liên lạc bất hợp pháp, khác nào ta tự triệt tiêu lực lượng ta, làm cho cách mạng lâm vào cảnh thoái trào, đen tối.