Chương VIII -Chống chính sách bình định. Tích cực bám dân, khôi phục cơ sở, phát triển phong trào (1950 - 1952)
VÀI NÉT TÌNH HÌNH CHUNG
Năm 1950, tình hình chung có nhiều chuyển biến quan trọng . Tháng 1.1950, nước ta thoát khỏi tình trạng bị bao vây cô lập. Các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt ngoại giao với nước ta. Tháng 9.1950, quân ta thắng lớn ở chiến dịch biên giới phía Bắc, tiêu diệt và bắt sống 8.000 quân địch, giải phóng 35 vạn dân và một dải biên giới dài 750 km nối liền giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Ở Liên khu 5, sau khi các trung đoàn đứng ở các tỉnh được củng cố, Trung đoàn chủ lực 803 thành lập, Bộ Tư lệnh Liên khu mở một loạt chiến dịch ở các tỉnh Quảng Nam, Khánh Hòa, chiến dịch phản công địch ở Sơn Hà (Quảng Ngãi) diệt hàng nghìn địch, giải phóng toàn bộ vùng Tây huyện Duy Xuyên, huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam), đẩy lùi địch ở Sơn Hà…
Ở Khánh Hòa, từ ngày 10 - 17.3.1950, tỉnh mở Đại hội đại biểu lần thứ nhất tại hội trường Hòn Ngang (Hòn Hèo). Về mặt quân sự, Báo cáo chính trị trước Đại hội có nêu khuyết điểm lớn của Tỉnh ủy là chưa chỉ đạo vấn đề quân sự. Mối quan hệ giữa Tỉnh ủy và chính ủy chưa xác định rõ ràng trong vấn đề chỉ đạo quân sự.
Đại hội họp dưới khẩu hiệu "Chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công", trong lúc tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường của tỉnh và của huyện còn chênh lệch nhau rất lớn. Phong trào kháng chiến đang khó khăn, sa sút.
Bước vào năm 1950, lực lượng quân Pháp tại chiến trường Khánh Hòa có khoảng 7.000 tên, trong đó 70-80% là ngụy binh. Lực lượng ấy thuộc vùng Nam Trung bộ và Cao Nguyên (Zone sud d' Annam et hauts phateaux). Bộ chỉ huy đóng tại Nha Trang.
Trong phạm vi Khánh Hòa, địch có 2 phân khu: phân khu Khánh Hòa, cơ quan chỉ huy đóng tại thành Diên Khánh. Phân khu Ninh Hòa, cơ quan chỉ huy đóng tại quận lỵ Ninh Hòa, kiểm soát khu vực từ Lương Sơn ra đến Đại Lãnh - Vũng Rô và xã Hòa Xuân ở phía Bắc đèo Cả thuộc tỉnh Phú Yên.
Phân khu Ninh Hòa có 7 chi khu (quartier): trong đó chi khu Phú Khê ở Hòa Xuân, Phú Yên; Chi khu Vạn Giã huyện Vạn Ninh. Riêng Ninh Hòa có 5 chi khu:
- Chi khu Lạc An, đóng tại thôn Lạc Ninh (Ninh Thọ) với 3 phân khu (Sous quartier) Hón Khói, Phú Sơn, Quảng Cư, kiểm soát khu vực từ Hòn Hèo lên vùng Cung Hòa, Đá Bàn và phía Tây huyện.
- Chi khu Tân Xuân (cây số 12 Dục Mỹ) kiểm soát Quốc lộ 21, kể cả vùng dân tộc thiểu số (Êđê và Raglai) hai bên đường từ đèo Cạnh lên chân đèo Phượng Hoàng, giáp với tỉnh Đak-Lak.
- Chi khu Tân Hưng kiểm soát vùng Tây Nam huyện từ Hòn Lách, Phú Nhơn, xuống Hội Phú, Hội Điền phía Đông huyện.
- Chi khu Rọ Tượng kiểm soát Quốc lộ 1 và khu vực từ Sông Găng trở vào đến Lương Sơn.
- Chi khu lưu động (Quartier mobile) đóng tại trung tâm phân khu Ninh Hòa.
Sau đó, vùng Tây Nguyên tách thành Đặc khu Tây Nguyên, thì ở Khánh Hòa chúng lập một Tiểu khu riêng, Bộ chỉ huy và cơ sở hậu cần của Tiểu khu đóng tại Nha Trang. Hệ thống tổ chức bên dưới vẫn như trước không có gì thay đổi lớn.
Quân số toàn Phân khu Ninh Hòa có 1869 tên (có 463 tên Lê Dương). Trên giao thông đường bộ có 1 trung đội lính Pháp làm nhiệm vụ bảo vệ các đoàn xe vận tải quân sự. Trên mặt biến do Hải đội (Escadre) của Khánh Hòa kiểm soát.
Lực lượng của địch bố trí thành một hệ thống đồn, tháp canh dọc theo các trục giao thông và cắm sâu vào vùng nông thôn. Cứ mỗi thôn lớn hoặc 2 - 3 thôn nhỏ kề nhau có một tháp canh, do 1 tiểu đội lính hương vệ (P.A) đóng giữ. Ở từng khu vực có từ 2 đến 3 đồn lính Gi làm điểm tựa, có một trung đội lính GI (bảo an) do Pháp chỉ huy đóng giữ.
Toàn huyện có trên 70 đồn và tháp canh đan xen, kết nối nhau thành một hệ thống công sự phòng thủ rất dày ở đồng bằng, làm chỗ dựa cho tề nguỵ và tay sai địa phương tiến hành bình định, kiểm soát nhân dân.
Ở mỗi khu vực chúng còn tổ chức một số đơn vị cơ động từ 1 đến 2 trung đội lính GI và lính biệt kích (Commandos) đóng ở các cứ điểm chi khu, phân chi khu làm nhiệm vụ cơ động ứng chiến và càn quét đánh phá ta ở các vùng giáp ranh căn cứ kháng chiến.
Chi khu lưu động có tiểu đoàn lính Âu-Phi, một chi đội xe thiết giáp và 1 đơn vị pháo binh 75 ly… làm nhiệm vụ cơ động ứng chiến trên địa bàn Bắc Khánh Hoà.
Về chính trị, năm 1950 thực dân Pháp đã đưa Bảo Đại về nước lập xong chính quyền bù nhìn Trung ương. Chúng hô hào trao trả chủ quyền cho Việt Nam và làm một số việc mị dân như: Tổ chức những buổi lễ trao trả các cơ quan đốc lý, ty công an, ty cảnh sát… cho tỉnh trưởng bù nhìn. Tổ chức những cuộc "bán đồn" cho Bảo Đại, do quận trưởng đứng ra mua, bắt dân góp tiền trả cho Pháp.
Càng về sau, các thủ đoạn lừa mị, lộn sòng của địch càng xảo quyệt như, thay tỉnh trưởng bị dân oán ghét, mở toàn án xét xử một số tên gian ác bị dân lên án, căm ghét, mà chúng không còn che giấu và sử dụng được nữa.
Về kinh tế, địch tổ chức kiểm soát gắt gao lúa gạo, bắt dân gặt lúa về đồn, đem lúa để ở các kho tập trung trước cửa hoặc trong rào đồn, đặt chức hương lúa trông giữ. Bắt dân đem cối xay, cối giã để trong đồn, làm gạo đem về nhà ăn từng bữa. Có lúc, có nơi chúng còn bắt phải đổ nước vào gạo trước khi đem về nhà, nhằm ngăn ngừa nhân dân để dành gạo tiếp tế cho Việt Minh(30).
Đến mùa thu hoạch lúa, ở những cánh đồng gần rừng, địch đưa lực lượng đến canh giữ không để dân đưa lúa ra rừng hoặc đem về nhà. Chúng thúc ép các chủ ruộng phải gặt thật nhanh, nhiều khi chúng bắt cả tù chính trị ở Nhà lao Ninh Hoà đến gặt khi lúa đang còn chắc xanh và đem về đồn. Hoa màu ngoài đồng như khoai, sắn gần thu hoạch, ban đêm chúng đưa lính đến phục giữ, đón diệt cán bộ ta về lấy.
Hàng ngày, chúng đặt các trạm kiểm soát theo dõi kiểm soát dân đi mua bán ở các chợ, ai mua nhiều hàng bằng gạo tẻ, gạo nếp thì bị tình nghi hạch hỏi, hành hung tịch thu tại chỗ, hoặc ban đêm bí mật đưa lính đến mai phục xung quanh nhà. Ai chống đối, thì tạo tang vật giả để vu khống là có hàng dành tiếp tế cho Việt Minh để tịch thu tài sản của gia đình. Việc làm này đã tạo cơ hội để tề nguỵ địa phương đua nhau tạo cớ để cướp bóc, tống tiền nhân dân hết sức trắng trợn. Binh lính địch mỗi lần đi ruồng bố xung quanh trở về, trong bộ đồ 6 túi mang lủng lẳng nào gà, nào vịt… đem về cho gia đình.
(30). Theo báo cáo của Tỉnh ủy Khánh Hòa năm 1950 gửi về Khu 5 (Bản sao hiện lưu tại Ban Tuyên giáo Huyện ủy).
Lúa để trong đồn, người dân phải gánh chịu rất nhiều khoản phí tổn: Phí hao hụt, công bảo vệ, công quản lý phân phát và chận thu trước các khoản "nghĩa vụ" phải nộp cho chúng. Nhiều gia đình sau khi nộp đủ các khoản, chỉ còn tay trắng phải ăn khoai, ăn chuối non, hoặc đi đào củ mài, củ nần trên núi đem về ăn.
Về tài chánh, mức thuế ngày một tăng cao. Như thuế điền thổ, thuế môn bài, thuế chợ… mỗi chiếc xe xích lô mỗi năm phải nộp tiền chỗ 30 đồng, và nộp cho Tỉnh trưởng 240 đồng. Riêng thuế muối Hòn Khói năm 1950 chúng thu 30 triệu đồng. Chúng còn đặt ra nhiều khoản thu khác như: thu qũy đảm phụ quốc phòng, qũy nuôi lính hương vệ, quỹ mua đồn, quỹ đóng tháp canh, ngân sách các cấp, bắt mua vé xổ số, vé ca kịch… các món thu này làm cho nhân dân kiệt quệ, đời sống xác xơ, điêu đứng.
Chúng bắt dân (trừ người già và trẻ em) ban đêm vào ngủ ở nhà ngủ tập trung trong đồn. Ở đây, chúng bày ra nhiều cách ăn chơi truỵ lạc như: Cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm … để tha hoá từng lớp thanh niên. Chúng tổ chức ca kịch, hát bài chòi xuyên tạc, nói xấu Việt Minh như: "Việt Minh bán nước cho Nga, cho Tàu" "Việt Minh đói khổ, độc ác".v.v.
Ngày 6.12.1950, tướng Đô-lát-đơ-tát-xi-nhi (Delatre Detassigny) sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh kiêm chức Cao uỷ Pháp ở Đông Dương đưa ra kế hoạch 4 điểm: "bình định gấp rút, phản công quyết liệt, đè bẹp lực lượng kháng chiến, mau chóng kết thúc chiến tranh". Thủ đoạn bình định lúc này theo kế hoạch của tướng Đơ-lát là chia mỗi địa phương ra thành nhiều ô, rồi bao vây tảo thanh chà đi xát lại trong từng ô nhiều lần để tiêu diệt và loại trừ lực lượng kháng chiến ra khỏi nhân dân (31).
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CHỐNG ĐỊCH CỦA TA
Năm 1950, nhân dân trong huyện ta vẫn liên lạc được, nhưng số còn trong tổ chức ít dần, nhiều nơi tổ chức đoàn thể chỉ còn trên danh nghĩa. Nhân dân oán ghét địch, có tinh thần đấu tranh, nhưng chỉ tự phát lẻ tẻ. Kinh tế dồi dào nhưng bị địch nắm, kiểm soát chặt, bị cướp bóc, vơ vét, bóc lột nặng, đời sống rất khổ cực thiếu thốn. Số đồng bào ra rừng Hòn Dù, Thùng Nhà Bùi bị địch phong toả khống chế, sản xuất được chút ít, đến mùa thu hoạch, bị địch tàn phá hoặc gặc đưa về đồn, đời sống thiếu đói quanh năm.
(31). Theo cuốn "Khu 5, 30 năm chiến tranh giải phóng", tập I.
Cơ sở chính trị trong vùng địch bị thu hẹp. Cán bộ, du kích bị bật lên núi, đời sống thiếu đói, đau ốm, lại bị địch săn lùng thường xuyên, tinh thần căng thẳng. Rải rác có xã phải sắp xếp cho số đau yếu vào căn cứ 175 Diên Khánh, hay ra vùng tự do Phú Yên sản xuất sinh sống. Đây đó có người về đầu hàng địch gây ảnh hưởng xấu, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cán bộ cách mạng, làm cho tình hình thêm phức tạp.
Nhưng về cơ bản, đa số cán bộ, đảng viên vẫn giữ vững lòng trung thành, ý chí chiến đấu, chịu đựng gian khổ hy sinh, bền bỉ, tận tuỵ tìm mọi cách bám làng, bám dân xây dựng cơ sở. Một số cán bộ không may rơi vào tay giặc, chiến đấu hết sức kiên cường để lại những dấu ấn tốt đẹp trong lòng nhân dân, ảnh hưởng lớn đối với phong trào cách mạng, trong những tháng năm khó khăn đen tối nhất.
Các đơn vị vũ trang không còn nguồn bổ sung quân số, nguồn tiếp tế lương thực như trước, phải gặt lúa của dân từ ngoài đồng, hoặc vào lấy trong các kho lúa tập trung trong đồn, nhiều lúc cũng phải ăn cải trời, môn vóc, môn ngứa thay cơm, sức lực hao mòn, tinh thần uể oải.
Đến giữa năm 1950, trên chiến trường chung chính sách bình đình của địch bị đánh bại ở nhiều nơi, nhưng ở Ninh Hoà, tuy lực lượng địch chất lượng giảm hơn trước, từ 70 đến 80% là nguỵ binh, nhưng địch lại giãn ra được và thành công đáng kể trong chính sách bình định của chúng. Ninh Hoà từng là huyện có phong trào kháng chiến phát triển cao, nay bị thu hẹp và tụt dần, do ta đánh giá không đầy đủ tính chất thâm độc âm mưu địch. Trong lúc địch dùng chiến tranh tổng lực, kết hợp các mặt quân sự, chính trị, kinh tế bình định vùng tạm chiếm, tranh giành lực lượng dự trữ của ta. Chúng kết hợp chặt chẽ hệ thống đồng bót, tháp canh và lực lượng cơ động ứng chiến càn quét đánh phá phong trào, tập trung lúa gạo, tập trung ngủ đồn. Trước tình hình đó, ta thiếu sự nghiên cứu sâu sắc để có chủ trương toàn diện, thích hợp, chưa thật sự bám sát và kiên trì vận động nhân dân.
Tình hình như vậy, nhưng nhiệm vụ "chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công" được cấp trên đặt ra cho Ninh Hoà hết sức quan trọng và nặng nề. Theo đánh giá của Tỉnh uỷ và Liên khu uỷ 5, trong "tổng phản công chiến trường chính của Liên khu là Nam Tây Nguyên. Trung tâm quân sự của địch là Ban Mê Thuột. Ninh Hoà có Quốc lộ 21, nơi địch kiến thiết một khu an toàn làm bàn đạp để tiến lên Tây Nguyên, để giữ Tây Nguyên. Ngăn địch, kìm chế địch, tiêu diệt địch lúc nó rút lui, những điều đó cho thấy Ninh Hoà có vị trí hết sức quan trọng. Nếu để địch còn vận chuyển được trên Quốc lộ 21, củng cố được cả vùng Bắc Khánh để làm bàn đạp tiến lên Tây Nguyên, thì cũng như ta vô tình mở cửa sau cho địch vào làm trở ngại cho việc phản công của ta…".
Để triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn tỉnh lần thứ nhất, tháng 8.1950, cũng tại hội trường Hòn Ngang, Huyện uỷ Ninh Hoà mở Hội nghị cán bộ toàn huyện để soát xét tình hình bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ "chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công". Hội nghị được đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, sau khi dự khoá II Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc ở Việt Bắc trở về, được Liên khu uỷ 5 phân công vào làm Bí thư Tỉnh uỷ Khánh Hoà thay cho đồng chí Tôn Thất Vỹ, đến dự. Đồng chí truyền đạt cho hội nghị nhiều kiến thức mới về chiến tranh nhân dân, về sự thống nhất lãnh đạo quân sự của các cấp uỷ Đảng. Đối với vấn đề "chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công", đồng chí truyền đạt cũng theo cách lạc quan đơn giản. Tuy tư tưởng của Hội nghị lúc này bị ám ảnh rất nặng trước những khó khăn thực tế của địa phương, nhưng vì đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ vừa từ căn cứ Việt Bắc trở về được tiếp thu nhiều điều mới, nên Hội nghị cũng tin là tình hình ắt sẽ có bước phát triển nhảy vọt, nên toàn thể cán bộ dự hội nghị đều nhất trí xây dựng chỉ tiêu kế hoạch rất cao.
Hội nghị đặt mạnh công tác dân vận, mối quan hệ chặt chẽ giữa hoạt động vũ trang với công tác dân vận, xây dựng cơ sở và đề ra nhiệm vụ trọng tâm là "Nắm lấy dân, chống chính sách tập trung dân, tập trung lúa gạo của địch, để tổng động viên, đẩy mạnh nhân dân - du kích chiến tranh, chuyển mạnh sang tổng phản công" . Sau hội nghị, huyện phối hợp với tỉnh tổ chức nhiều đoàn công tác xuống chỉ đạo phối hợp giữa 2 mặt công tác này ở hầu hết các xã trong huyện.
Tháng 12.1950, tại suối Cổ Cò thôn Ninh Tịnh, Tỉnh uỷ mở Hội nghị quân sự Đảng toàn tỉnh để xác định vai trò và bàn kế hoạch lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với lực lượng vũ trang, dân quân du kích trong giai đoạn mới - giai đoạn "chuyển mạnh sang tổng phản công". Để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ mới, Hội nghị đã bổ sung nâng thêm mức các chỉ tiêu phát triển lực lượng lên cao hơn trước.
Sau hội nghị, các Ban chỉ huy Huyện đội cùng với Ban chỉ huy Tỉnh đội do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu và đồng chí Lương Phan Hồ, Chính trị viên Tỉnh đội chủ trì, bàn kế hoạch triển khai cụ thể Nghị quyết Hội nghị quân sự Đảng tại thôn Ninh Tịnh. Hội nghị bị máy bay địch đánh bom trúng vào địa điểm họp, một số đồng chí phục vụ bị thương.
Đầu năm 1951, Tỉnh uỷ, Ban Chỉ huy Tỉnh đội phát động liên tiếp các đợt hoạt động cao điểm nhằm khẩn trương cải thiện và làm chuyển biến mạnh tình hình của địa phương theo kịp với phong trào chung trong Liên khu như: tuần lễ tổng động viên nhân tài vật lực, tuần lễ giết giặc, tuần lễ giành lúa, tuần lễ chống ngủ đồn…
Sau Hội nghị, Đại đội Ninh Hoà chuyển lực lượng lên hướng Tây và Tây Nam huyện, nơi vụ lúa mùa đang thu hoạch, phân tán từng trung đội phối hợp với du kích xã, chận tiêu hao liên tục các toán quân địch bắt dân gặt lúa về đồn, tạo điều kiện cho nhân dân đấu tranh dây dưa, kéo dài vụ thu hoạch để cất dấu không đưa hết lúa về đồn.
Tiểu đoàn 365 của Trung đoàn chủ lực 803 cũng được đưa vào chiến trường Bắc Khánh để phối hợp với các lực lượng của địa phương bảo vệ vụ lúa mùa. Các đồng chí Nguyễn Sắc Kim, Chính uỷ trung đoàn và đồng chí Hà Vi Tùng, Trung đoàn phó cùng đi với tiểu đoàn.
Đầu năm 1951, Tiểu đoàn đánh trận Đồng Thân tiêu diệt một đại đội cơ động địch do viên thiếu tá Pháp tên là Pơ-ti (Petit) chỉ huy hành quân càn quét bắt dân gặt lúa về đồn, diệt và làm bị thương gần 100 tên, bắt sống 15 tên, 3 tên chạy thoát, ta thu toàn bộ vũ khí, có 2 đại liên, 6 trung liên, 2 súng cối 60 ly…
Địch bị đánh đau, tổn thất nặng co lại, lực lượng vũ trang huyện và du kích thừa thắng đột nhập vào vùng sâu đánh phá các khu an toàn, truy quét tề điệp, liên tục gây rối loạn trong vùng sau lưng địch, buộc chúng phải co về phòng thủ và chống đỡ với ta ở bên trong, tạo điều kiện cho nhân dân bên ngoài cất dấu lúa thuận lợi. Trong đợt này, du kích xã Hoà Nghĩa phục kích toán địch đồn Hà Thanh bắt dân đi gặt lúa ở cánh đồng Chánh Thanh, diệt và làm bị thương một tiểu đội, thu 3 súng. Tuy vậy, địch chỉ co lại một thời gian, khi chủ lực của ta rút về lại vùng tự do Phú Yên, chúng lại lần lượt bung ra giành giữ lúa với ta.
Ngoài hoạt động hỗ trợ cho nhân dân thu hoạch, cất giấu lúa, đại đội Ninh Hoà còn huy động dân công hoặc tự mình ban đêm gặt lúa ở những nơi gần rừng như: vùng lúa ở Sở quan (Ninh Lộc) Tân Tứ (Ninh Thượng)… đưa ra rừng. Được cấp trên cho phép, đơn vị liên tục tổ chức vây đồn, lấy lúa ở các kho tập trung trong đồn, hay trước cổng đồn như các kho: Tân Lâm, Đại Mỹ, Phú Hoà, Vạn Khê, Hội Điền, Xuân Hoà… số lúa đưa ra căn cứ hàng ngàn giạ. Tuy tạm thời ta giải quyết được khó khăn về lương thực cho bộ đội một thời gian, nhưng việc lấy lúa của dân để trong đồn địch, tạo cho địch và bọn tay sai thêm cơ hội để chúng cướp bóc, siết chặt hơn nữa việc kiểm soát lúa gạo, làm cho nhân dân thêm nhiều khó khăn, mất mát ảnh hưởng rất không tốt.
Ở xã Phước Trung (nay là xã Ninh An) trung đội Tam Phước ngoài nhiệm vụ bảo vệ cán bộ về làng phá tề, trừ gian, đánh địch trong vùng sâu, hỗ trợ cho phong trào kháng chiến của nhân dân. Thường xuyên còn làm nhiệm vụ bảo vệ nhân dân sống bất hợp pháp ở Suối Trầu (Bình Sơn) và thùng Nhà Bùi. Đến mùa vụ, bố trí lực lượng bảo vệ cho nhân dân sản xuất, thu hoạch cất dấu. Từ năm 1948 đến 1951, đơn vị chống hàng chục trận càn của hàng đại đội địch, tiêu hao nhiều tên, hạn chế được tổn thất về người và của cải của nhân dân.
Về chống ngủ đồn, ta sử dụng rất nhiều hình thức uy hiếp địch, tạo điều kiện cho nhân dân đấu tranh như: sử dụng bộ đội, cán bộ du kích về làng gặp các chủ gia đình lớn tuổi ngủ tại nhà, tuyên truyền vận động gia đình tìm cách thuyết phục, ngăn chặn con em không để vào ngủ đồn. Phổ biến ca dao, hò vè, khẩu hiệu kêu gọi thanh niên chống ngủ đồn, như câu bài chòi có đoạn "Khổ thay chiếc gối tai bèo, để cho nam nữ mang theo ngủ đồn".
Rải truyền đơn kêu gọi binh lính, phóng thư cảnh cáo bọn tề ngoan cố ép dân đi ngủ đồn. Ban đêm bao vây quấy rối các đồn bót có nhà ngủ tập trung, ban ngày lót lực lượng ở các ngả đường vào đồn, khi thanh niên đi ngủ ta nổ súng tạo cớ cho thanh niên trở về và có lý lẽ để đấu tranh không đi ngủ đồn nữa.
Chống ngủ đồn chỉ đạt được kết quả tạm thời trong một thời gian ngắn, trước sự khủng bố ác liệt của địch, thanh niên lại tiếp tục đi ngủ. Nguyên nhân chính là do phong trào đang gặp khó khăn, hầu hết cơ sở cách mạng bị bắt giam cầm liên tục, số ở nhà bị địch khống chế gắt gao, nên ta không tạo được phong trào tự giác đấu tranh của nhân dân, mà chỉ bằng áp lực từ bên ngoài vào, nên dù bộ đội, cán bộ và du kích của ta tốn rất nhiều sức lực, kể cả hy sinh xương máu, nhưng kết quả không cao.
Riêng ở các thôn, xã có cán bộ, du kích bám được trong dân, tổ chức được mối liên hệ thường xuyên với cơ sở, hướng dẫn cho nhân dân đấu tranh, thì tình hình tuy khó khăn, phong trào kháng chiến cơ bản vẫn duy trì và phát triển được. Lực lượng không vào ngủ đồn ngày càng đông, việc cất giấu lúa gạo ngày một nhiều như: Thanh niên vùng ven đầm Nha Phu, ven biển Hòn Khói ban đêm đi đánh cá, ban ngày lánh ở ngoài đảo, ngoài cồn tránh bắt lính và đi ngủ đồn. Nhiều gia đình nông dân ở vùng Đông, mỗi lần thu hoạch, giấu lúa bó ngoài đồng, trong các lùm bụi ven sông lạch cho ta. Đào hầm, làm vách đôi cất dấu để tiêu dùng và đóng góp cho kháng chiến.
Các xã vùng Đông huyện hàng tháng vẫn có lương thực đưa ra căn cứ. Tháng 9.1950, lúc tình hình đang rất khó khăn, nhân dân vẫn đưa ra được 650 ký gạo, 1500 ký lúa. Trong đợt tổng động viên nhân tài vật lực do Liên khu phát động, xã Hoà Nhân (Hòn Khói) có mức đóng góp cao nhất so với các xã trong tỉnh, xếp thứ nhì trong Liên khu, được Liên khu tặng cờ khen thưởng.
Nhân dân các thôn ven căn cứ Hòn Hèo như: Ngọc Diêm, Hà Liên… không mua được gạo thì mua bánh tráng, bánh tét, bánh mì, đường, sữa… cho cơ quan, cho bệnh xá… Nhân dân vùng Tây, nơi phong trào khó khăn nhất, các mẹ, các chị không cam chịu thua địch, không giấu được lúa thì ăn khoai, ăn sắn… nhịn bớt phần gạo ít ỏi của gia đình bỏ vào lọ, vào chai dìm xuống nước, chôn dưới đất, hoặc bỏ trong thùng nước 2 đáy, để cán bộ về lấy. Các em chăn giữ trâu bò, dỡ theo nhiều cơm, hoặc bỏ cơm trong mõ trâu đưa ra rừng cho cán bộ có ăn tiếp tục chiến đấu.
Để có gạo đủ ăn và nuôi cán bộ, du kích, nhân dân không ngừng đấu tranh đòi nâng mức ăn hàng ngày lên. Một nông dân lớn tuổi ở thôn Hà Thanh (xã Ninh Đa) đấu tranh đòi tên đồn trưởng Hà Thanh nâng mức ăn lên gấp đôi mới đủ. Địch tin là ông không ăn hết, nhưng để có cớ đàn áp, dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân, tên đồn trưởng chấp thuận với điều kiện: nấu ăn tại chỗ, ăn không hết sẽ bị giết chết. Ông vui vẻ nhận lời và thực hiện ngay tại đồn. Ông ăn hết không một chút khó khăn. Tên đồn trưởng buộc phải cho tăng mức ăn lên phần nào theo yêu cầu của nhân dân. Những người chứng kiến hôm đó từ hồi hộp căng thẳng sợ ông bị giết, đến hết sức vui mừng vì ông đấu tranh thắng lợi, bàn tán với nhau "ông ăn vì dân vì nước nên ăn được nhiều, chứ hàng ngày ông ăn ít thôi".
Trong khu phố, số cơ sở và quần chúng cảm tình cách mạng trong tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, số người Hoa trong "Hội Hoa Việt thân thiện” vẫn giữ liên hệ với cách mạng, đóng thuế, quyên góp tiền bạc, thuốc men… ủng hộ chính quyền cách mạng. Các gia đình Thiên chúa giáo có người thân thoát ly tham gia kháng chiến như gia đình các anh Nguyễn Tòng, Nguyễn Đinh, Nguyễn Đấu, Nguyễn Đình Sa, La Thông… vẫn giữ quan hệ tốt với kháng chiến. Linh mục Nguyễn Quang Xuyên thỉnh thoảng vẫn liên lạc với đồng chí Đỗ Long, chủ tịch UBKCHC huyện và còn biết bao sự kiện đấu tranh muôn hình muôn vẻ của nhân dân khắp nơi trong huyện. Trong tình hình khó khăn đen tối, càng thấy rõ ánh sáng cách mạng trong lòng dân, có tác dụng giáo dục rất thiết thực đối với cán bộ, đảng viên và chiến sĩ bộ đội ta.
Trong vùng ta, nhân dân xã Hoà Tín tổ chức lối làm ăn tập thể dưới hình thức vần đổi công giúp nhau tăng gia sản xuất, giữ vững đời sống. Nhân dân thôn Ninh Tịnh góp vốn, góp công làm ăn tập thể, dưới hình thức hợp tác xã giản đơn, cấp thấp, phân phối theo ngày công, đảm bảo cuộc sống, tham gia kháng chiến. Năm 1950, Ninh Hoà được tỉnh công nhận có 3 tổ vần công và một hợp tác xã giản đơn trong căn cứ Hòn Hèo. Các cơ sở sản xuất tự túc của các cơ quan huyện, tỉnh, của bộ đội ở Đầm Vân, Ninh Tịnh, Hòn Ngang, Phú Nhơn, Gò Trơ, suối Dứa (Đá Bàn) vẫn tồn tại và phát triển góp phần cải thiện đời sống cán bộ, bộ đội ta. Trong căn cứ Hòn Hèo tình hình vẫn ổn định, nhiều lớp học bổ túc văn hoá, bồi dưỡng chính trị, nhiều cuộc sinh hoạt chính tri quy mô toàn huyện, toàn tỉnh như hội nghị cán bộ, đại hội Đảng… được tổ chức trang trọng, đầy đủ, an toàn và thắng lợi. Điều đó nói lên phong trào và công lao của nhân dân trong căn cứ đối với kháng chiến là hết sức to lớn.
Về công tác xây dựng Đảng, năm 1950, phong trào nhiều tổn thất nhưng là năm công tác phát triển Đảng đạt kết quả cao nhất. Toàn huyện phát triển được trên 700 đảng viên. Nhiều chi bộ có số lượng đảng viên hàng trăm người như chi bộ xã Hoà Nhân, xã Hoà Chính…
Trong sự hy sinh, tổn thất lớn của những năm này, bên cạnh một số ít trường hợp hoạt đầu hèn hạ của một số ít cán bộ gây ảnh hưởng xấu trong nhân dân, còn có biết bao tấm gương dũng cảm ngời sáng đời đời, như trường hợp của đồng chí Lê Đình Thu, quê ở Quảng Trị, Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ khoá 2, bị địch đánh úp cơ quan Huyện uỷ bắt được, dù bị tra khảo cực kỳ dã man, đồng chí vẫn đàng hoàng trả lời: "nếu biết tôi là cộng sản, thì người cộng sản không bao giờ khai báo cho kẻ thù" và đồng chí kiên cường chịu đựng mọi ngón đòn hiểm độc nhất của địch cho đến lúc hy sinh. Nhiều trường hợp cán bộ và du kích bị địch phát hiện dưới hầm bí mật, chúng kêu gọi đầu hàng, nếu không chúng sẽ thả lựu đạn tiêu diệt. Các đồng chí đã dũng cảm bung nắp hầm dùng lựu đạn diệt địch rồi hy sinh nhất quyết không đầu hàng địch, đã để lại những hình ảnh tốt đẹp trong lòng nhân dân đối với cách mạng.
Trong đấu tranh ác liệt, tình đoàn kết thương yêu nhau trong nội bộ Đảng, giữa cán bộ của Đảng đối với nhân dân càng thêm gắn bó. Tình đồng chí, nghĩa đồng bào sâu đậm lạ thường. Đội ngũ cán bộ, đảng viên qua thực tiễn đấu tranh được thử thách tôi rèn trưởng thành rất cơ bản.
Tuy vậy, tình hình vẫn ngày một căng thẳng, đường tiếp tế trên biển bị địch bao vây, phong toả gắt gao. Nhiều chuyến bị địch phục kích, bị gió bão đánh chìm thuyền, điều kiện tiếp tế bằng đường biển từ vùng tự do vào trở nên bấp bênh, không ổn định. Trên các trục giao thông đường bộ từ các nơi về Hòn Hèo và từ Hòn Hèo về các huyện thị thường bị địch phục kích, công văn, tài liệu bị rơi vào tay địch, nhiều đồng chí hy sinh không còn ai mai táng, bị cọp ăn, hay bị thối rữa, hài cốt nằm rải rác dọc đường trông rất đau lòng. Nhiều đồng chí gọi con đường Xuân Sơn - Dốc Mõ là con đường máu.
Trong chuyến hành quân của đoàn cán bộ quân sự từ Đá Bàn về Hòn Hèo đêm 20.1.1951 bị địch ở tháp canh Cầu Lớn phát hiện bắn vào đội hình, 2 chiến sĩ hy sinh, đồng chí Nguyễn Sắc Kim, Chính uỷ Trung đoàn 803 bị thương nặng, rồi cũng hy sinh.
Trong tháng 2.1951, đoàn cán bộ của tỉnh từ Hòn Hèo vào căn cứ Đồng Bò (Nha Trang) bằng đường biển bị tàu địch phục kích bắn chìm thuyền, nhiều cán bộ cốt cán của tỉnh hy sinh, trong đó có đồng chí Nguyễn Diện, nguyên Phó Bí thư Huyện uỷ Ninh Hoà, thành viên Ban Chấp hành Nông hội tỉnh. Đoàn tiếp theo không đi đường biển, mà qua đầm Nha Phu để vào bằng đường bộ, đến thôn Ninh Đức xã Ninh Lộc cũng bị địch phục kích, đồng chí Hồ Xưa, bí thư nông hội tỉnh hy sinh.
Năm 1950, một số xã, như xã Hoà Dũng không còn cán bộ hoạt động, huyện phải rút cán bộ thành lập đoàn cán bộ dân chính Đảng, do đồng chí Trần Sử, nguyên Chủ tịch UBKCHC huyện đang công tác ở tỉnh là người quê Hoà Dũng làm trưởng đoàn, về bám xã gây dựng lại phong trào.
Trước tình hính đó, Huyện uỷ sử dụng Đại đội Ninh Hoà vừa làm nhiệm vụ trừ gian đánh địch, vừa thường xuyên về làng tuyên truyền vận động quần chúng, giúp cho cán bộ tiếp nối cơ sở. Sống trong cảnh "cá chậu chim lòng", gặp được bộ đội, nhiều mẹ, nhiều chị chiến sĩ không cầm được nước mắt, như có dịp để nói lên tất cả tấm lòng người dân đối với kháng chiến, đối với Bác Hồ, nói lên bao nỗi đắng cay tủi nhục, bao nhiêu điều bất công ngang trái mà người dân phải chịu đựng trong vòng kiểm soát khắc nghiệt của địch.
Bộ đội gần dân, nghe bao điều dân kể, càng thấu hiểu nỗi khốn khổ và tấm lòng của dân đối với cách mạng, đối với Bác Hồ, càng yêu thương, tin tưởng nhân dân, càng căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu, "vì nhân dân quên mình", vượt qua bao gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.
XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐÁ BÀN. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRONG NHỮNG NĂM 1951 - 1952.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hòn Hèo là nơi đóng các cơ quan lãnh đạo của huyện, từ tháng 8.1948 đến đầu năm 1951, Hòn Hèo đồng thời là căn cứ lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến của tỉnh. Nhờ có căn cứ Hòn Hèo, phong trào kháng chiến của Ninh Hoà, trực tiếp là vùng Đông của huyện phát triển mạnh mẽ. Nhưng đến năm 1950, cuộc kháng chiến chuẩn bị chuyển sang giai đoạn mới, cũng là lúc đế quốc Mỹ lăm le can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Quy mô, tính chất và cường độ cuộc kháng chiến sẽ phát triển cao lên. Những nhu cầu để tiến hành cuộc kháng chiến như: Lực lượng chính trị, quân sự, phương tiện hậu cần phục vụ chiến đấu sẽ lớn. Mạch máu giao thông phục vụ chỉ đạo, chỉ huy phải có điều kiện bảo đảm an toàn, nhanh chóng… Do vậy, căn cứ Hòn Hèo trở nên nhỏ hẹp, dễ bị cô lập không còn phù hợp. Thực tế từ cuối năm 1949, giao thông đường bộ về Hòn Hèo thường bị ách tắc. Tiếp tế bằng đường biển từ Phú Yên vào không còn an toàn. Lực lượng của tỉnh chưa nhiều nhưng rất bị động về vấn đề lương thực, chi phối rất nhiều đến việc chỉ đạo phong trào chung, nhất là đối với các huyện phía nam. Do vậy, Tỉnh uỷ chủ trương chuyển toàn bộ các cơ quan của tỉnh, của huyện Ninh Hoà lên Đá Bàn, xây dựng nơi này thành căn cứ của tỉnh và cho cả hai huyện Bắc Khánh.
Đá Bàn là một thung lũng rộng hàng trăm km2 trải dài 2 bên bờ sông Đá Bàn, bốn bề có núi bao bọc. Phía Tây có núi Hòn Gục nối liền với dải núi Mẹ bồng con, phía Bắc là núi Hòn Chảo và đồng ruộng Xuân Sơn của huyện Vạn Ninh, phía Nam là dải núi Dốc Dài, từ đây có đường giao liên băng qua quốc lộ 21 để vào phía Nam tỉnh, phía Đông, nơi sông Đá Bàn thoát ra bên ngoài xuống đồng bằng gọi là Bến Ghe, từ đây có con đường đất rộng, nối với Quốc lộ 1 dài 10 km, có tên là đường Sứ. (32)
Đá Bàn là vùng rừng núi âm u, ẩm thấp, khí hậu nặng nề, cách xa đồng bằng hơn Hòn Hèo. Những thôn vùng giáp ranh với đồng bằng như Xuân Sơn, Cung Hoà, Hoà Sơn… đã bị địch biến thành vành đai trắng. Nhưng từ Đá Bàn ta có điều kiện mở đường tiếp vận nối với vùng tự do Phú Yên để tiếp nhận sự chi viện về lương thực, vũ khí của cấp trên, thuận tiện và an toàn hơn Hòn Hèo. Con đường hành quân của lực lượng chủ lực, của dân công tiếp vận từ Phú Yên vào chiến trường có điều kiện bảo đảm bí mật. Trục giao thông Bắc - Nam của Liên khu và Trung ương có điều kiện bảo vệ tốt các đoàn qua lại trên địa bàn tỉnh.
Trong trung tâm có vùng đất bằng màu mỡ có thể trồng lúa và hoa màu để giải quyết lượng thực tại chỗ.
(32) Đường này do Công sứ Bơ-rê-đa (Bréda) mở để khai thác gỗ trong thung lũng Đá Bàn, vì vậy nên có tên là đường Sứ.
Tháng 3,1951, sau bước chuẩn bị sơ bộ, các cơ quan của tỉnh, của huyện hành quân chuyển lên Đá Bàn. Địch theo dõi biết được liền huy động lực lượng mở cuộc càn vào Hòn Hèo nhằm đánh chặn cuộc hành quân của ta. Nhưng cuộc hành quân của các cơ quan đã kết thúc trong đêm trước. Địch không đạt được mục đích, còn bị các lực lượng của ta ở căn cứ Hòn Hèo, bám đánh tiêu diệt trên 80 tên.
Cùng lúc với các cơ quan chuyển lên Đá Bàn, số nhân dân sống bất hợp pháp ở thùng Nhà Bùi của xã Ninh Phước (tổng Phước Thiện) cũng được đưa vào trung tâm để cùng xây dựng căn cứ. Số đồng bào này cùng với lực lượng các trại sản xuất các cơ quan, các lực lượng vũ trang và các xã, bố trí thành các khu dân cư, vừa sản xuất, vừa làm nhiệm vụ bố phòng bảo vệ căn cứ. Lấy số dân còn lại khi đưa vào Đá Bàn 148 người, đặt tên cho căn cứ là Căn cứ 148.
Về tổ chức, căn cứ chia làm 3 khu: Khu Bắc, khu Trung và khu Nam. Mỗi khu có cán bộ chính quyền, đoàn thể như một thôn, dưới sự quản lý, điều hành của Uỷ ban căn cứ địa do đồng chí Nguyễn Văn Sửu làm bí thư. Tất cả số thanh niên và trại viên trại sản xuất được tổ chức thành du kích, trang bị súng, lựu đạn, bom, mìn… để làm nhiệm vụ bố phòng đánh địch. Toàn căn cứ có hai tiểu đội vũ trang tập trung cơ động do Trần Đình Xuân làm đội trưởng, làm nhiệm vụ canh gác các trục đường chính dẫn vào căn cứ, tổ chức hệ thống thông tin, báo động bằng hiệu kẻn mỗi khi máy bay, bộ binh địch xâm nhập căn cứ. Bảo vệ từ xa có du kích các xã vùng ngoại vi, các chốt, các đài quan sát của trinh sát, của quân báo huyện, tỉnh.
Việc xây dựng căn cứ Đá Bàn lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn. Khi mới đến, trừ con đường Dốc Mõ - Xuân Sơn thường xuyên bị địch phục kích, ta chưa có con đường nào khác để đi lấy lương thực từ vùng tự do Phú Yên vào, mà phải thu mua từ vùng đồng bằng của Ninh Hoà và Vạn Ninh đưa lên, trong lúc lúa gạo bị địch tập trung vào đồn kiểm soát rất chặt. Để có lương thực cho hàng ngàn người lúc ban đầu là một khó khăn hết sức gay gắt.
Về phương tiện và công cụ sản xuất, ngoài một số ít rựa rìu dùng để cất trại, làm nhà, còn trâu bò, cày bừa, giống má… chưa có gì.
Về nhân lực, lúc mới đến đa số cán bộ, nhân viên các cơ quan chưa quen lao động nặng nhọc, chưa biết phát rẫy, làm đất gốc, đất tranh để trồng trỉa hoa màu, chưa quen khí hậu, ăn uống thiếu thốn, đau bệnh nhiều. Số đồng bào trong căn cứ qua nhiều năm chịu đựng gian khổ, đói thiếu, sức khoẻ yếu ốm, thường đau bệnh.
Bên ngoài căn cứ, quân địch theo dõi sát sao, tìm mưu, tính kế quyết đánh phá ngăn chặn ngay từ khi ta khởi công xây dựng.
Nhưng vấn đề xây dựng căn cứ địa là vấn đề quan trọng trong công cuộc kháng chiến của địa phương. Vấn đề sản xuất tự túc lúc này là vấn đề sống còn của căn cứ. Do vậy, Tỉnh uỷ, Huyện uỷ đặt vấn đề sản xuất thành một nhiệm vụ trung tâm đột xuất của Đảng bộ và quyết tâm chỉ đạo thực hiện giành cho kỳ được thắng lợi.
Nhờ sự nỗ lực, tận tình của Uỷ ban căn cứ địa, sự giúp đỡ của nhân dân ven căn cứ, của đồng bào dân tộc thôn Ba Non, ta mua được một số giống cây trồng cạn như: Lúa gieo, lúa rẫy, các loại khoai củ như sắn mì, khoai lang, các loại rau đậu… và thông qua 2 cơ sở sản xuất của đại đội 360 ở vùng ruộng Cây Xoài (Suối Dứa) và của huyện đội Vạn Ninh tại gò Trơ và xã Ninh Phước, ta giải quyết được một số trâu bò và công cụ sản xuất ban đầu. Giống sắn mì ở Bắc Khánh thời ấy rất ít người trồng, ta phải gom góp từ vùng dân tộc xuống, từ Phú Yên vào. Sắn mì được coi là cây lương thực chiến lược của căn cứ, vì dễ trồng, nhiều củ, có điều kiện dự trữ ngay dưới đất.
Do sản xuất là nhiệm vụ quan trọng, nên khi mới đến Đá Bàn, bộ máy các cơ quan tỉnh, huyện tuy đã trải qua 2 đợt tinh giảm biên chế, lấy nhân lực làm sản xuất, vẫn phải rút gọn hơn nữa. Các cơ quan chính quyền, mặt trận, các đoàn thể… chỉ tồn tại trên danh nghĩa để tiếp xúc làm việc với cấp trên, cấp dưới, còn thực tế thì thống nhất lại thành bộ máy quân - dân - chính - đảng gồm 3 ban: Ban chính trị, Ban quân sự, Ban cung cấp. Tỉnh uỷ lại chủ trương thực hiện cơ chế "tam tam chế". Tất cả các đơn vị, cơ quan phải phân công một phần ba số người đi chiến đấu, phục vụ chiến đấu; một phần 3 đi sản xuất; một phần ba đi vác gạo và làm những công trình công cộng. Thời gian lao động được quy định, cán bộ chủ chốt mỗi tháng phải lao động sản xuất 5 ngày, cán bộ nhân viên mỗi tháng 8 ngày. Đến cao điểm thời vụ như phát, cốt, đốt dọn rẫy, làm cỏ, trồng trỉa… thì tất cả lực lượng đều phải tham gia.
Qua một thời gian phấn đấu cật lực, bước sang năm 1952, diện tích trồng trọt các loại được 500 mẫu (mẫu Trung bộ), sản lượng thu được 150 tấn lương thực, trong đó có 30 tấn màu quy thóc (lúc bấy giờ quy định: 1 ký gạo bằng 5 ký mì (sắn) tươi, 1,5 ký bắp hạt hoặc 4 ký khoai lang tươi). Cũng đến đầu năm 1952, tỉnh đã mở hoàn chỉnh con đường tiếp vận từ Phú Yên vào qua Dốc Nón, sau đó qua Dốc Chanh từ Mỹ Thành (Phú Yên) vào Đá Bàn, nối được với vùng tự do Liên khu 5, đã đem lại sức mạnh mới về tinh thần và vật chất, một sự ổn định về chỉ đạo của tỉnh, của huyện. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đối với cuộc kháng chiến của tỉnh ta, của 2 huyện Ninh Hoà và Vạn Ninh.
Đồng thời với xây dựng căn cứ Đá bàn, Tỉnh uỷ chủ trương hợp nhất 2 huyện Ninh Hoà và Vạn Ninh thành Liên huyện Bắc Khánh.
Lực lượng vũ trang, các ban ngành, đoàn thể cũng tổ chức lại theo huyện mới.
Thực hiện chủ trương của Ban Chỉ huy Tỉnh đội, tháng 5.1951, hai đơn vị vũ trang địa phương Ninh Hoà và Vạn Ninh hợp nhất thành một đơn vị, lấy phiên hiệu là Đại đội Lê Hồng Phong. Ban chỉ huy đại đội có Võ Cứ, Đại đội trưởng; Nguyễn Thặng, Chính trị viên; hai đồng chí Nguyễn Cụ và Nguyễn Văn Vịnh Đại đội phó.
Cơ quan Huyện đội hai huyện hợp thành liên huyện đội Bắc Khánh. Các tổ chức chuyên môn được tổ chức lại tinh gọn, số còn lại đưa xuống đơn vị chiến đấu, xuống các xã đội, đưa ra trại sản xuất… Ban chỉ huy liên huyện đội: Trần Đồng liên huyện đội trưởng, Nguyễn Thặng chính trị viên (kiêm chức) đồng chí Pháo liên huyện đội phó.
Tháng 8.1951, hai Huyện uỷ Ninh Hoà và Vạn Ninh mở Hội nghị đại biểu, có tư cách là Đại hội hợp nhất giữa hai Đảng bộ. Địa điểm họp tại hội trường 123 (Đá Trải, sông Đá Bàn) trên 150 đại biểu, đại diện cho gần 1800 đảng viên của 2 Đảng bộ về dự. Đại hội có đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, Uỷ viên Ban Chấp hành Liên khu uỷ 5, Bí thư Tỉnh uỷ đến dự khai mạc và phát biểu ý kiến chỉ đạo đại hội. Đồng chí Đặng Vinh Hàm, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Vạn Ninh và đồng chí Trần Nguyên Tích, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Ninh Hoà cùng chủ trì, hướng dẫn đại hội.
Trong 3 ngày làm việc, Đại hội đã kiểm điểm đánh giá kết quả sau một năm thực hiện nhiệm vụ "tích cực cầm cự, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công” nhất là kiểm điểm rút kinh nghiệm chỉ đạo công tác trong vùng địch hậu. Xây dựng phương hướng nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới. Những nhiệm vụ quan trọng được đại hội tập trung trí tuệ bàn kỷ là vấn đề công tác vùng sau lưng địch, phát triển lực lượng kháng chiến, đánh bại chính sách tập trung dân, tập trung lúa của địch, vấn đề củng cố xây dựng Đảng thành "Đảng quần chúng đông đảo và mạnh mẽ". Đại hội đi sâu quán triệt đường lối "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", "phương châm kết hợp giữa hai lực lượng chính trị và vũ trang", "phương châm kiên trì vận động cách mạng, xây dựng cơ sở trong vùng sau lưng địch", vấn đề xây dựng căn cứ địa…
Về xây dựng Đảng, trước đó do không quán triệt đầy đủ chủ trương xây dựng Đảng thành "Đảng quần chúng đông đảo và mạnh mẽ" theo Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ Liên khu 5, nên trong công tác phát triển Đảng, giữa hai huyện đều có chung một hiện tượng là từ hẹp hòi đóng cửa, sang mở rộng cửa kết nạp bừa bãi những người chưa đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Nhiều đảng viên mới chất lượng không hơn đoàn viên công đoàn, không tham gia sinh hoạt Đảng. Trong đấu tranh ác liệt, nội bộ Đảng ở một số nơi nẩy sinh nhiều hiện tượng tư tưởng tiêu cực như cầu an, bảo mạng, nằm im không dám hoạt động. Đại hội đặt mạnh nhiệm vụ củng cố Đảng, giáo dục, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, phẩm chất cho đảng viên.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ liên huyện, gồm các đồng chí: Đặng Vinh Hàm - Bí thư, Võ Lượng - Phó Bí thư, phụ trách chính quyền. Các uỷ viên Thường vụ: Nguyễn Thặng - Quân sự, Lê Dậu - Đảng vụ, Phạm Ích Khiêm - Mặt trận. Các đồng chí: Châu Văn Phi, Lê Hiến Thuần, Nguyễn Luận, Nguyễn Xuân Long, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Châu (Châu Râu), Nguyễn Bào, Phạm Ngọc Châu, ủy viên Ban Chấp hành.
Sau hợp nhất huyện, tháng 10.1951, Đại đội vũ trang địa phương Lê Hồng Phong lại hợp nhất với Đại đội 360 của Trung đoàn 80 thành Liên đại đội 1 Bắc Khánh. Ban chỉ huy liên đại: Hoàng Tiệp, Chỉ huy trưởng, Nguyễn Thặng, Chính trị viên; các đồng chí Vũ Tấn Hạc, Nguyễn Cụ, Nguyễn Văn Vịnh, Nguyễn Thanh Hà… Chỉ huy phó.
Liên đại biên chế thành một đại đội mạnh, gồm 5 trung đội chiến đấu, một trung đội trinh sát, có đủ các bộ phận chuyên môn như: Tổ câu lạc bộ, tổ tác huấn và bộ phận quản trị hành chính… do các đồng chí cấp phó phụ trách. Chi bộ liên đại có trên 150 đảng viên, đồng chí Chính trị viên Liên đại được bầu làm Bí thư chi bộ.
Liên đại còn tổ chức ra một số đội vũ trang xây dựng về đứng hoạt động ở các khu vực để cùng với cán bộ các xã bám làng, bám dân xây dựng cơ sở, phát triển dân quân, kèm cặp du kích, trừ gian, đánh địch hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh chống chính sách bình định, tập trung dân, tập trung lúa của địch. Vùng Tây Ninh Hoà một đội, do đồng chí Lê Hích làm Đội trưởng, Vùng Nam Ninh Hoà một đội, do Cao Văn Cầm làm Đội trưởng, vùng Bắc (Vạn Ninh) một đội, do đồng chí Đặng Hồng Lạc làm Đội trưởng.
Liên đại đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Tỉnh uỷ, Ban Chỉ huy Tỉnh đội, do Võ Văn Dật, Trung đoàn trưởng làm Tỉnh đội trưởng; Nguyễn Xuân Hữu, Bí thư Tỉnh uỷ làm Chính trị viên; Nguyễn Văn Vĩnh, Tiểu đoàn trưởng làm Tỉnh đội phó.
Từ sau khi hợp nhất thành Đại đội Lê Hồng Phong rồi Liên đại Bắc Khánh, đơn vị được cấp phát theo chế độ Vệ quốc đoàn thống nhất trên toàn Liên khu. Mỗi năm, mỗi cán bộ, chiến sĩ được cấp 2 bộ quần áo dài vải Cy-ta, 2 bộ đồ lót (quần đùi, áo cổ vuông) 2 đến 3 năm 1 áo ấm trấn thủ ngắn tay, 1 chăn đắp bằng vải Cy-ta chỉ đánh, may lề 2 đầu có thể làm võng nằm hay khiêng thương lúc cần. Lương thực, thực phẩm mỗi ngày 1,2 kg gạo (7 lạng nấu cơm, 5 lạng thức ăn. ( tính thành tiền theo thời giá thị trường vùng tự do Liên khu 5). Về quân khí, quân y, từng lúc được cấp hỗ trợ bom, mìn, lựu đạn, cuốc xẻng cá nhân. Y cụ, thuốc cấp cứu, thuốc trị bệnh, cùng một số chế độ cấp phát khác như phụ cấp tiêu vặt, công tác phí.
Đầu năm 1952, Căn cứ 148 vượt qua được những khó khăn thử thách ban đầu, sản xuất phát triển khá, đời sống vật chất trong căn cứ và của lực lượng vũ trang bước đầu được cải thiện. Trên một vùng căn cứ rộng lớn đã được bố phòng chặt chẽ bằng các tuyến chông mìn, cạm bẫy. Lực lượng vũ trang có nơi đứng chân ổn định, có điều kiện thực hiện sự kết hợp giữa tác chiến và xây dựng, giữa chiến đấu với sản xuất tự túc, có nơi nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh. Sức chiến đấu của bộ đội được phục hồi và tăng lên rõ rệt. Ở căn cứ đã có xưởng quân giới sửa chữa vũ khí. Có bệnh xá, trại từ hàng binh… phục vụ chiến đấu thuận lợi.
Các xã phía Tây và Tây Nam huyện, nhiều năm liền phong trào kháng chiến của nhân dân, đời sống của cán bộ, du kích rất khó khăn nay có căn cứ 148 làm chổ dựa, các xã về đây mở cơ sở sản xuất, chăn nuôi, giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho xã, khắc phục được tình trạng hàng đêm phải về làng chạy gạo ăn rất vất vã, lực lượng liên tục bị tiêu hao.
Đến năm 1952, các xã tình hình khó khăn nhất trước đó như: Hoà Dũng, Hoà Trí và xã Hoà Nhân đã làm được 28 mẫu ruộng, 32 mẫu đất, 62 mẫu rẫy. Xã Ninh Phước được 10 mẫu ruộng, 9 mẫu đất, 6 mẫu rẫy. Do đất mới, hoa màu tươi tốt, sản lượng thu hoạch khá, đời sống cán bộ, du kích được cải thiện, có điều kiện tập trung vào việc sinh hoạt học tập, huấn luyện và làm nhiệm vụ chính của địa phương, không phải mất nhiều thời gian và tốn nhiều xương máu vào việc chạy ăn như trước.
Năm 1952, sản xuất trong căn cứ phát triển, có nguồn tiếp tế từ vùng tự do Phú Yên vào, lại đồng thời cũng bắt đầu có sự trao đổi, mua bán giữa vùng ta và vùng địch, ảnh hưởng của căn cứ 148 càng rộng rãi trong nhân dân, có sức thu hút sự quan tâm, tin tưởng và sự tham gia, ủng hộ kháng chiến của nhân dân trong vùng địch kiểm soát.
Tháng 12.1951, Tỉnh uỷ mở Đại hội đại biểu lần thứ 2 tại hội trường trảng tranh gần Đá Trải, nội dung Đại hội nhằm kiểm điểm sự lãnh đạo chiến tranh của Đảng bộ từ sau Đại hội lần thứ nhất (3.1950) và đề ra nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới. Trong báo cáo chính trị của đại hội có khẳng định sự đúng đắn và thắng lợi của quyết định xây dựng căn cứ Đá Bàn và chỉ ra nhiều mặt tồn tại yếu kém như: phương châm kiên trì vận động cách mạng chưa được quán triệt trong toàn Đảng bộ. Việc truyền đạt nhiệm vụ "chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công" vội vàng, lạc quan đơn giản có ảnh hưởng đến tư tưởng chỉ đạo chủ quan nóng vội của Đảng bộ.(33)
Đối với lực lượng vũ trang, nặng xây dựng lực lượng tập trung, xem nhẹ xây dựng dân quân, du kích, tách rời cơ sở quần chúng với cơ sở dân quân, những khuyết điểm trong việc rút quá sớm lực lượng vũ trang huyện và du kích xã để bổ sung cho các đơn vị tập trung của trung đoàn 80… Bằng mạnh dạn, thẳng thắng vạch ra những mặt yếu kém khuyết điểm trên đây Đại hội đề ra phương hướng và các giải pháp khắc phục để đưa cuộc kháng chiến trong tỉnh đáp ứng kịp thời yêu cầu chung to lớn và bức bách lúc bấy giờ.
Thắng lợi của Đại hội cùng với thắng lợi của việc xây dựng thành công bước đầu Căn cứ 148, tạo ra một sự chuyển biến mới đối với tinh thần, tư tưởng của cán bộ, của lực lượng vũ trang và nhân dân trong và ngoài căn cứ, mở ra một thế mới để tiến hành cuộc đấu tranh đánh bại âm mưu bình định của địch.
Đặc biệt là từ Đại hội này, Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam, ra công khai hoạt động. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng có điều kiện đến rộng rãi với các tầng lớp nhân dân, càng thu hút đông đảo quần chúng đoàn kết đấu tranh dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, mà nhân dân Bắc Khánh nói chung, Ninh Hoà nói riêng đã có truyền thống đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng từ lúc Đảng mới thành lập năm 1930.
Kết hợp với đợt sinh hoạt đổi tên Đảng, Đảng bộ phát động đợt tự phê bình và phê bình khắc phục những yếu kém trong nội bộ Đảng cũng như trong các tổ chức quần chúng, các lực lượng vũ trang nhằm chuyển cuộc kháng chiến của Bắc Khánh sang giai đoạn mới.
Đối với địch, Căn cứ 148 hình thành, nối với các căn cứ Hòn Lớn ở phía Nam và Hòn Hèo ở phía Đông huyện, tạo ra một thế dựa vững chắc cho cuộc kháng chiến, đặc biệt là nối liền với vùng tự do rộng lớn của Liên khu 5 là một nguy cơ uy hiếp trực tiếp rất nghiêm trọng đối với vùng kiểm soát của chúng, nên ngay từ đầu địch tìm cách đối phó, đánh phá quyết liệt vào thành quả quan trọng này của ta.
(33) Lịch sử Đảng bộ Khánh Hoà 1945 –1954.
Một mặt chúng tăng cường thêm quân số, củng cố công sự phòng thủ các đồn giáp ranh căn cứ như: Mỹ Đồng, Lạc Ninh, Phú Sơn, Quảng Cư, Tân Lâm… tạo thành một vành đai cứ điểm mạnh, vừa để bao vây căn cứ của ta vừa để đủ sức phòng giữ vùng chúng chiếm đóng. Trong đó chúng xây dựng đồn Lạc Ninh thành một cứ điểm kiên cố nhất ở khu vực này, án ngữ trước cửa ngõ căn cứ 148, nằm trên trục hành lang giữa 2 căn cứ 148 và Hòn Hèo, nhằm trực tiếp khống chế và ngăn cách giữa 2 căn cứ này của ta, vừa để bảo vệ con đường giao thông huyết mạch Ninh Hoà - Vạn Ninh, cả đường sắt và đường bộ của chúng. Chúng đưa tiểu đoàn khinh quân số 9 chủ lực nguỵ đến đóng giữ và trang bị cho cứ điểm này khẩu pháo 75 ly để cùng với máy bay luân phiên bắn phá căn cứ 148, đồng thời bố trí tại đây một đơn vị biệt kích (Commandos) hàng ngày hoạt động sưu sách, đánh phá giao thông bên ngoài căn cứ của ta và bảo vệ cứ điểm của chúng.
Mặt khác, chúng tập trung lực lượng bộ binh tấn công càn quét liên tục vào trung tâm căn cứ.
Hàng ngày địch cho máy bay trinh sát L19 (Đầm già) quần lượn thả trái khói chỉ điểm cho pháo đồn Lạc Ninh bắn phá, cho máy bay khu trục oanh tạc, dội bom xuống các khu vực dân cư, những nơi dân đang sản xuất để giết người, sát hại trâu bò, phá hoại hoa màu của ta. Trại sản xuất xã Liên An ở khu Trung, do hầm trú ẩn chỉ có một cửa vào, không có cửa thoát, bị bom xăng đặc của địch trút trúng cửa hầm, 4 trại viên, một trưởng trại và một đôi bò cày dưới hầm bị chết cháy.
Tháng 4.1952, một đại đội biệt kích Pháp xuyên núi từ chân dốc Chanh, dọc theo sông Đá Bàn tiến xuống tập kích ban ngày vào các cơ quan lãnh đạo tỉnh. Địch bị tự vệ cơ quan phát hiện nổ súng chặn lại, chúng bắn xối xã vào cơ quan rồi rút ngay, vì sợ lực lượng ta chận đường về tiêu diệt.
Tháng 9.1952, địch huy động hàng ngàn quân nguỵ chia làm hai cánh: Một cánh xuyên núi từ dốc "Ông Thượng", cách Bến Ghe khoảng 1 km về phía Bắc đổ xuống tiến vào. Cánh chính diện từ Bến Ghe lên phối hợp với nhau tiến vào trung tâm căn cứ, hợp điểm tại khu Trung (rẫy ông Đàn). Địch sử dụng quân lính dùng những phương tiện đã chuẩn bị sẵn, chặt phá hoa màu, đốt phá trại sản xuất. Chúng hùng hổ xáp vào tàn phá, không ngờ từ trong lán trại, chuồng gà, rẫy bắp… đâu đâu cũng có các loại vũ khí để tiêu diệt chúng. Nhiều tên bị mang cung, sập hầm chông quay, chông bàn, bị vướn mìn, lựu đạn nổ, đứa chết, đứa bị thương một cách ghê rợn, khủng khiếp… địch đi đến nơi nào cũng bị du kích bắn tỉa, tiêu hao mà không dám đuổi theo vì sợ chông mìn, nhiều khi tránh đạn du kích, lại vướn phải mìn gài chết còn đậm hơn nhiều.
Trong ngày thứ nhất, Liên đại Bắc Khánh do đồng chí Nguyễn Tam chỉ huy trưởng, Lưu Văn Trọng chính trị viên, phát hiện địch tập trung ở khu vực rẫy ông Đàn, đã sử dụng lực lượng tập kích ban ngày vào khu vực này. Ban đêm dùng cối 60 ly pháo kích vào trận địa phòng thủ của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Trong các trận ta hy sinh 4 cán bộ chiến sĩ, trong đó có 2 cán bộ trung đội, 1 y tá, 1 liên lạc.
Ngày hôm sau, ta phân tán lực lượng tiếp tục tiêu hao địch, thương vong của chúng mỗi lúc một tăng cao, địch không dám bung ra rộng vì sợ mìn của du kích, và cũng vì nhìn thấy hoa màu, nhất là sắn mì xanh tốt bạt ngàn như rừng, không sức nào tàn phá nổi. Địch chỉ chặt phá qua loa dọc các đường đã đi, rồi kết thúc trận càn.
Địch phá hoa màu của ta không đáng kể, nhưng sinh lực của chúng bị ta tiêu hao khá nặng. Nhiều ca thương vong trông rất khủng khiếp, nhiều tên sập hầm chông sắt có ngạnh, phải khiêng cả bàn chông về để cắt ra chữa trị. Binh lính địch từ đó rất sợ hãi khi phải đi càn vùng căn cứ của ta.
Trong trận càn, binh lính tận mắt nhìn thấy nguồn lương thực dồi dào của căn cứ, về nhà trầm trồ ca ngợi, nhân dân trong vùng địch kiểm soát nghe được rất phấn khởi, càng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Sau trận càn, ta tổ chức rút kinh nghiệm, điều chỉnh bổ sung kế hoạch bố phòng, kế hoạch thông tin báo động từ xa để nhân dân và các trại sản xuất có thời gian đưa gia súc, gia cầm đi sơ tán, hoặc xuống hầm, kịp gài mìn, đặt bàn chông để đánh địch bảo vệ hoa màu, bảo vệ tài sản. Rút kinh nghiệm lần thiệt hại của trại sản xuất xã Liên An, các hầm trú ẩn được xây dựng nhiều ngách, nhiều cửa, để chống bom xăng của địch. Một số trâu bò, heo gà lâu ngày cũng thành thói quen, mỗi lần nghe tiếng máy bay oanh tạc, tiếng kẽn báo động thì chạy vào rừng, khi nghe có tiếng người quen về trại thì lục tục kéo ra.
Tháng 11.1952, địch lại tập trung lực lượng đánh tiếp vào căn cứ. Lần này các mặt chuẩn bị của ta trong căn cứ tốt hơn, chủ động và có cách đánh sáng tạo hơn. Du kích dựa vào cơ cấu các tuyến bố phòng, bố trí lực lượng chận đánh, đẩy địch vào các bãi mìn đã bố trí sẵn, gây cho chúng bị thương vong rất cao.
Qua 3 trận càn trong năm 1952, các hình thức diệt địch của chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích trong căn cứ phát triển rất đa dạng, phong phú. Những loại vũ khí như hầm chông, cạm bẫy… những cách đánh bằng vũ khí thô sơ người dân nào cũng làm được, cũng đánh được, nhưng hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần địch rất lớn.
Từ thực tiễn đó, cách bố phòng, đánh địch của quân và dân trong căn cứ được tổng kết rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện và phát huy hiệu quả ngày một cao. Căn cứ 148 được bảo vệ, hiên ngang tồn tại làm chổ dựa vững chắc cho phong trào kháng chiến của tỉnh, trực tiếp là của 2 huyện Ninh Hoà và Vạn Ninh cho đến lúc kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp tháng 7.1954.
Bên ngoài căn cứ, địch đã không ngăn nổi sự lớn mạnh nhanh chóng của hậu phương vùng ta. Trong vùng chúng kiểm soát, tuy địch có thành công một phần trong việc bắt lính, cướp tài sản, thóc gạo, gây hoang mang dao động trong một bộ phận quần chúng, nhưng do áp bức bóc lột lâu ngày, mâu thuẫn giữa địch với nhân dân ngày một sâu sắc, đấu tranh của quần chúng tuy lẻ tẻ, tự phát nhưng đều khắp trong huyện. Tính chất chính trị và tính quyết liệt của các cuộc đấu tranh ngày một cao. Làn sóng dư luận phản đối chính sách bóc lột của địch ngày một gay gắt và rộng rãi trong toàn dân. Nhiều nơi, vì quá căm tức địch, nhiều người đã không còn kể gì khủng bố tù đày đã đấu tranh chống chế, nguyền rủa bọn tề nguỵ đi thu tiền của dân. Gia đình tề nguỵ cũng khuyên can chồng, con bớt những hành động gây thù hằn đối với đồng bào. Nhân dân các thôn xã ven căn cứ Đá Bàn đưa ra lý lẽ rằng: ở Căn cứ Đá Bàn, Việt Minh dư thừa lương thực đâu cần lấy lúa gạo của dân, để đấu tranh giữ lúa gạo tại nhà ngày một nhiều. Bọn tay sai cũng lơ dần không còn kiểm soát gắt gao như trước. Một số tên đầu sỏ cũng dè chừng vì sợ dân quá câm tức giết chết rồi chạy lên căn cứ Đá Bàn.
Trong tình hình có nét khởi sắc ban đầu ấy, Tỉnh uỷ phối hợp với huyện tổ chức 2 tổ cán bộ dân đảng của tỉnh xuống xây dựng xã điển hình ở 2 xã Hoà Trí và Ninh Phước. Bám trụ một thời gian dài cùng với xã đào hầm bí mật từ bìa rừng rồi lấn dần vào các thôn vùng sâu xây dựng cơ sở. Tổ xuống xã Hoà Trí, do đồng chí Đức Trí, Tỉnh uỷ viên phụ trách, tổ xuống xã Ninh Phước do đồng chí Nguyễn Duy Kỷ làm Tổ trưởng.
Từ năm 1951, theo lệnh Ban Chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội Liên huyện Bắc Khánh sử dụng Đại đội Lê Hồng Phong mở đợt hoạt động phá tề, trừ gian, đánh địch ở phía Nam huyện. Tháng 7.1951, đơn vị lót lực lượng ban ngày trong làng Vạn Khê chận đánh toán địch bảo vệ tên Tổng vùng này đi lễ cưới, diệt một số tên, bắt một tù binh, thu 1 tiểu liên (tên Tổng chạy thoát).
Ban Chỉ huy Tỉnh đội sử dụng bộ phận lực lượng của Đại đội 297, do Trương Tòng chính trị viên, Nguyễn Nghĩa làm đội phó, tổ chức thành 2 đội vũ trang tuyên truyền xuống đứng hoạt động hỗ trợ cho phong trào vùng Tây và vùng Nam của huyện.
Riêng xã Ninh Phước nằm ở cửa ngõ Căn cứ, tham gia đóng góp công sức rất lớn vào nhiệm vụ xây dựng Căn cứ Đá Bàn. Ngoài 148 người dân của các thôn Cung Hoà, Quảng Thiện, Gia Mỹ… trực tiếp tham gia xây dựng, bảo vệ bên trong Căn cứ, nhân dân trong vùng địch kiểm soát còn giúp cho căn cứ giải quyết những khó khăn ban đầu về lương thực, thực phẩm, công cụ, sức kéo, các loại giống cây trồng. Du kích xã và trung đội Tam Phước thường xuyên làm nhiệm vụ bố phòng, tuần tra phát hiện đánh biệt địch kích phục kích vùng giáp ranh, xâm nhập căn cứ, bảo vệ an toàn vùng ngoại vi căn cứ và trục hành lang liên lạc giữa Đá Bàn với căn cứ Hòn Hèo. Phối hợp chống càn tiêu hao nhiều sinh lực địch, nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong nhiệm vụ vẽ vang này.
Từ khi Căn cứ 148 nối liền với vùng tự do Phú Yên, có sự chi viện về tinh thần và vật chất của Liên khu uỷ 5, của nhân dân vùng tự do Phú Yên đối với tiền tuyến Khánh Hoà, lực lượng của tỉnh nhất là của Liên huyện Bắc Khánh có điều kiện phát triển về nhiều mặt. Tỉnh uỷ và Liên Huyện uỷ Bắc Khánh chủ trương tranh thủ điều kiện thuận lợi này, gấp rút củng cố, xây dựng lực lượng, chuẩn bị tiến lên giành thắng lợi mới.
Năm 1952, thực hiện chủ trương chỉnh huấn chính trị, huấn luyện quân sự của Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Tỉnh uỷ và Liên huyện uỷ Bắc Khánh đã lần lượt cử tất cả cán bộ từ cấp đại đội trở lên về liên khu dự các lớp chỉnh huấn đột kích ngắn ngày, các lớp nghiên cứu học tập chính sách cải cách ruộng đất "phóng tay phát động quần chúng đòi giảm tô, giảm tức" để trở về tổ chức giáo dục lại cho đơn vị. Đưa toàn bộ lực lượng vũ trang cả phía Nam, phía Bắc tỉnh ra vùng tự do Phú Yên, biên chế lại tổ chức, chỉnh huấn chính trị, huấn luyện quân sự, tăng trang bị vũ khí nhằm tăng năng lực tác chiến cho các đơn vị.
Số cán bộ trung đội, tập trung dự lớp chỉnh huấn ngắn ngày do tỉnh mở tại Nhất Sơn, xã Hoà Tân (Phú Yên) cán bộ xã dự các lớp nghiên cứu, học tập tình hình nhiệm vụ, công tác vùng địch, do tỉnh mở tại Đá Bàn. Các đội vũ trang xây dựng và du kích thoát ly của các xã được củng cố, huấn luyện, học tập tại chổ. Quân số được bổ sung tăng cường, rút từ các cơ quan ra, từ số thanh niên dưới làng thoát lý lên. Qua học tập, lập trường giai cấp, trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác chiến đấu được nâng lên bước mới.
Qua một năm thực hiện nghị quyết của các Đại hội Đảng tỉnh, huyện, các nghị quyết và chỉ thị công tác tiếp theo của Tỉnh uỷ. Đảng bộ Bắc Khánh vừa chỉ đạo các hoạt động trong vùng địch kiểm soát, vừa củng cố và xây dựng lực lượng, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng căn cứ, phát triển sản xuất… giành nhiều thắng lợi quan trọng.
Tình hình trong vùng địch kiểm soát, đến cuối năm 1952, có bước chuyển biến mới và đang có xu thế vươn lên. Nhưng chính sách bình định, tập trung dân, tập trung lúa của địch chưa bị đánh bại. Đó là một tồn tại, một trở ngại chính của phong trào kháng chiến của nhân dân, được cuộc hội nghị tổng kết cuối năm của Liên Huyện uỷ Bắc Khánh kiểm điểm, chỉ ra nguyên nhân và đặt kết hoạch giải quyết trong năm tiếp theo.